Lời cam đoan.i
Lời cảm ơn .ii
Danh mục từ viết tắt.iii
Tóm lược luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế .iv
Mục lục.v
Danh mục các bảng .vii
Danh mục đồ thị .viii
PHẦN 1. MỞ DẦU.1
1. Tính cấp thiết của đề tài .1
2. Mục tiêu nghiên cứu.2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.3
4. Phương pháp nghiên cứu.3
5. Kết cấu của luận văn .4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HUY ĐỘNG CÁC
NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN .5
1.1. Tổng quan lý luận về huy động vốn đầu tư phát triển nông thôn .5
1.1.1. Khái niệm về huy động vốn .5
1.1.2. Một số chỉ tiêu huy động vốn đầu tư cho phát triển nông thôn .10
1.1.3. Các nguồn vốn tác động đến huy động vốn đầu tư phát triển nông thôn .10
1.2. Kinh nghiệm quốc tế và các địa phương trong nước về huy động vốn đầu tư
phát triển nông thôn .17
1.2.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc về huy động đóng góp cộng đồng cho phong trào
làng mới (Se-man-un-đông).17
1.2.2. Kinh nghiệm của Thái Lan từ phong trào mỗi làng một sản phẩm .20
1.2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ phong trào làng mới và phong trào mỗi làng
một sản phẩm .21
1.2.4. Kinh nghiệm xây dựng NTM ở thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương .25
120 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 653 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp huy động vốn đầu tư thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng trị đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vay đối với nông nghiệp, nông thôn, hỗ
trợ các ngân hàng thương mại có tỷ trọng cho vay nông nghiệp, nông thôn lớn (từ
40% trở lên)... Nguồn vốn tín dụng đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn tăng
nhanh theo chỉ đạo chung Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để triển khai thực hiện
Thông tư số 14/2010/TT-NHNN về hướng dẫn chi tiết thực hiện Nghị định
41/2010/NĐ-CP của Chính phủ thực hiện "Chính sách tín dụng phục vụ nông
nghiệp nông thôn". Kết quả tổng dư nợ tín dụng đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn
trong 3 năm là 3.155.066 triệu đồng, chiếm 37,7% phần nào phản ánh dòng vốn tín
dụng đầu tư để phát triển ngành nghề nông thôn tăng và cao hơn mục tiêu đề ra là
30%. Trong đó: dư nợ cho vay phát triển sản xuất ngành nghề nông thôn, chế biến,
tiêu thị nông, lâm, thủy sản và phát triển dịch vụ nông nghiệp là 1.563.285 triệu
đồng; dư nợ cho vay từ ngân hàng chính sách xã hội là 1.591.781 triệu đồng với
hơn 19.252 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách được tiếp cận
vay vốn với mức dư nợ bình quân 21 triệu đồng/hộ góp phần giúp cho 9.307 hộ
vượt ngưỡng thoát nghèo; thu hút tạo việc làm cho 1.618 lao động và 179 lao động
đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ cho vay 11.471 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh
khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng trên 25.292 công trình cấp nước sạch,
nhà tiêu hợp vệ sinh ở nông thôn. Tuy nhiên, hiện nay tín dụng cho xây dựng NTM
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu do năng lực tham gia thị trường tín dụng nông thôn
của nông dân còn bị hạn chế về khả năng tiếp cận và khả năng sử dụng hiệu quả
vốn. Các tổ chức tín dụng chính thức thường yêu cầu người đi vay phải thế chấp tài
sản và đối với nông dân, tài sản phổ biến nhất là đất hay nhà có kèm theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) hoặc ít nhất phải có giấy chứng nhận
tạm thời quyền sử dụng đất do huyện cấp. Tuy nhiên, tiến độ cấp GCNQSDĐ hiện
nay là khá chậm. Đối với chính sách cho vay không có đảm bảo đến 50 triệu, quy
mô vay vốn ở mức này không đủ để thúc đẩy mở rộng sản xuất của các hộ gia đình,
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
43
thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nông nghiệp, nông thôn. Ngoài ra, thủ tục
phiền hà và quy định rắc rối là một cản trở lớn đối với người dân có trình độ văn
hóa thấp, nhất là người dân ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và có thể làm nảy
sinh tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn. Xét về khả năng sử dụng vốn vay hiệu
quả, do hoạt động sản xuất nông nghiệp tiềm ẩn nhiều rủi ro khách quan từ yếu tố
diễn biến thời tiết phức tạp, khó lường, dịch bệnh và giá cả đầu ra... công tác dự báo
những ảnh hưởng nói trên còn yếu nên nhiều nông dân phải đối mặt với những khó
khăn và thua lỗ trong sản xuất. Điều này làm cũng tác động tiêu cực đến khả năng
trả nợ và mở rộng quy mô vốn vay.
