Luận văn Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần Trà Bắc tỉnh Trà Vinh

 Thị trường Đài Loan

Dù thị trường này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu nhưng đây được đánh giá là một thị trường tương đối bền vững, có quan hệ giao dịch thường xuyên với công ty. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu sang Đài Loan đạt 209,509 nghìn USD, đứng vị trí cuối cùng trong tổng kim ngạch. Từ những năm sau đó kim ngạch có phần sụt giảm, năm 2009 giảm 7,69% so với năm trước, giá trị xuất khẩu đạt 193,390 nghìn USD. Đến năm 2010, tình hình xuất khẩu vẫn chưa khởi sắc, chỉ ở mức 122,160 nghìn USD, đã giảm đi so với năm trước là 36,83%. Nguyên nhân chính là do nhu cầu về mặt hàng xơ dừa của thị trường này giảm mạnh là do hiện nay công ty bị các đối thủ khác cạnh tranh về giá nên công ty đã bị mất đi một vài khách hàng ở thị trường này.

Tuy nhiên, đến 6 tháng đầu năm 2011 kim ngạch xuất khẩu từ thị trường này phục hồi và phát triển mạnh trở lại, tăng kỷ lục là 122% đưa giá trị kim ngạch đạt 180,744 nghìn USD. Sở dĩ tình hình khởi sắc trở lại là do công ty đã linh hoạt hơn trong giao dịch giá cả để giữ chân các khách hàng thân thiết ở thị trường này. Thêm vào đó, do giá cả chung trên thế giới hiện nay gia tăng nên cũng đã góp phần làm tăng kim ngạch. Mặc dù Đài Loan chỉ là một thị trường mang lại kim ngạch khiêm tốn nhưng đây lại là quốc gia nhập khẩu ổn định mặt hàng xơ dừa của công ty trong nhiều năm qua, dù đôi lúc cũng biến động theo chiều giảm. Công ty cũng cần có những chính sách để gia tăng giá trị xuất khẩu trên thị trường này, từ đó góp phần tích cực trong việc cải thiện kim ngạch xuất khẩu chung của công ty.

 

doc101 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2747 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần Trà Bắc tỉnh Trà Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an hệ giao dịch ổn định với công ty trong các năm qua. Bên cạnh đó, công ty còn không ngừng mở rộng sang các thị trường tiềm năng như các quốc gia Trung Đông, Châu Mỹ. Bảng 12: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU THEO THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG TY TRÀ BẮC TỪ 2008 ĐẾN 6 THÁNG ĐẦU 2011 Đơn vị tính: nghìn USD Thị trường 2008 2009 2010 6 tháng đầu 2010 6 tháng đầu 2011 Chênh lệch 2009/2008 Chênh lệch 2010/2009 Chênh lệch 6th2010/ 6th2011 +/- % +/- % +/- % Trung Quốc 3.511,703 3.904,660 3.050,477 1.225,850 696,123 392,957 11,2 (854,183) (21,88) (529,727) (43,21) Nhật Bản 1.923,865 1.469,714 2.269,984 1.090,422 1.137,920 (454,151) (23,61) 800,27 54,45 47,498 4,36 Châu Âu 2.325,304 1.918,462 3.041,139 1.320,569 1.812,351 (406,842) (17,5) 1.122,68 58,52 491,782 37,24 Đài Loan 209,509 193,390 122,160 81,440 180,744 (16,119) (7,69) (71,23) (36,83) 99,304 122 Khác 417,366 749,656 995,142 320,571 1.253,102 332,29 79,61 245,486 32,75 932,531 290,9 Tổng 8.387,747 8.235,882 9.478,902 4.265,500 5.080,240 (151,865) (1,81) 1.243,02 15,09 814,740 19,1 (Nguồn: Phòng kế hoạch- thị trường) Thị trường Trung Quốc Trung Quốc là một nước nhập khẩu xơ dừa hàng đầu thế giới với sản lượng mỗi năm trên 272.000 tấn đa số dùng để sản xuất thảm trãi sàn, chiếu thảm, nệm trong ôtô. Đối với công ty, năm 2008 Trung Quốc trở thành thị trường chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty với giá trị là 41,87%, bao gồm mặt hàng than hoạt tính và xơ dừa với giá trị kim ngạch lần lượt là 450,148 nghìn USD và 3.061,555 nghìn USD. Sang năm 2009 thị