MỞ ĐẦU .1
1. Lý do lựa chọn đề tài.1
2. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài .2
3. Tổng quan nghiên cứu .2
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.5
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu.6
6. Câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu, Khung lý thuyết .6
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.8
8. Kết cấu của luận văn.9
CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.10
1.1 Lý thuyết áp dụng .10
1.1.1 Lý thuyết cấu trúc – chức năng.10
1.1.2 Lý thuyết về sự sai lệch xã hội.12
1.2. Khái niệm công cụ của đề tài .13
1.2.1Trật tự xã hội.13
1.2.2 Duy trì trật tự xã hội .18
1.2.3 Bến xe khách .18
1.3 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng, phát triển và giữ gìn trật tự
an toàn xã hội tại bến xe. .19
1.4 Vài nét về địa bàn nghiên cứu.25
CHưƠNG 2. THỰC TRẠNG DUY TRÌ TRẬT TỰ XÃ HỘI.27
TẠI BẾN XE MỸ ĐÌNH HIỆN NAY.27
2.1 Khái quát chung về hành khách sử dụng dịch vụ vận tải hành khách tại
bến xe Mỹ Đình.27
2.1.1 Giới tính.27
2.1.2 Độ tuổi .28
2.1.3 Trình độ học vấn, Nghề nghiệp.29
2.2 Tần suất và lý do sử dụng dịch vụ vận tải hành khách tại bến xe Mỹ Đình30
33 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 631 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Duy trì trật tự xã hội tại bến xe Mỹ đình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể chế và
nguồn lực.
Nhắc đến trật tự ATGT thì không thể không kể đến hàng loạt công trình
nghiên cứu của Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải (TDSI) như:
“Nghiên cứu áp dụng và triển khai các giải pháp đảm bảo ATGT thí điểm trên quốc
lộ 51” (2007); “Nghiên cứu đánh giá mức độ ATGT và lựa chọn các giải pháp bảo
đảm ATGT đường bộ” (2010); “Nghiên cứu phương pháp đánh giá kết quả đầu tư
của dự án ATGT” (2010), Các nghiên cứu này đã đề xuất khá toàn diện về các
giải pháp đảm bảo an toàn giao thông, và cũng đề cập đến một số khả năng kết hợp
giữa các giải pháp.
Đề tài khoa học cấp Bộ “Những giải pháp tăng cường công tác đảm bảo trật
tự an toàn giao thông đường bộ của lực lượng cảnh sát giao thông giai đoạn 2001-
2010” do tác giả Vũ Sĩ Doanh chủ nhiệm và cuốn sách “Trật tự, an toàn giao thông
5
đường bộ trên địa bàn 5 thành phố trực thuộc Trung ương - Thực trạng và giải
pháp” của Trung tâm Nghiên cứu an toàn giao thông giai đoạn 2011-2013 đã đề cập
đến tình hình trật tự an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam nói chung và 5 thành
phố trực thuộc Trung ương nói chung từ đó nêu ra những giải pháp để nâng cao
công tác đảm bảo an toàn giao thông trong cả nước.
Từ khi được chính thức đưa vào khai thác đến nay, bến xe Mỹ Đình đã ngày
càng khẳng định được vị trí quan trọng trong việc phát triển dịch vụ vận tải hành
khách. Bên cạnh những mặt tích cực thì hiện nay, bến xe Mỹ Đình vẫn còn tồn tại
những mặt tiêu cực. Loạt bài điều tra về “Vụ “vỡ trận” ở bến xe Mỹ Đình” dài 27
bài được đăng tải trên báo điện tử Dantri.com.vn vào năm 2013 đã phần nào hé lộ
những tiêu cực đang diễn ra tại bến xe hiện đại nhất Hà Nội này.