Hộp 2. 1: Tiến độ cấp GCNQSDĐ năm 2013
Tính đến ngày 31/5/2013 toàn tỉnh đã cấp được 326.021 giấy, số giấy chứng nhận
đã trao 285.769; số giấy chưa trao 40.252. Theo báo cáo của Sở Tài nguyên –
Môi Trường tỉnh Quảng Trị diện tích đất nông nghiệp được cấp giấy toàn tỉnh đạt
73,1%; diện tích đất lâm nghiệp được cấp giấy 65,3%; diện tích nuôi trồng thủy
sản được cấp giấy mới đạt 63,8%. Diện tích đất ở đô thị được cấp giấy 87,1%;
diện tích đất ở nông thôn được cấp giấy 86,8%.
Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường (2013), Báo cáo tình hình cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo Nghị
quyết số 30/2012/QH13 phục vụ báo cáo tổng kết ngành.
Những yếu tố rủi ro của ngành nông nghiệp, các tổ chức tín dụng (TCTD)
thường tập trung ở những địa bàn có mật độ dân số cao như thành phố Đông Hà,
TX Quảng Trị, các Thị trấn Trung tâm huyện, lỵ ...Còn tại địa bàn nông thôn, mạng
lưới hoạt động của các tổ chức này chưa thực sự được quan tâm phát triển và
thường chỉ đáp ứng được khoảng 45-60% nhu cầu vay vốn tại chỗ cho nông nghiệp,
nông thôn. Nhiều tổ chức không huy động đủ vốn để đáp ứng nhu cầu vay của
khách hàng kịp thời.Các TCTD cũng thiếu quan tâm trong phát triển các sản phẩm,
dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông thôn, chủ yếu là tín dụng truyền thống, thiếu
các dịch vụ hỗ trợ đi kèm bởi các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm nông nghiệp, bảo
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
44
hiểm tín dụng nông nghiệp rất hạn chế, gần như phát triển ở giai đoạn thử
nghiệm.Công tác phát triển nhân lực cũng chưa được quan tâm nhiều. Nguồn nhân
lực ở các tổ chức tín dụng nông thôn bị đánh giá là thiếu khả năng chuyên môn về
tài chính nông thôn, năng lực quản trị rủi ro thấp, thiếu hiểu biết về sản xuất nông
nghiệp. Ở một số địa bàn, đội ngũ này thiếu hiểu biết về tiếng dân tộc để có thể
tuyên truyền cho vay vốn. Vì vậy, người dân thiếu tư vấn hỗ trợ hiệu quả từ phía
người cung cấp vốn và bị hạn chế khả năng tiếp cận vốn vay. Hệ thống chính sách
hỗ trợ vay vốn cho nông nghiệp, nông thôn còn chống chéo, thiếu tập trung, bao
quát và thống nhất. Nghị định 41/2010/NĐ-CP được coi giúp để gỡ “nút thắt” cho
tín dụng nông thôn nhưng đối tượng và phạm vi áp dụng trong Nghị định 41 lại
chưa đủ tính bao quát khiến cho nhiều đối tượng không tiếp cận được để vay vốn.