trường này có giá trị tăng khá cao khoảng 11,2% so với năm 2008, đưa kim ngạch xuất khẩu đạt 3.904,660 nghìn USD. Với kết quả trên thị trường này vẫn tiếp tục giữ vững vị trí dẫn đầu của mình trong tổng kim ngạch với tỷ trọng đạt 47,41%. Tuy nhiên kể từ năm 2010, giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc giảm mạnh, cụ thể là đã giảm 32,18% so với năm trước, đạt kim ngạch 3.050,477 nghìn USD. Tính đến 6 tháng đầu năm 2011, tình hình xuất khẩu sang thị trường này cũng không khả quan hơn mà ngược lại còn tiếp tục sụt giảm, cụ thể chỉ đạt 696,123 nghìn USD, giảm 43,21% so với 6 tháng đầu năm trước. Như vậy tính đến thời điểm này Trung Quốc không còn ở vị trí cao nhất trong tổng kim ngạch vì tỷ trọng đóng góp của thị trường này chỉ còn 13,70%. Nguyên nhân chính là từ cuối năm 2009, công ty gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ trong và ngoài nước như Thái Lan, SriLanka về sản phẩm xơ dừa trong khi đó đây lại là sản phẩm thế mạnh của công ty tại thị trường này. Thêm vào đó, hiện nay Trung Quốc đã ngừng nhập khẩu các sản phẩm chế biến từ dừa từ nước ta một cách đột ngột đã làm cho sản lượng và kim ngạch nhập khẩu vào thị trường này không còn cao như trước. Từ đây nhà nhập khẩu Trung Quốc có nhiều sự lựa chọn về nhà cung cấp mặt hàng xơ dừa nên công ty cần quan tâm hơn nữa để có thể duy trì doanh số bán tại thị trường truyền thống này. Thị trường Nhật Bản Nhật Bản là khách hàng truyền thống, có quan hệ làm ăn lâu dài với công ty trong thời gian qua. Do đó, đây chính là một thị trường quan trọng mà công ty luôn đặc biệt hướng đến. Nhật Bản còn là một thị trường khó tính với những yêu cầu cao về chất lượng và cả quy cách của sản phẩm. Nhiều năm qua công ty đã ký nhiều hợp đồng có giá trị lớn với các hãng nổi tiếng như Mitsubishi, Ajinomoto về xuất khẩu than hoạt tính, là sản phẩm duy nhất của công ty bán qua thị trường này. Cụ thể là năm 2008, giá trị xuất khẩu đạt 1.923,865 nghìn USD, tương đương với 1.541,18 tấn than hoạt tính, đưa Nhật Bản xếp vị trí thứ ba trong tổng kim ngạch của công ty với tỷ trọng 22,94%. Tuy nhiên, sang năm 2009 do khối lượng than sản xuất ra bị giảm mạnh nên giá trị xuất khẩu than hoạt sang thị trường này giảm mạnh, chỉ còn 1.469,714 nghìn USD, so với năm 2008 là giảm 23,61%. Trong lúc đó, bước sang năm 2010, nền kinh tế Nhật đã bắt đầu phục hồi, nhu cầu của các khách hàng công nghiệp ở Nhật về mặt hàng than hoạt tính đang tăng lên do gia tăng các hoạt động sản xuất cần nguồn hàng này như sản xuất mặt nạ khí trong quân sự, thanh lọc khí, chất lỏng và tinh luyện vàng, công cụ hấp thụ halogen trong các thiết bị làm lạnh, bảo quản trái cây và rau củ,… Do đó, sau khi khôi phục và nâng cấp lò hoạt hoá, năm 2010 khối lượng than hoạt tính xuất sang thị trường này đã có bước tăng trưởng vượt bậc. Cụ thể là giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2.269,984 nghìn USD, tăng 800,27 nghìn USD so với năm 2009, về số tương đối là 54,45%, với giá trị này đã đưa Nhật Bản trở lại vị trí thứ ba trong cơ cấu của tổng kim ngạch, chiếm tỷ trọng 23,95%, đây cũng là lần kim ngạch đạt giá trị cao nhất 3 năm qua. Sang năm 2011, dù Nhật Bản vừa trải nhiều biến cố trong nền kinh tế nhưng thị trường này vẫn tiếp tục khẳng định sức hấp dẫn với công ty khi mà chỉ trong 6 tháng đầu năm 2011 kim ngạch xuất khẩu đã đạt 1.137,920 nghìn USD, con số này ở cùng thời điểm năm trước chỉ có 1.090,422 nghìn USD. Nguyên nhân là sau vụ nổ nhà máy điện hạt nhân, Nhật Bản phải