Những vấn đề về trật tự xã hội, an toàn giao thông nói chung đã và đang được
nhiều ngành khoa học quan tâm và nghiên cứu. Tuy nhiên nghiên cứu về trật tự xã
hội tại bến xe Mỹ Đình thì chưa có, mà chủ yếu chỉ được phản ánh qua các bài báo,
bài phóng sự dài kỳ. Dù còn rất hạn chế về mặt tư liệu nhưng với việc kế thừa
những thành tựu liên quan đã có từ trước, luận văn sẽ tiến hành phân tích về thực
trạng trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình, từ đó mô tả được nguyên nhân, yếu tố tác
động đến việc duy trì trật tự xã hội tại nơi đây.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng cũng như các yếu tố tác động tới việc duy trì trật tự xã
hội tại bến xe Mỹ Đình, từ đó đưa ra các khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao việc
tổ chức, quản lý về trật tự an toàn xã hội tại đây.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Mô tả khái quát về hành khách sử dụng dịch vụ vận tải hành khách tại bến xe
Mỹ Đình thông qua các đặc điểm nhân khẩu học như: Giới tính, Tuổi, Nghề
nghiệp, Trình độ học vấn, Tình trạng hôn nhân.
- Tìm hiểu thực trạng duy trì trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình thông qua một
số tiêu chí như: Mua và sử dụng vé trước khi lên xe, Mức độ lên xuống xe đúng nơi
6
quy định, Giữ gìn khu vực bến xe, cũng như tìm hiểu những vấn đề bất cập đang
diễn ra tại đây.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi vi phạm nội quy, quy định của
hành khách tại bến xe Mỹ Đình: đặc điểm cá nhân; Thời gian, tần suất đi xe khách.
- Đánh giá vai trò của ban quản lý bến xe trong việc duy trì trật tự xã hội tại
bến xe Mỹ Đình thông qua ý kiến của hành khách sử dụng dịch vụ tại đây.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao việc tổ chức, quản lý về trật tự xã
hội tại bến xe Mỹ Đình.
5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Duy trì trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình
Trong giới hạn của đề tài này, cùng như những khó khăn gặp phải trong khi
nghiên cứu, tôi xin phân tích trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình dựa trên việc đánh
giá tình hình trật tự xã hội cũng như việc thực hiện quy định của bến xe thông qua
nghiên cứu khách thể là hành khách sử dụng dịch vụ vận tải tại bến xe Mỹ Đình.
5.2 Khách thể nghiên cứu
Hành khách sử dụng dịch vụ tại bến xe Mỹ Đình
5.3 Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Bến xe Mỹ Đình
Thời gian: Tháng 3/2016 – 10/2016
Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình thông qua
nghiên cứu hành khách đi xe.
6. Câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu, Khung lý thuyết
6.1 Câu hỏi nghiên cứu
Thực trạng trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình hiện nay đang diễn ra như thế
nào?
Những yếu tố nào tác động đến hành vi vi phạm quy định, nội quy tại bến xe
Mỹ Đình?
7
Hành khách đánh giá như thế nào về hiệu quả hoạt động của ban quản lý bến
xe trong việc giữ gìn trật tại bến xe Mỹ Đình?
6.2 Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay, tại bến xe Mỹ Đình còn tồn tại rất nhiều hành vi vi phạm nội quy,
quy định đã đề ra, đặc biệt là hành vi không xếp hàng mua vé trước khi lên xe và
lên, xuống xe không đúng nơi quy định.
Nhóm tuổi và nghề nghiệp là hai yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến hành vi
tuân thủ hay không tuân thủ nội quy, quy định của bến xe Mỹ Đình
Hành khách đánh giá cao vai trò của ban quản lý bến xe trong công tác duy trì
trật tự tại bến xe Mỹ Đình.
6.3Khung lý thuyết
Hiện tại, bến xe Mỹ Đình đã và đang cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác
nhau như: Dịch vụ đón, trả khách; Dịch vụ bán vé, Dịch vụ ăn uống, cũng như
các dịch vụ liên đới khác như Taxi, Xe ôm. Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài, tác
giả xin được nghiên cứu sâu hơn vào 2 vấn đề, đó là: Xếp hàng mua vé trước khi
lên xe và Lên, xuống xe đúng nơi quy định.
Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
Chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
Đặc điểm nhân khẩu
học xã hội:
- Giới tính
- Tuổi
- Trình độ học vấn
- Nghề nghiệp
- Tình trạng hôn nhân
Duy trì
trật tự xã
hội tại
bến xe
Mỹ Đình
hiện nay
Xếp hàng mua vé
trước khi lên xe
Lên, xuống xe
khách đúng nơi quy
định
- Lý do đi xe
khách tại bến
Mỹ Đình
- Thời gian,
tần suất đi xe
khách
8
7. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp luận
- Đề tài dựa vào lý luận Mac-Lenin về sự biến đổi xã hội và vận dụng quan
điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về tổ chức, quản lý vận tải bằng xe ô
tô và dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ.
- Vận dụng một số lý thuyết xã hội học: lý thuyết cơ cấu chức năng và Lý
thuyết sai lệch xã hội.
7.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp Phân tích tài liệu
Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu khái quát những vấn đề liên quan
đến nội dung nghiên cứu của đề tài thông qua các bài viết trên các báo điện tử, trang
web liên quan đến bến xe Mỹ Đình. Đồng thời, qua đó có được sự so sánh, đối
chiếu làm phong phú nội dung đang tiến hành tìm hiểu.
- Phương pháp Phỏng vấn bằng bảng hỏi
Để thu thập thông tin định lượng cho nghiên cứu, tác giả thực hiện phương
pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi đối với những hành khách đang sử dụng dịch vụ vận
tải hành khách tại bến xe Mỹ Đình. Mục đích của phương pháp này nhằm đánh giá
thực trạng duy trì trật tự xã hội của như đánh giá vai trò của ban quản lý trong việc
giữ gìn trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình. Thông tin thu thập gồm có các nội dung
như lý do đi xe khách tại bến Mỹ Đình, thời gian, tần suất đi xe; việc xếp hàng mua
vé trước khi lên xe; lên xuống xe khách đúng nơi quy định. Thời điểm phát bảng hỏi
từ tháng 4 năm 2016 cho đến tháng 7 năm 2016. Kết quả thu được 210 bảng hỏi.
Cơ cấu mẫu thu được như sau:
STT Tiêu chí Số lƣợng %
1 Giới tính Nam 96 45.7
Nữ 114 54.3
2 Độ tuổi Từ 18-24 75 35.7
Từ 25-35 87 41.4
Từ 36 trở lên 48 22.9
9
3 Tình trạng hôn
nhân
Chưa kết hôn 104 49.5
Đã kết hôn 106 50.5
Ly hôn/ Ly thân/ Góa 0 0
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu theo phương pháp Quả bóng tuyết với một
nhóm mẫu được chọn ban đầu sau đó sẽ giới thiệu những đối tượng khác cũng đáp
ứng yêu cầu của đề tài.
Xử lí thông tin định lượng:Các số liệu thu thập được từ phỏng vấn theo bảng
hỏi được xử lý bằng chương trình xử lý thống kê SPSS. Từ đó, xử lý các số trung
bình, tần suất, tương quan theo những yêu cầu của nghiên cứu.
- Phương pháp Phỏng vấn sâu
Sau khi có được những kết quả từ phương pháp điều tra bảng hỏi, đề tài tiến
hành phỏng vấn sâu để bổ sung các dữ liệu định tính. Do đó, phương pháp phỏng
vấn sâu được lựa chọn để làm rõ hơn những thông tin định lượng đã thu thập được.
Số lượng và đối tượng phỏng vấn sâu trong nghiên cứu: 11 trường hợp (trong
đó bao gồm: 05 hành khách đi xe khách tại bến Mỹ Đình; 01 lái xe khách; 01 phụ
xe khách; 01 xe ôm tại bến xe Mỹ Đình; 01 đối tượng bán nước tại bến xe; 02 nhân
viên bến xe).
Những nội dung được tập trung trong phỏng vấn sâu: sẽ khai thác tùy thuộc
vào đối tượng phỏng vấn sâu, quanh việc thực hiện nội quy, quy định của bến xe
cũng như những vấn đề bất cập đang tồn tại.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương II: Thực trạng trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình hiện nay
Chương III: Đánh giá vai trò của ban quản lý bến xe Mỹ Đình và giải pháp
nâng cao trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình.