Điều 2 của Nghị định 41 quy định đối tượng khách hàng vay vốn là các hộ gia đình,
cá nhân, chủ trang trạikinh doanh sản xuất trên địa bàn nông thôn, nhưngtheo
hướng dẫn ở Thông tư 14/2010/TT-NHNN ngày 14/6/2010 của Ngân hàng Nhà
nước thì Điều 1 lại quy định “khách hàng vay vốn phải cư trú và có cơ sở hoặc dự
án sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông thôn”. Sự thiếuthống nhất này đã làm cả
tổ chức tín dụng cho vay và người dân lúng túng trong quá trình thực hiện. Nhiều cơ
sở sản xuất nông nghiệp ở vùng ven đô thị và nông, ngư dân cư trú tại các vùng ven
đô không tiếp cận được chính sách, mặc dù họ canh tác trên các thửa đất liền kề
nhau hoặc đánh bắt trên cùng ngư trường với nông, ngư dân đang thụ hưởng chính
sách. Hay như quy định chặt chẽ về tỷ lệ nội địa hóa không thấp hơn 60% trong
Quyết định 63/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ được ban hành ngày
15/10/2010 để hỗ trợ ưu đãi cho tổ chức hộ gia đình, cá nhân được vay vốn và hỗ
trợ lãi suất khi mua máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp cũng khiến cho khả
năng tiếp cận chính sách bị hạn chế. Lý do chính được đưa ra là các máy móc có tỷ
lệ nội địa hóa trên 60% có chất lượng thấp, tiêu hao nhiều nhiên liệu, dễ gặp sự cố,
khó sửa chữa Trong khi đó, các thiết bị này được nhập khẩu giá cao hơn nhưng
chất lượng vượt trội, dễ sử dụng, hiệu suất cao hơn. Bên cạnh đó, các định hướng
quy hoạch về phát triển nông nghiệp, nông thôn còn thiếu tính ổn định, ảnh hưởng
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
45
đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của người dân. Công tác khuyến nông, khuyến
lâm và tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng giữa doanh nghiệp - nhà nông - nhà khoa
học và ngân hàng còn nhiều bất cập. Việc triển khai ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào thực tế còn chậm. Tất cả những điều này đã làm hạn chế hoạt động vay vốn tín
dụng nông thôn.
2.3.2.4. Nguồn vốn doanh nghiệp, hợp tác xã
Tầm quan trọng cốt lõi của huy động nguồn lực từ doanh nghiệp tham gia
vào xây dựng NTM là tạo được sự gắn bó với nông dân trong sản xuất chế biến để
nâng cao được thu nhập cho người dân, tạo ra sự bền vững trong xây dựng NTM.
Điều kiện cần chính là tạo dựng được môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi để thu
hút doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, kể
từ khi thực hiện Chương trình NTM cho đến nay, những biện pháp cần thiết để cải
thiện môi trường đầu tư ở nông thôn chưa thực sự phát huy hiệu quả và do đó, khả
năng đóng góp của doanh nghiệp/tổ hợp tác vào xây dựng NTM thấp nhất so với
như kỳ vọng. Mặc dù Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 1099/QĐ-
UBND ngày 08/6/2009 về việc quy định một số chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư;
Quyết định số 2211/QĐ-UBND ngày 15/10/2014 của UBND tỉnh phê duyệt đồ án
quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Trị đến năm 2020. Nhờ vậy,
tổng nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp, Hợp tác xã đầu tư, hỗ trợ các xã trong
phong trào “Quảng Trị chung tay xây dựng nông thôn mới” trong 3 năm là 408.883
triệu đồng, đạt 4,9%. Tuy nguồn vốn hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã nhỏ và
thấp hơn mức dự kiến của chương trình là 20%, nhưng thể hiện trách nhiệm, nỗ lực
của các doanh nghiệp, hợp tác xã hỗ trợ góp phần thực hiện Chương trình. Mặt khác
hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn mặc dù đã được tăng cường đầu
tư nhưng nhiều nơi còn rất khó khăn, chia cắt đẩy chi phí sản xuất kinh doanh lên
cao. Tính cho đến hết năm 2013, cả tỉnh mới có 1,7% xã đạt tiêu chí NTM về giao
thông, khoảng 15,4% xã đạt tiêu chí thủy lợi; 41% xã đạt tiêu chí chợ nông thôn;
đặc biệt các xã của huyện nghèo Đakrông, Hướng Hóa tỷ lệ này đạt thấp hơn mức