tăng cường nhập khẩu than hoạt tính để hấp thụ chất phóng xạ trong các nhà máy và lọc nước nhiễm phóng xạ trong các xí nghiệp sản xuất. Do đó, với công việc khắc phục hậu quả sau thảm họa trên thì nhu cầu về than hoạt tính trong thời gian tới của nước này là rất lớn. Tuy nhiên, hiện nay công ty cần quan tâm đến những đối thủ khác đang đe doạ đến sản lượng xuất khẩu của công ty tại thị trường này, cụ thể là Indonesia, SriLanka. Đây là những quốc gia cung cấp than hoạt tính hàng đầu cho Nhật Bản với khối lượng rất lớn. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2011, Nhật Bản đã nhập khẩu hơn 17.600 tấn than hoạt tính từ Indonesia. Vì vậy, trong thời gian tới công cần nhanh chóng đưa ra chiến lược nhằm duy trì và phát triển bền vững thị trường này. Thị trường Châu Âu EU là một thị trường lớn đầy tiềm năng của ngành dừa nói chung và của công ty cổ phần Trà Bắc nói riêng. Đối với công ty đây là thị trường được đánh giá là thị trường ổn định nhất, luôn có xu hướng tăng trưởng qua các năm. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đạt 2.325,304 nghìn USD, đứng vị trí thứ hai với tỷ trọng là 27,72% trong tổng kim ngạch. Châu Âu chủ yếu nhập khẩu than hoạt tính và cơm dừa sấy khô với khối lượng nhập ít biến động qua các năm. Cụ thể là trong năm 2008, công ty bán sang thị trường này 877,4 tấn than hoạt tính với giá trị 1.034,209 nghìn USD và 1.046,135 tấn cơm dừa đạt giá trị 1.291,095 nghìn USD. Đến năm 2009, tình hình xuất khẩu sang thị trường đã có sự biến động nhẹ, kim ngạch giảm 17,5% so với năm trước, đạt mức 1.918,462 nghìn USD do nhu cầu nhập khẩu sản phẩm nguyên liệu để sản xuất bị thu hẹp sau cuộc khủng hoảng và một phần còn do công ty không sản xuất đủ lượng hàng hoá cung ứng sang thị trường này. Tuy nhiên sang năm 2010, hoạt động xuất khẩu đã bắt đầu tăng trưởng mạnh trở lại với giá trị kim ngạch đạt 3.041,139 nghìn USD, tăng 58,52% so với năm trước, giúp giữ vững vị trí thứ hai với tỷ trọng 32,08%. Sở dĩ đạt được kết quả này là do sau khi hoạt động sản xuất than phục hồi, công ty đã gia tăng xuất khẩu sang thị trường này đặc biệt sang các nước như Hà Lan, Nga, Pháp. Thêm vào đó, do thị hiếu tiêu dùng ở các nước phát triển này thay đổi, người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn các thực phẩm có lợi cho sức khoẻ, thay thế chất béo từ động vật mà cơm dừa sấy khô chính là loại thực phẩm thay thế thích hợp nhất với vị béo và ngọt tự nhiên. Đặc biệt, kể từ khi công ty áp dụng tiêu chuẩn quản lý ISO 22000: 2005 trong sản xuất cơm dừa sấy khô nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đã củng cố mạnh mẽ lòng tin của khách hàng ở thị trường khó tính này. Tính đến 6 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu vẫn tiếp tục được công ty giữ vững, đạt 1.812,351 nghìn USD, tăng 37,24% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh các yếu tố đã phân tích ở trên, một nguyên nhân khác giúp kim ngạch 6 tháng đầu năm 2011 tăng mạnh là do giá cả than hoạt tính và cơm dừa sấy khô bán sang thị trường này đã được điều chỉnh tăng lên đáng kể so với thời điểm năm trước. Cũng như hai thị trường trên, công ty cần chú ý đến các đối thủ mạnh như Philippines, Indonesia. Đây là hai quốc gia có thế mạnh hơn chúng ta rất nhiều trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ dừa sang thị trường Châu Âu như than hoạt tính, cơm dừa sấy khô, dầu dừa với khối lượng xuất khẩu hàng năm trên 25.000 tấn. Rõ ràng đây vẫn là một thị trường hứa hẹn mang nhiều lợi nhuận cho nên việc công ty tăng cường khai thác thêm các thị trường khác trong khu vực này là điều cần phải nhanh chóng tiến hành. Thị trường Đài Loan Dù thị trường này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu nhưng đây được đánh giá là một thị trường tương đối bền vững, có quan hệ giao dịch thường xuyên với công ty. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu sang Đài Loan đạt 209,509 nghìn USD, đứng vị trí cuối cùng trong tổng kim ngạch. Từ những năm sau đó kim ngạch có phần sụt giảm, năm 2009 giảm 7,69% so với năm trước, giá trị xuất khẩu đạt 193,390 nghìn USD. Đến năm 2010, tình hình xuất khẩu vẫn chưa khởi sắc, chỉ ở mức 122,160 nghìn USD, đã giảm đi so với năm trước là 36,83%. Nguyên nhân chính là do nhu cầu về mặt hàng xơ dừa của thị trường này giảm mạnh là do hiện nay công ty bị các đối thủ khác cạnh tranh về giá nên công ty đã bị mất đi một vài khách hàng ở thị trường này. Tuy nhiên, đến 6 tháng đầu năm 2011 kim ngạch xuất khẩu từ thị trường này phục hồi và phát triển mạnh trở lại, tăng kỷ lục là 122% đưa giá trị kim ngạch đạt 180,744 nghìn USD. Sở dĩ tình hình khởi sắc trở lại là do công ty đã linh hoạt hơn trong giao dịch giá cả để giữ chân các khách hàng thân thiết ở thị trường này. Thêm vào đó, do giá cả chung trên thế giới hiện nay gia tăng nên cũng đã góp phần làm tăng kim ngạch. Mặc dù Đài Loan chỉ là một thị trường mang lại kim ngạch khiêm tốn nhưng đây lại là quốc gia nhập khẩu ổn định mặt hàng xơ dừa của công ty trong nhiều năm qua, dù đôi lúc cũng biến động theo chiều giảm. Công ty cũng cần có những chính sách để gia tăng giá trị xuất khẩu trên thị trường này, từ đó góp phần tích cực trong việc cải thiện kim ngạch xuất khẩu chung của công ty. Thị trường khác Ngoài những thị trường chính đã nêu trên, công ty còn xuất khẩu sang một số thị trường khác nhưng không thường xuyên hoặc giá trị giao dịch tương đối thấp Hoa Kỳ: thị trường này bắt đầu nhập khẩu than hoạt tính của nước ta vào năm 2008 với giá trị 84,116 nghìn USD. Trong cả năm 2009, công ty không nhận được một đơn đặt hàng nào từ phía Hoa Kỳ nữa. Mãi đến gần cuối năm 2010, công ty mới có thêm một hợp đồng xuất khẩu với giá trị 27,884 nghìn USD. Gần đây, phía khách hàng ở thị trường này đã mua của công ty thêm 62 tấn than hoạt tính với giá trị là 106,043 nghìn USD. Như vậy, hiện nay thị trường Hoa Kỳ vẫn chưa trở thành thị trường xuất khẩu chính của công ty do khối lượng hàng hoá giao dịch còn rất ít và không liên tục. Nguyên nhân là công ty chỉ là một nhà cung cấp dự phòng khi nhà cung cấp chính của Hoa Kỳ không đáp đủ nhu cầu cho thị trường này. Tuy nhiên Hoa Kỳ lại là thị trường nhập khẩu lớn về mặt hàng than hoạt tính trên thế giới với mức giá khá cao, dao động từ 1.590- 1.764 USD/tấn. Do đó công ty cần có kế hoạch kịp thời để phát triển Hoa Kỳ trở thành thị trường chính thức. Jordan: đây là một trường nằm ở khu vực Trung Đông, bắt đầu nhập khẩu cơm dừa của công ty từ năm 2009 với kim ngạch 83,500 nghìn USD tương ứng với 100 tấn cơm dừa. Sang năm 2010, thị trường này tiếp tục ký hợp đồng với công ty với tổng khối lượng 325 tấn cơm dừa, đạt kim ngạch 319,500 nghìn USD, tăng 282,6% so với năm trước. Trong 6 tháng đầu năm 2011, quốc gia này có nhiều đơn đặt hàng cơm dừa sấy khô với tổng giá trị 164,320 nghìn USD. Thị trường Jordan nói riêng cũng như toàn thị trường Trung Đông trong tương lai sẽ còn có nhu cầu nhập khẩu nhiều hơn nữa. Nguyên nhân là vào tháng 9 hàng năm các quốc gia Hồi giáo này