10
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lý thuyết áp dụng
1.1.1 Lý thuyết cấu trúc – chức năng
Lịch sử của thuyết này gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học nổi tiếng
như Auguste Comte, Herbert Spencer, Emile Durkheim, Vilfredo Pareto, Robert
Merton, Peter Blau... và nhiều người khác.
Lý thuyết cấu trúc - chức năng nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ của các bộ
phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp
phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn
định, bền vững.
Theo quan điểm của các nhà chức năng luận thì xã hội luôn ở trạng thái tĩnh,
trạng thái cân bằng, có trật tự với sự đồng thuận của các thành viên được phản ánh
qua cơ cấu xã hội và thể chế của xã hội. Thuyết này nhấn mạnh tính liên kết chặt
chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng
nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc
tương đối ổn định, bền vững.
Cấu trúc là kiểu quan hệ giữa con người và xã hội được định hình một cách ổn
định, bền vững. Còn chức năng là nhu cầu, lợi ích, sự cần thiết, sự đòi hỏi, tác dụng
mà một thành phần, bộ phận tạo ra hay thực hiện để đảm bảo sự tồn tại, vận động
của cả hệ thống. Đó cũng là những yêu cầu, sự đòi hỏi của cả hệ thống đối với từng
bộ phận cấu thành của nó.
August Comte là người đầu tiên đề ra hướng nghiên cứu tĩnh học xã hội để tìm
hiểu các quy luật duy trì sự ổn định, trật tự của cấu trúc xã hội. Ông cho rằng do
thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận mà cấu trúc xã hội bị rối loạn gây ra
sự bất thường xã hội. Còn H.Spencer lại vận dụng khái niệm cấu trúc và khái niệm
chức năng để giải thích các hiện tượng của xã hội. Ông chỉ ra rằng sự biến đổi chức
năng của các bộ phận kéo theo sự biến đổi cấu trúc của cả chỉnh thế xã hội.
E.Durkheim không những nghiên cứu chức năng và cấu trúc xã hội mà còn
đưa ra các quy tắc sử dụng các khái niệm này làm công cụ phân tích xã hội học. Đối
11
với E.Durkheim, thực tế, xã hội đạt tới một sự cân bằng nhờ có những quy tắc,
chuẩn mực và giá trị có thể chi phối ý thức và cuộc sống lộn xộn của các cá nhân.
Ông cho rằng, việc chỉ ra được chức năng tức là lợi ích, tác dụng hay sự thoả mãn
một nhu cầu không có nghĩa là giải thích được sự hình thành và bản chất của sự
kiện xã hội. Để làm điều đó, cần phải vạch ra các tác nhân gây ra sự kiện xã hội.
Talcott Parsons (1902-1979) là nhà xã hội học người Mỹ, tác giả nổi tiếng của
lý thuyết hệ thống xã hội viết tắt là AGIL theo bốn chữ cái của bốn tiểu hệ thống.
“Hệ thống xã hội được hình thành nhờ những trạng thái và quá trình tương tác
mang tính xã hội của những cá nhân hành động. Nếu như những đặc điểm của
tương tác được dẫn giải từ những đặc điểm của cá nhân hành động, thì những hệ
thống xã hội sẽ chỉ là những biểu hiện phụ như thuyết xã hội cá nhân thường khẳng
định”. (Talcott Parsons, 1972:15).
Như vậy, Parsons định nghĩa sự trật tự trong những tương tác là một hệ thống
xã hội. Theo T.Parsons, hệ thống xã hội được cấu thành từ bốn tiểu hệ thống, tương
ứng với bốn loại nhu cầu,chức năng cơ bản của hệ thống xã hội. Để tồn tại, một hệ
thống phải thực hiện bốn chức năng:
1. Thích ứng (A): một hệ thống phải đương đầu với các nhu cầu khẩn thiết của
hoàn cảnh bên ngoài. Nó phải thích nghi với môi trường của nó và làm cho môi
trường thích nghi với các nhu cầu của nó. Trong hệ thống xã hội, A chính là tiểu hệ
thống kinh tế.