bình quân chung của tỉnh. Đây là rào cản làm ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động mở
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
46
rộng đầu tư của doanh nghiệp ở nông thôn. Trình độ chuyên môn của lao động ở
nông thôn đã được cải thiện nhưng còn rất chậm so với yêu cầu. Với sự hỗ trợ
của nhà nước trong triển khai nhiều chương trình đào tạo nghề ở nông thôn, trình độ
chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn đã được nâng lên. Nhìn chung trình độ
nhân lực lao động nông thôn tỉnh Quảng Trị thấp hơn mức bình quân chung cả
nước. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh năm 2010 là gần 38%, thấp hơn mức bình
quân chung cả nước 40%. Đây là một nút thắt cho các doannh nghiệp đầu tư trên
địa bàn tỉnh nói chung và địa bàn nông thôn nói riêng. Công tác dồn điền đổi thửa
chưa thực sự hiệu quả, khiến doanh nghiệp khó mở rộng sản xuất kinh doanh, áp
dụng cơ giới hóa để tổ chức đầu tư hiệu quả; mặc dù, dồn điền đổi thửa (DĐĐT)
không phải là tiêu chí trong xây dựng NTM nhưng DĐĐT giúp giải quyết được cơ
bản tình trạng manh mún và phân tán ruộng đất, tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng
các tiến bộ khoa học và cơ giới hóa nông nghiệp, giúp giảm chi phí sản xuất và tăng
hiệu quả kinh doanh. Công tác DĐĐT đã được tiến hành trong những năm gần đây,
nhưng hiệu quả còn chưa cao. Kết quả điều tra hộ gia đình nông thôn năm 2012cho
thấy, đất đai người nông dân sở hữu vẫn còn khá manh mún. Số mảnh đất trung
bình mỗi hộ nắm giữ tuy giảm đi nhưng vẫn còn khá cao. Thêm vào đó, diện tích
trung bình mỗi mảnh cũng còn khá nhỏ và ít có sự thay đổi từ khi thực hiện chương
trình xây dựng NTM đến nay. Những đặc điểm đất đai này đã và đang tạo ra nhiều
thách thức đối với doanh nghiệp khi muốn đầu tư trên một mảnh đất có quá nhiều
chủ,nhất là trong nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả như cánh đồng mẫu lớn.
Nguyên nhân khách quan của tình trạng là do nhiều địa phương có địa hình không
đồng mức, nằm ở nhiều nơi khác nhau nên việc triển khai quy hoạch lại, chia đất
cho nhân dân gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, ở nhiều địa phương, công tác quy
hoạch sử dụng đất của các xã còn nhiều bất cập, chưa được công khai theo quy
định, tình trạng chuyển đổi đất lúa sang đất vườn ao ở một số nơi diễn ra không
theo quy hoạch và thiếu sự kiểm soát của các cấp chính quyền.
Để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ
đã ban hành Nghị định 61/2010/NĐ-CP hỗ trợ tiền thuê đất, hỗ trợ nguồn nhân lực,
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
47
tiếp cận thị trường, áp dụng tiến bộ khoa học và hỗ trợ chi phí vận tải. Tuy nhiên,
theo nhận định chung thì các mức hỗ trợ theo Nghị định này còn thấp và các cơ chế,
thủ tục để nhận các khoản hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước còn rườm rà và phức tạp.
Nhiều khoản hỗ trợ rất nhỏ (100 triệu đồng) nhưng thủ tục còn rườm rà (Giấy chứng
nhận ưu đãi, kế hoạch xét duyệt, kiểm soát giải ngân.) điều này đã làm nản chí
doanh nghiệp. Các địa phương cơ bản khó khăn về vốn đầu tư nên chưa dành nguồn
vốn hỗ trợ riêng để thực hiện nên các chính sách.Ngoài ra, Nhà nước còn thiếu một
khung chính sách để hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp trong điều kiện nông dân từ
nền sản xuất nhỏ đi lên nông nghiệp hợp đồng và tính chuyên nghiệp của doanh
nghiệp chưa cao, như hỗ trợ về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ cho sản phẩm lợi thế. Chính
sách liên kết giữa các thành phần kinh tế giữa sản xuất với tiêu thụ nông sản ở nông
thôn chậm được sửa đổi nên vấn đề tiêu thụ, chế biến sản phẩm vẫn chưa được khắc
phục và là điểm yếu nhất trong chuỗi giá trị. Hiện nay, tình trạng nông dân phá vỡ
hợp đồng với doanh nghiệp ở một số nơi là khá phổ biến, khiến cho doanh nghiệp
không thể và không muốn đầu tư lâu dài vào nông nghiệp, nông thôn.