tổ chức lễ hội Ramada trong đó cơm dừa sấy khô được xem là thực phẩm truyền thống, hiện tại không đáp ứng đủ nhu cầu phục vụ cho lễ hội. Do đó, nắm bắt được nhu cầu trên công ty cũng nên có chiến lược để duy trì và phát triển thị trường này. Ngoài ra, công ty còn có một vài khách hàng đến từ Ấn Độ, Brasil, Paragoay, Singapore nhưng mức độ giao dịch là không đáng kể, chỉ một hoặc vài lần trong năm. Đánh giá: Qua phân tích tình hình xuất khẩu của công ty theo thị trường trong các năm qua có nhiều biến động theo xu hướng chung của thế giới và một phần cũng do nguyên nhân chủ quan từ phía công ty. Trong đó, mỗi thị trường xuất khẩu công ty đều có một mặt hàng chủ lực đem lại phần lớn kim ngạch xuất khẩu chung của công ty. Vì vậy, để duy trì và phát triển hoạt động xuất khẩu, công ty cần có những chiến lược thích hợp cho mỗi thị trường để có thể vừa giữ vững và phát triển các thị trường hiện tại vừa mở rộng và khai thác các thị trường tiềm năng trong tương lai. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI CÔNG TY Môi trường vĩ mô 4.3.1.1 Môi trường nước ngoài Môi trường chính trị- pháp luật (P- Political) Công ty cổ phần Trà Bắc xuất khẩu các sản phẩm chủ yếu là sang các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, một số nước ở châu Âu và đang có nhiều tiềm năng để phát triển lâu dài với các đối tác ở Trung Đông, Hoa Kỳ. Hiện nay, các nước nằm ở khu vực Đông Á có tình hình chính trị tương đối ổn định, không làm ảnh hưởng đến các hoạt động xuất khẩu của công ty sang các nước này. Trong khi đó, sau cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua, châu Âu và Hoa Kỳ không còn giữ được tình trạng ổn định của chính trị. Đặc biệt đối với châu Âu, cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra hồi cuối năm 2009 đến nay đã đe doạ đến sự tồn vong của cả EU. Chính phủ các nước như Pháp, Hà Lan, Anh,… đã đề ra nhiều chính sách kinh tế khắc khổ nhằm cứu giản tình thế trên nhưng đã gặp phải sự phản đối quyết liệt của người dân. Hàng nghìn người đã xuống phố biểu tình, kêu gọi công đoàn tổng bãi công thậm chí còn xảy ra xô xát gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị tại khu vực trên. Trong khi đó, các khách hàng châu Âu lại là đối tác lớn của công ty, cho nên sự kiện này cũng có thể ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của công ty trong thời gian tới. Chính sách thuế quan: đây là một yếu tố quan trọng quyết định lợi nhuận cũng như khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường các nước nhập khẩu. Từ khi gia nhập WTO đến nay, nước ta đã được hưởng sự đối xử bình đẳng trong thương mại quốc tế. Các rào cản thuế quan đã từng bước được bãi bỏ, nhờ đó mà chúng ta có thể tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá sang thị trường các nước thành viên. Ngoài ra, việc ký các hiệp định song phương với các nước cũng đã tạo thêm nhiều thuận lợi cho quan hệ thương mại giữa hai nước điển hình hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam- Nhật Bản (VJEPA) ký vào ngày 25/12/2008. Khi hiệp định này có hiệu lực, hàng hoá xuất nhập khẩu vào hai nước sẽ được hưởng mức thuế thấp hơn và dần dần xoá bỏ thuế quan. Cụ thể là ít nhất 86% hàng nông lâm thuỷ sản và 97% hàng công nghiệp của Việt Nam vào Nhật Bản sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi với mức thuế suất bình quân sẽ giảm dần xuống đến 2,8% vào năm 2018. Các đạo luật có liên quan như: luật đầu tư, luật chống độc quyền, chống bán phá giá,… trong các nước nhập