2. Hướng đích (G): Một hệ thống phải xác định và đạt được các mục tiêu cơ
bản của nó.Tiểu hệ thống hướng đích trong xã hội chính là hệ thống chính trị với
những tổ chức đảng phái, cơ quan chính quyền.
3. Liên kết (I): một hệ thống phải điều hòa mối tương quan của các thành tố bộ
phận. Tiểu hệ thống này bao gồm các cơ quan pháp luật, hành chính và bộ máy an
ninh xã hội.
4. Duy trì khuôn mẫu lặn (L): một hệ thống phải cung cấp, duy trì và tân tạo cả
động lực thúc đẩy của các cá thể cũng như các khuôn mẫu văn hóa đã sáng tạo và
12
duy trì động cơ thúc đẩy. Tiểu hệ thống L bao gồm gia đình, nhà trường, tổ chức
văn hóa, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật.
Theo T.Parsons, các tiểu hệ thống có mối quan hệ qua lại với nhau theo
nguyên lý chức năng để tạo thành một chỉnh thể toàn vẹn; và trao đổi với nhau
thông qua một loạt các phương tiện và công cụ xã hội.
Có thể thấy, theo thuyết chức năng, trật tự xã hội được thiết lập khi có sự phối
hợp hài hòa giữa 4 tiểu hệ thống nói trên. Áp dụng lý thuyết của T.Parsons vào
nghiên cứu việc duy trì trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình, chúng ta sẽ thấy rằng, bến
xe Mỹ Đình chính là một xã hội thu nhỏ với rất nhiều các tiểu hệ thống khác nhau
với mục đích chung là duy trì trật tự, an toàn tại bến xe. Những quy định, nội quy là
một trong những yếu tố quan trọng giúp những đối tượng khác nhau (như hành
khách; lái, phụ xe, bản quản lý bến xe) hành xử theo đúng những khuôn mẫu đã đề
ra, từ đó tác động đến sự hài hòa, ổn định của trật tự xã hội tại bến xe Mỹ Đình;
cũng như chỉ ra được những nhân tố đang làm cho trật tự ở bến xe Mỹ Đình trở nên
thiếu bền vững.
1.1.2 Lý thuyết về sự sai lệch xã hội
Robert Merton (1910 – 2003) và Emile Durkheim (1858 – 1917) là hai trong
số nhiều đại diện tiêu biểu cho lý thuyết nghiên cứu lý giải về hành vi sai lệch xã
hội. Tuy cả hai nhà xã hội học này đều nghiên cứu khái niệm “Anomie” (khái niệm
chỉ sự rối loạn, vô tổ chức do các cá nhân không tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực xã
hội) nhưng lại có sự khác nhau trong quan niệm khi nói về khái niệm này.
Theo E.Durkheim, mọi xã hội đều đi từ kiểu đoàn kết cơ giới sang kiểu đoàn
kết hữu cơ. Bước chuyển từ kiểu đoàn kết cơ giới sang kiểu đoàn kết hữu cơ gắn
liền với sự xuất hiện và phát triển của sự phân công lao động trong xã hội. Xét về
mặt lý thuyết, khi chuyên môn hóa tăng do phân công lao động tạo ra, sự đoàn kết
và phụ thuộc giữa các thành viên trong xã hội cũng tăng theo. Nhưng trong thực tế,
sự chuyên môn hóa đó lại mang lại một tác dụng ngược: tách biệt thay cho đoàn kết.
Hay nói cách khác, chuyên môn hóa đã thay thế những mối quan tâm, những mục
13
tiêu, những giá trị chung bằng các mối quan tâm, những mục tiêu và những giá trị
của cá nhân.
Cũng theo E.Durkheim, tình trạng Anomie là đặc trưng của những bối cảnh xã
hội mà ở đó, những ham muốn của cá nhân có thể được bộc lộ một cách tự do,
không bị hạn chế bởi những quy tắc của xã hội. Như vậy có thể thấy tình trạng phi
chuẩn mực sẽ thay đổi theo từng bối cảnh xã hội, từng nền văn hóa. Những xã hội
nào để cho sự độc lập, những ham muốn của cá nhân lấn át những chuẩn mực chung
của xã hội thì tình trạng Anomie ở những xã hội đó sẽ trầm trọng hơn những xã hội
khác.