2.3.2.5. Nguồn vốn huy động từ cộng đồng địa phương
Với vai trò là chủ thể trong xây dựng nông thôn mới, bằng nhiều hình thức
đóng góp như: công sức, tài sản, tài chính, tự nguyện giải phóng mặt bằng, hiến đất
Trong 3 năm qua nguồn vốn huy động từ cộng đồng địa phương là 433.980 triệu
đồng, chiếm 5,2% tổng vốn huy động cho phát triển NTM, thấp hơn so với mục tiêu
đặt ra (10%) nhưng dường như kết quả này cũng mang tính bị động chứ chưa hẳn là
do tác động tích cực từ những biện pháp huy động vốn của Chương trình bởi đóng
góp từ nguồn vốn doanh nghiệp rất thấp so với mục tiêu. Song Chương trình này đã
thu hút và huy động được sự tham gia nhiệt tình của người dân ở nông thôn, họ đã
đóng góp nguồn lực bằng nhiều hình thức như tiền, hiến đất, ngày công lao động, xi
măng, sỏi đá...Nhiều người dân đã chủ động đề xuất ý tưởng với chính quyền địa
phương về các giải pháp thực hiện NTM như để Hội cựu chiến binh, Hội người cao
tuổi đứng ra chủ động đảm nhiệm thi công đường thôn xóm và huy động người dân
đóng góp.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
48
Hộp 2.2: Nhân dân xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong hiến đất xây dựng NTM
Câu chuyện 20 hộ dân thôn Nại Cửu tự nguyện viết đơn hiến đất làm chợ nông
thôn là một điểm sáng trong phong trào xây dựng NTM tại xã Triệu Đông. Để có
chợ gần khu dân cư, các hộ dân này đã tình nguyện hiến từ vài chục đến vài trăm
mét vuông đất tạo mặt bằng trên 3 ha để xây dựng chợ mà không kèm theo một điều
kiện nào. Những hộ tiêu biểu như các ông Nguyễn Quý, Võ Khê, Lê Huỳnh ... đều
biết rõ theo giá thị trường hiện nay, từ 150-200 m2 đất có thể bán được hàng chục
triệu đồng nhưng vì mục đích chung, họ sẵn sàng hiến đất để làm chợ, giúp người
dân thuận lợi hơn trong mua bán, trao đổi nông sản, làm đẹp thêm bộ mặt quê
hương. Đối với việc mở rộng đường giao thông, người dân ở Triệu Đông cũng sẵn
sàng hiến đất. Ông Trần Văn Nam, người hiến gần 100 m2 đất để làm đường giao
thông cho biết: “Đường mở rộng 3 m, lợi ích trước hết thuộc về người dân, giúp
thuận lợi trong việc đi lại và vận chuyển nông sản. Vì vậy, tôi và nhiều hộ có đường
đi qua đều tự nguyện hiến đất để mở rộng đường”. Ngoài việc huy động nội lực tại
địa phương, con em quê hương làm ăn khắp nơi cũng tình nguyện gửi tiền về gần 5
tỷ đồng để đầu tư xây dựng các thiết chế văn hoá tại địa phương góp phần thực hiện
Chương trình xây dựng NTM Bên cạnh đó, để làm thay đổi bộ mặt nông thôn,
đảm bảo an ninh trật tự và văn minh thôn xóm, người dân trên địa bàn xã cũng tình
nguyện đóng góp trên 1 tỷ đồng để đầu tư làm hệ thống đèn chiếu sáng tại 100%
tuyến đường trên địa bàn xã. Việc thực hiện một số phong trào khác như: “Tiếng
kẻng an ninh”, xây dựng “Mô hình làng không có tội phạm” cũng được xã chú trọng
triển khai thực hiện.