khẩu hàng hoá của công ty thì Hoa Kỳ và châu Âu là hai khu vực có đạo luật quy định khắc khe nhất trong vấn đề nhập khẩu hàng hóa, nhất là vấn đề bán phá giá. Cho nên sản phẩm của công ty khi bán sang các thị trường này đều phải thực hiện đầy đủ các thủ tục theo quy định. Đây cũng là điều khó khăn nhất mà công ty gặp phải trong thời gian qua. Tình hình kinh tế thế giới giai đoạn gần đây (E- Economic) Sau khi trải qua nhiều cuộc khủng hoảng, sang năm 2010 nền kinh tế thế giới bắt đầu giai đoạn phục hồi nhưng rất chậm chạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ tái khủng hoảng tài chính- tiền tệ. Theo đánh giá của Quỹ tiền tệ (IMF) thì thời kỳ khó nhăn nhất của kinh tế thế giới đã qua đi, thị trường vốn của các quốc gia dần dần ổn định trở lại, công nghiệp chế tạo đã bắt đầu phục hồi và tăng trưởng, lĩnh vực thương mại xuất nhập khẩu cũng đã tăng rõ nét. Cụ thể là cả năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức 4,2%, trong đó các nước phát triển là 2,3% còn thị trường mới nổi và các nước đang phát triển là 6,3%. Điều đáng mừng là ngoại thương của các nền kinh tế quan trọng đã xuất hiện sự tăng trưởng mang tính hồi phục. Xuất, nhập khẩu của Hoa Kỳ tăng trưởng lần lượt là 14,8% và 16%, khu vực Châu Âu là 7% và 3%, Nhật Bản là 43,5% và 20,7%. Mặc dù tình hình chung có vẻ khả quan nhưng nếu xét riêng ở từng quốc gia, châu lục lại có những mảng sáng tối khác nhau. Đối với Hoa Kỳ, tính cả năm 2010 thì GDP của nền kinh tế số 1 thế giới này tăng 2,9% trái ngược với mức sụt giảm 2,6% trong năm 2009 và 0% trong năm 2008. Như vậy, chỉ số này đã tăng trưởng trở lại sau khi trải qua giai đoạn khủng hoảng dài nhất và sâu rộng nhất kể từ những năm 1930. Theo nhận định thì cùng với chính sách kích thích và nới lỏng tiền tệ có giá trị lên đến 600 tỷ USD, các yếu tố khác giúp tạo đà tăng trưởng mạnh cho GDP là sự gia tăng trong chi tiêu tiêu dùng (3,5%) và xuất khẩu (14,8%). Tuy nhiên, đáng quan tâm dù kinh tế Hoa Kỳ có tăng nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn mức cận kề hai con số (9,8%). Đối với Châu Âu, cuộc khủng hoảng nợ công từ cuối năm 2009 mà bắt nguồn là từ Hy Lạp đã khiến cho 27 quốc gia trong khu vực này rơi vào khủng hoảng, chính phủ các nước tìm mọi cách giảm nợ nhất là tăng cường giảm chi tiêu, giảm lương, gây xáo trộn về mặt kinh tế cũng như ảnh hưởng đến chính trị- xã hội. Sang năm 2010 với mọi nỗ lực cố gắng, một số nước EU đã vượt qua khỏi cuộc khủng hoảng, từng bước phục hồi với mức tăng trưởng khá như Đức (2,2%), Phần Lan (4%), Ba Lan (3,5%), ngược lại các nước Đông Âu, Tây Nam Âu vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Tại Châu Á, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cùng với cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã làm đảo lộn trật tự kinh tế thế giới đưa các nước đang phát triển, mà tiêu biểu nhất là Trung Quốc và Ấn Độ sẽ trở thành các cường quốc kinh tế. Trong năm 2010, Trung Quốc được đánh giá là vị cứu tinh cho kinh tế thế giới nhờ sự tăng trưởng nhanh của GDP gần 10,3% cùng với lượng dự trữ ngoại tệ khổng lồ hơn 2.500 tỷ USD. Bên cạnh đó, hiện nay Trung Quốc còn kiểm soát đến 9% tổng kim ngạch xuất khẩu và 7% kim ngạch nhập khẩu trên toàn cầu. Theo dự đoán, sang năm 2011 dù sức ép lạm phát có thể làm nền kinh tế của cường quốc này tăng trưởng chậm lại nhưng vẫn duy trì ở mức 8- 9%. Còn về Ấn Độ, nền kinh tế lớn thứ ba châu Á đạt mức tăng trưởng gần 9% trong năm 2010 và được dự báo là sẽ vượt qua