Với Robert Merton, cái nhìn về Anomie lại mang tính vi mô hơn là vĩ mô như
quan niệm của E.Durkheim. Theo R.Merton, bất cứ xã hội nào cũng đều có những
giá trị được gần như mọi thành viên chấp nhận và chia sẻ (chẳng hạn như trở nên
giàu có gần như là điều ai cũng mong muốn coi đó là giá trị). Những giá trị ấy sẽ
được các cá nhân nội tâm hóa ở những mức độ khác nhau như là những mục tiêu
cần phải đạt được trong cuộc sống. Để đạt được những mục tiêu ấy, xã hội cũng đưa
ra cho cá nhân những phương tiện được quy định bởi những chuẩn mực của xã hội.
Thế nhưng, không phải mọi tầng lớp xã hội đều có thể tiếp cận được những phương
tiện "hạn hẹp" đó, nên một số cá nhân sẽ viện đến những phương tiện không hợp
thức khác để đạt được mục tiêu mà xã hội đề cao.
Áp dụng quan niệm của Merton vào nghiên cứu giúp chúng ta hình dung ra
được để duy trì trật tự xã hội ở bến xe Mỹ Đình thì cần những thiết chế nào; đồng
thời thấy được vai trò của cơ quan quản lý bến xe Mỹ Đình qua đánh giá của hành
khách đi xe.
1.2. Khái niệm công cụ của đề tài
1.2.1Trật tự xã hội
Trật tự xã hội, theo một cách đơn giản nhất, được hiểu là sự hoạt động ổn định
hài hòa của các thành phần xã hội trong cấu trúc xã hội; biểu hiện tính tổ chức của
đời sống xã hội, tính chuẩn mực của các hành động xã hội.
14
Trong cuốn “Lý thuyết về trật tự xã hội”, Hechter and Horne đã đề cập đến
Trật tự xã hội như sau:
Trật tự xã hội là vấn đề cốt lõi trong các ngành khoa học xã hội. Vấn đề phát
sinh là con người ở đây bao gồm cá nhân và xã hộiNhiệm vụ của trật tự xã hội là
duy trì và giải quyết hai mặt tưởng như riêng biệt trên. Con người cần có sự phối
hợp hành động và hợp tác để cùng đạt được một mục đích chung nào đó.
Sự phối hợp đòi hỏi con người phải có sự thay đổi và phát triển về mặt hành vi
để phù hợp với mong đợi của nhóm và xã hội Nếu con người sống cùng nhau, họ
không chỉ cần hợp tác để hoạt động mà còn cần sự tương tác một cách có hiệu quả -
để cùng hỗ trợ nhau hơn là làm tổn thương những người khác. Do đó, ở những xã
hội có tính tổ chức cao sẽ có khả năng duy trì tốt sự hợp tác [22, pg.1].
Ngay từ năm 1944, Lawrence Frank đã làm dấy lên câu hỏi sau khi cho rằng
thế lực siêu nhiên là phần quan trọng của trật tự xã hội:
Trật tự xã hội được ví như một tổ chức xã hội hoặc cơ chế tồn tại như một
phần của vũ trụ. Lý thuyết xã hội đã dạy nam giới rằng họ nên phục tùng các đấng
siêu nhiên và chấp nhận những tổ chức này như một sự đảm bảo cho trật tự xã hội,
trong khi đó các nghiên cứu xã hội thì luôn cố gắng để đo lường các thế lực bí ẩn
này. Một nghiên cứu gần đây về văn hóa và văn minh đã chỉ ra rằng trật tự xã hội đã
không được đưa ra một cách cụ thể nhưng lịch sử phát triển những ý tưởng, niềm
tin, mẫu hành vi và cảm xúc của mỗi nền văn hóa đã là tiền đề cho hành vi ứng xử
của con người và quản lý các hoạt động của nhóm [21].