Nguồn: Thanh Lê (2013) “Phong trào hiến đất để xây dựng nông thôn mới (NTM)
đã có sức lan tỏa ở nhiều địa phương của huyện Triệu Phong (Quảng Trị),
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
49
Bảng 2.5: Các yếu tố người dân muốn đóng góp cho chương trình xây dựng
Nông thôn mới (1: yếu tố ít ảnh hưởng nhất; 5: yếu tố ảnh hưởng nhất)
ĐVT: (%)
Yếu tố 1 2 3 4 5
Mang lại lợi ích cho gia đình:
- Tạo công ăn việc làm 13 38 38
- Nâng cao thu nhập 33 44
- Được tiếp cận tốt hơn và nhanh hơn các dịch vụ y tế,
chăm sóc sức khỏe, giáo dục
25 58
- Được tiếp cận tốt hơn và nhanh hơn các dịch vụ
giáo dục
33 50
Sự tin tưởng vào lãnh đạo thôn/ xã 20 60
Sự chỉ đạo rõ ràng từ ban chỉ đạo cấp xã/ thôn 25 58
Sự quan tâm, nhiệt tình của lãnh đạo xã/ thôn 30 50
Tác động từ Hiệp hội tham gia (hội phụ nữ, hội nông
dân..)
11 44
Khuyến khích về vật chất 25 25 25 25
Khuyến khích về tinh thần (bằng khen, gia đình văn
hóa,)
50
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của Đề tài
Đi sâu vào tìm hiểu các yếu tố quyết định đến sự tham gia đóng góp của
người dân cho Chương trình NTM. Qua nghiên cứu nhận thấy yếu tố tiên quyết
khiến cho nhiều người muốn đóng góp cho chương trình xây dựng NTM đó là
chương trình NTM mang lại lợi ích thiết thực, gần gũi cho gia đình và cho cộng
đồng. Hơn 50% số người được hỏi cho rằng nếu được tiếp cận tốt hơn và nhanh hơn
các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, họ sẽ sẵn sàng tham gia đóng góp
cho chương trình. Gần 40% số người được phỏng vấn cho rằng họ đóng góp vì tin
tưởng và mong đợi rằng chương trình NTM sẽ tạo công ăn việc làm và nâng cao thu
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
50
nhập cho họ. Niềm tin vào lãnh đạo thôn, xã cũng như sự chỉ đạo rõ ràng và quan
tâm nhiệt tình của cấp lãnh đạo cũng đóng vai trò quyết định để tạo cảm hứng, động
lực cho sự tham gia tích cực của người dân. Hơn 50% người dân được hỏi cho rằng
đây là trong những yếu tố ảnh hưởng nhất đến việc đóng góp của họ. Ngoài ra,
khoảng 44% số người được hỏi đánh giá cao sự tác động của các Hội đoàn thể như
Hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội nông dân và khoảng 50% người dân cho rằng
các khuyến khích về tinh thần như trao tặng bằng khen hay khen, biểu dương tại các
cuộc họp mang lại cho họ cảm giác hãnh diện và được ghi nhận, do đó tiếp thêm
động lực để đóng góp cho chương trình. Các khuyến khích về vật chất không được
nhiều người dân quan tâm nhiều bằng những yếu tố khác. Tuy nhiên, do điều kiện
kinh tế gia đình còn khó khăn ảnh hưởng đến khả năng đóng góp của người dân ở
nông thôn: Tính đến hết năm 2013, thu nhập bình quân/người ở nông thôn là 13,62
triệu đồng/năm, bằng 59,7% so với khu vực thành thị. Tỷ lệ nghèo ở nông thôn có
xu hướng giảm nhưng còn chậm từ 19,7% vào năm 2010 và xuống còn 11,76% hộ
nghèo cuối năm 2013 (theo chuẩn nghèo 2011-2015), cao hơn mức bình quân của
cả nước. Những số liệu này phần nào phản ánh đời sống vật chất của người dân ở
nông thôn còn hạn chế, do đó, nhiều hộ gia đình bị giới hạn khả năng đóng góp cho
xây dựng NTM.