Trung Quốc vào năm 2012. Đối với Nhật Bản, năm 2010 dù đã để Trung Quốc qua mặt giành vị trí thứ hai thế giới nhưng nhìn chung kinh tế Nhật cũng đã có bước phục hồi đáng ghi nhận khi mà tăng trưởng GDP đạt 2,8%. Dù hiện nay, Nhật Bản vẫn còn đối mặt với tình trạng giảm phát và đồng Yên tăng giá bất thường song hoạt động sản xuất trong nước đã lạc quan hơn. Hơn nữa, lĩnh vực xuất khẩu đã tăng trở lại nhất là sang Trung Quốc và khu vực châu Á và các biện pháp hỗ trợ từ chính phủ bắt đầu phát huy tác dụng, đây chính là các yếu tố phục hồi kinh tế nước này. Tại khu vực Mỹ Latinh, Brazil đang nổi lên như là một trong những đầu tàu kinh tế- chính trị của các quốc gia mới nổi. Sức tiêu dùng mạnh của các tầng lớp trung và thượng lưu đã giúp ngành công nghiệp Brazil mạnh dạn gia nhập vào các lĩnh vực vốn được coi là độc quyền của phương Tây. Như vậy, khi vị thế của Hoa Kỳ và EU suy giảm thì trái lại, vị thế của các nền kinh tế mới nổi lại tăng lên rõ rệt. Mặc dù không tránh khỏi cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu, song các nền kinh tế mới nổi này gồm đại diện là bốn nước BRICs (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc), ngoài ra còn có Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico và một số nước khác vẫn đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm ở con số 6,5% gấp 2 đến 3 lần so với các nước phát triển. Theo báo cáo của IMF, sự đóng góp của nhóm BRICs đối với việc tăng trưởng kinh tế của thế giới trong 5 năm qua đạt gần 50% và dự trữ ngoại hối chiếm khoảng 60% tổng lượng dự trữ ngoại hối toàn cầu. Sang năm 2011, kinh tế thế giới phục hồi chậm lại do những khó khăn từ các nền kinh tế lớn như xu hướng giảm phát ở Nhật Bản, chủ động điều chỉnh tốc độ tăng trưởng chậm lại ở Trung Quốc, những khó khăn tiếp diễn về nợ công ở châu Âu, đặc biệt là trước tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng chính trị ở 11 nước Bắc Phi, Trung Đông và thảm hoạ thiên tai tại Nhật Bản. Trong bối cảnh đó, cộng đồng quốc tế lại phải tiếp tục đối mặt với những khó khăn như giải quyết nạn thất nghiệp, lạm phát, tiền tệ. Mặt khác theo dự báo thì giá lương thực sẽ tăng mạnh trong năm 2011, điều này tác động đến lạm phát trên toàn cầu và gây căng thẳng cho chính phủ các nước trợ cấp giá lương thực. Ngoài ra sự tăng trưởng nhanh của các nền kinh tế mới nổi cũng đang tạo ra sức ép lớn cho thị trường nguyên liệu, dẫn đến tình trạng thiếu hụt. Dự đoán trong năm 2011, nền kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng 3,1% trong đó Hoa Kỳ tăng khoảng 2,2%, khu vực EU tăng khoảng 1,3% còn kinh tế Nhật Bản sẽ tăng trưởng chậm hoặc có thể suy thoái. Tóm lại, sau cuộc khủng hoảng nền kinh tế thế giới đang dần phục hồi đặc biệt là ở các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia mới nổi bắt đầu gia tăng hoạt động sản xuất. Do đó, đây là thời điểm hết sức thuận lợi để chúng ta có thể tăng cường hợp tác xuất khẩu hàng hoá sang các nước trên, theo mục tiêu giữ vững thị trường hiện tại và thâm nhập các thị trường tiềm năng. Môi trường văn hoá (S- Sociocultural) Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hoá và các yếu tố xã hội đặc trưng và những yếu tố này là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu vực đó. Những sản phẩm của công ty hầu hết tiêu thụ ở các nước châu Á như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Đây là các nước có nền văn hoá tương đối giống với Việt Nam cho nên công ty dễ dàng nghiên cứu các yếu tố văn