Crossman (2013) đề cập đến trật tự xã hội khi xác định các phương pháp tiếp
cận xã hội học khác nhau:
Lý thuyết xung đột nhấn mạnh vào vai trò của sự áp bức và quyền lực trong
hình thành trật tự xã hội. Quan điểm này được bắt đầu từ các tác phẩm của Karl
Marx, người coi xã hội như là sự phân chia thành các nhóm dựa trên sự cạnh tranh
về nguồn lực xã hội và nguồn lực kinh tế. Trật tự xã hội được duy trì bởi sự thống
trị, kinh tế và các nguồn lực xã hội Quan điểm của thuyết chức năng luận cho
rằng, trật tự xã hội đóng một vai trò quan trong trong xã hội học. Điều này được thể
15
hiện khá rõ qua các tác phẩm của Emile Durkheim, người đặc biệt quan tâm đến
việc làm thế nào trật tự xã hội tồn tại hoặc xã hội duy trì tính ổn định tương đối
bằng cách nào [20].
Marshall (1998) lại cho rằng:
Mối quan tâm chính của xã hội học chính là giải thích về trật tự xã hội, như
thế nào và tại sao các thành phần xã hội gắn kết với nhau. Những hậu quả rõ ràng
của thời kỳ công nghiệp hóa, đô thị hóa như: sự sụp đổ của cộng đồng, sự phá vỡ
những mối quan hệ thiết yếu, sự mất dần quyền lực của một bộ phận có chức năng
kiểm soát xã hội và sự bất ổn chung liên quan tới sự biến đổi xã hội nhanh chóng
trong thế kỷ XIX.
Có hai cách giải thích về trật tự xã hội Đối với Durkheim, thừa hưởng
truyền thống khoa học Anh từ Herbert Spencer, ông tập trung vào lợi ích cộng đồng
và khế ước xã hội là cơ sở của trật tự xã hội trong xã hội công nghiệp phức tạp. Với
ông, sự nghiên cứu về đạo đức xã hội (chuẩn mực, niềm tin, ý thức tập thể) là chìa
khóa quan trong cho việc giải thích sự hội nhập xã hội.
Theo cách thức hội nhập xã hội, “Đoàn kết cơ giới” của thời kỳ tiền công
nghiệp dựa trên niềm tin và giá trị, chủ yếu thuộc ý thức tập thể. Tuy nhiên, sự ra
đời của xã hội công nghiệp đã sản sinh ra một hình thức mới có tên gọi “Đoàn kết
hữu cơ”, dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau phát sinh từ sự xã hội hóa và sự khác
biệt Hạn chế tính ích kỷ nảy sinh từ các tổ chức và hình thành nền tảng của sự
gắn kết xã hội. Trong khi Durkheim không phủ nhận sự tồn tại của xung đột và sử
dụng vũ lực, đặc biệt là trong thời kỳ xã hội phát triển nhanh chóng, thì Parsons lại
nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đồng thuận xã hội và coi nó như điều kiện cần
thiết cho trật tự xã hội. Ông xem đoàn kết hữu cơ như là một hình thức cao hơn của
ý thức tập thể và phản đối rằng sự chấp nhận các giá trị bởi các chuẩn mực của sự
quốc tế hóa là nền tảng của hội nhập xã hội và trật tự xã hội trong xã hội hiện đại.
Parsons bị chỉ trích vì đánh giá quá cao sự đồng thuận và hòa hợp xã hội, mà bỏ qua
sự xung đột và thay đổi trong những nghiên cứu xã hội học của mình.