hoá, giúp cho việc xuất khẩu sang các nước này cũng gặp nhiều thuận lợi hơn. Tuy nhiên, đối với Nhật Bản ta cần chú ý đến vài vấn đề quan trọng như: do thu nhập cao nên người Nhật thường đòi hỏi khắt khe về chất lượng bao gồm cả vấn đề vệ sinh và hình thức. Gần đây, người Nhật thường quan tâm đến các vấn đề sinh thái nên các hàng hoá, bao bì thân thiện với môi trường được ưu tiên lựa chọn. Đây là một ưu thế cho các sản phẩm được chế biến từ dừa của công ty khi tiêu thụ ở thị trường này. Các đối tác ở khu vực châu Âu có phần khó khăn hơn cho công ty trong giao dịch xuất khẩu bởi họ có nền văn hoá khác biệt với chúng ta. Điển hình như tập quán kinh doanh của khách hàng châu Âu luôn dựa vào pháp luật và uy tín thương hiệu, trong khi chúng ta vẫn chịu ảnh hưởng lớn của các mối quan hệ và uy tín cá nhân. Thêm vào đó, người tiêu dùng ở khu vực này cũng dẫn ưa chuộng các loại hàng hoá không gây độc hại, an toàn với môi trường. Đối với thực phẩm, họ có khuynh hướng chọn các loại tốt cho sức khoẻ, không chứa nhiều chất béo động vật. Do đó, công ty cần chú ý đến tâm lý tiêu dùng để hạn chế những khó khăn khi xuất khẩu sang thị trường này. Môi trường công nghệ (T- Technological) Ngày nay, việc ứng dụng các thành tựu tiên tiến của khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã giúp ngành chế biến các sản phẩm từ trái dừa nâng cao năng suất cũng như chất lượng sản phẩm đầu ra. Đối với các sản phẩm qua tinh chế như như than hoạt tính, cơm dừa sấy khô, dầu dừa, bột sữa dừa,… thì lại càng đòi hỏi có những thiết bị máy móc hiện đại, đảm bảo đầy đủ các tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong toàn bộ quy trình sản xuất. Dù xuất hiện khá muộn so với các nước có ngành dừa là truyền thống như Indonesia, Philippines, Ấn Độ, Sri Lanka nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang dần bắt kịp công nghệ sản xuất hiện đại của các nước trên. Bên cạnh đó, họ còn phải cố gắng đạt được các tiêu chuẩn về chất lượng để có thể vượt qua những hàng rào kỹ thuật từ các nước nhập khẩu. Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001: 2008: đây là phiên bản tiêu chuẩn quốc tế mới nhất do tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO) ban hành, đang được nhiều tổ chức tại 175 quốc gia áp dụng, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, ISO 9001: 2008 đã trở thành chuẩn mực toàn cầu đảm bảo khả năng thoả mãn các yêu cầu về chất lượng và nâng cao hơn nữa sự thoả mãn của khách hàng trong các mối quan hệ giữa nhà cung cấp với khách hàng. Hệ thống Phân tích mối nguy và xác định điểm kiểm soát tới hạn (HACCP): là hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm mang tính chất phòng ngừa nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và chất lượng thực phẩm thông qua việc phân tích các mối nguy và thực hiện các biện pháp kiểm soát tại các điểm kiểm soát tới hạn. Xét riêng về phương diện quản lý an toàn và chất lượng, HACCP là hệ thống đang được toàn thế giới công nhận như là một hệ thống quản lý an toàn và chất lượng thực phẩm hữu hiệu nhất. Trước những yêu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng cũng như trách nhiệm của các nhà sản xuất, chế biến thực phẩm, các quốc gia trên toàn thế giới mà đặc biệt là Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada,… đều chính thức ban hành các quy định bắt buộc chỉ cho phép đưa ra thị trường những sản p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần Trà Bắc tỉnh Trà Vinh.doc
Tài liệu liên quan