16
Chiều hướng thứ hai lý giải về trật tự xã hội xuất phát từ truyền thống của chủ
nghĩa Marxit với tư tưởng coi kỷ luật và sự phân phối các nguồn lực trong xã hội
hơn là sự gắn kết về văn hóa. Marx nhấn mạnh đến sự bất bình đẳng về sở hữu vật
chất và quyền lực chính trị trong các xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự phân bố không
đồng đều các nguồn lực vật chất và quyền lực là nguồn gốc của sự xung đột giữa
các tổ chức – tầng lớp xã hội – những người muốn sở hữu nhiều hơn khối tài sản,
quyền lực mà họ đang có. Xung đột ngụ ý rằng không có sự đồng thuận và trật tự xã
hội nào có thể duy trì mãi mãi. Nó là sản phẩm của sự cân bằng quyền lực giữa các
nhóm cạnh tranh, qua đó các nhóm mạnh hơn sẽ chế ngự các nhóm yếu và gắn kết
nhau thông qua sự ép buộc kinh tế, chính trị, pháp luật và sự quan liêu. Trong khi
các nhà khoa học theo trường phái Marxit chấp nhận sự hiện hữu của văn hóa trong
trật tự xã hội, ví dụ bằng cách giải thích việc sự hợp nhất giai cấp vô sản thông qua
một hệ tư tưởng thống nhất, thì những người khác lại cho rằng sự ép buộc về kinh tế
và chính trị đã cho thấy ảnh hưởng rõ ràng trong việc duy trì sự ổn định của xã hội,
đặc biệt ở những nơi quyền lực được hợp thức hóa như những nhà cầm quyền. Tuy
nhiên, sự xung đột dai dẳng ám chỉ sự căng thẳng và thay đổi, hơn là sự ổn định lâu
dài.
David Lockwood (Tác phẩm Đoàn kết và ly giáo, 1992) đã chứng minh rằng
lý thuyết Marxit và Durkheim chưa giải quyết các vấn đề một cách thỏa đáng, vì
phương pháp này phải sử dụng phương pháp kia để giải thích các vấn đề trung tâm.
Với Durkheim, khái niệm về phân loại đạo đức là chìa khóa của cấu trúc xã hội,
trong khi đối với Marx, nó là quan hệ sản xuất. Một lý thuyết nhấn mạnh đến cấu
trúc hội nhập xã hội của cá nhân, lý thuyết còn lại hướng đến tìm hiểu sự xung đột
cấu trúc xã hội của các nhóm. Tuy nhiên, Durkheim không thể giải thích được sự
băng hoại đạo đức hay sự ly giáo mà không giới thiệu khái niệm về quyền lực và
vật chất trong giản đồ của mình, trong khi Marx không thể giải thích sự tồn tại của
xã hội tư bản mà không cần đến một hệ tư tưởng tổng quát trong đó giới thiệu các
vấn đề liên quan đến bản chất và sự biến đổi của sự đồng thuận [23].
17
Trường phái nữ quyền cũng từng đề cập đến trật tự xã hội trong bối cảnh xung
đột và áp bức. Theo đó, trường phái này ví trật tự xã hội như một bức tranh được vẽ
bởi giai cấp thống trị, chính là nam giới. Nam giới duy trì quyền lực của bản thân
bằng cách đàn áp nữ giới, giữ cho họ ở một tầng lớp thấp hơn, phải phục tùng các
giá trị của xã hội. Trường phái nữ quyền cho rằng xã hội và những tổ chức ở trong
nó, như gia đình, đơn thuần được xây dựng bởi nam giới từ đó duy trì bức tranh
quyền lực trong xã hội. Phụ nữ được trông đợi sẽ là người giữ vai trò chăm sóc và
nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình. Nó đã trở thành một kỳ vọng vững chắc
giúp duy trì trật tự xã hội, bởi vì bổn phận là không thay đổi. Những người theo
trường phái này kết luận rằng trật tự xã hội giống như một bức tranh được tạo ra bởi
người đàn ông nhằm đảm bảo quyền lực và bóc lột phụ nữ.
Khác với những lý thuyết nói về sự ép buộc và hạn chế lựa chọn, lý thuyết
hành động xã hội của Max Weber lại cho rằng trật tự xã hội có nguồn gốc từ chính
những con người trong xã hội. Weber cho rằng con người luôn chú trọng đến ý
nghĩa hành động xã hội của chính họ. Verstehen, trong tiếng Đức có nghĩa là sự am
hiểu, là một trong những chìa khóa quan trọng của lý thuyết hành động xã hội. Nó
có nghĩa là bạn phải hiểu được ý nghĩa đằn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004737_1_8253_2002822.pdf