Đồ thị 2.3: Tỷ lệ nghèo của cả tỉnh giai đoạn 2010-2013
Nguồn: Cục Thống kê Quảng Trị (2013) và tổng hợp tính toán của tác giả
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
51
Thông qua số liệu tổng hợp của Đề tài cũng nhận thấy đa phần người dân do
có điều kiện sống khó khăn nên hạn chế đóng góp cho Chương trình bằng tiền. Còn
đối với các hình thức đóng góp bằng đất đai, trên 80% người dân cho rằng đây là
hình thức họ ít muốn đóng góp nhất do đất đai hạn chế và là tài sản lớn, phương kế
sinh nhai của cả gia đình. Hình thức đóng góp mà người dân có tỷ lệ sẵn sàng cao
nhất tham gia ý kiến vàn ngày công lao động với khoảng70% và 55% ý kiến ủng hộ.
Bảng 2.6: Mức độ mong muốn đóng góp cho chương trình NTM
theo các hình thức (1: ít muốn đóng góp nhất; 5: muốn đóng góp nhất) (%)
Hình thức đóng góp 1 2 3 4 5
- Tiền 14 36 50
- Đất đai 86 14
- Vật liệu xây dựng 86 14
- Khác (hoa mầu, vật kiến trúc, cây cối,) 80 20
- Ngày công lao động 18 27 55
- Tham gia ý kiến 10 20 70
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của Đề tài
Mặt khác theo kết quả tổng hợp từ báo cáo của 117 xã, tổng hợp kết quả
khảo sát cho thấy cho thấy việc tiếp thu ý kiến của người dân chưa được thực hiện
sâu sát, triệt để và thiếu công khai minh bạch các khoản đóng góp đã phần nào ảnh
hưởng đến sự tham gia của người dân cụ thể: 72% ý kiến cán bộ xã cho rằng người
dân không tham gia ý kiến vào bản quy hoạch; 83% người dân không tham gia ý
kiến vào đề án NTM; 86%người dân chưa góp ý kiến cho lựa chọn mô hình sản
xuất, 92% người dân không tham gia ý kiến công trình thủy lợi ...
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
52
Bảng 2.7: Tỷ lệ người dân tham gia góp ý kiến vào Quy hoạch xây dựng NTM (%)
Nội dung góp ý Khi lập dự án Khi thực hiện
Có Không Có Không
Quy hoạch hạ tầng kinh tế - xã hội 31 69 56 44
Quy hoạch sử dụng đất 19 81 27 73
Quy hoạch phát triển sản xuất 25 75 27 73
Tỷ lệ người dân tham gia góp ý kiến
về Quy hoạch xây dựng NTM (%)
28 72 37 63
Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2013), Báo cáo sơ kết 3 năm thực
hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM và tổng hợp tính toán của tác giả
Nhiều người dân cũng phản ánh rằng bởi họ không được mời tham gia ý kiến
vào các vấn đề trên nên cũng hạn chế đóng góp cho Chương trình NTM. Hơn nữa,
khi người dân tham gia đóng góp ý kiến, nhiều người không biết ý kiến của mình có
được tiếp thu không (50%) hoặc cho rằng ý kiến của họ không được tiếp thu. Như
vậy, chính việc không công khai giải trình về những ý kiến được tiếp thu cũng như
những ý kiến không được tiếp thu từ chính quyền xã, thôn đã phần nào khiến người
dân nghĩ rằng ý kiến của họ không được lắng nghe, không được tôn trọng. Ngoài ra,
thông tin về các nguồn lực đóng góp của người dân chưa được công bố công khai,
minh bạch. Theo kết tổng hợp kết quả khảo sát, chỉ khoảng 22% ý kiến người dân
cho rằng việc đóng góp của họ được thông báo trên bản tin xã/ thôn, thông báo qua
loa, đài của xã, thôn hoặc trong các cuộc họp của xã/ thôn. Ngoài ra, khoảng 25%
người dân được hỏi cho biết còn thiếu dân chủ công khai minh bạch về các khoản
đóng góp bằng tiền. Việc này sẽ hạn chế tác động lan tỏa tích cực từ những người
dân đã đóng góp đến những người dân khác trong cộng đồng. Công tác tuyên truyền
tuy được thực hiện đa dạng, phong phú dưới nhiều hình thức nhưng chưa sâu, thiếu
trọng tâm và phương pháp tuyên truyền chưa phù hợp. Trên thực tế, nhiều hình thức
tuyên truyền đã được áp dụng bao gồm phát tờ rơi, qua đài phát thanh, hội diễn văn
nghệ, trong các cuộc họp tại thôn, xã nhưng công tác tuyên truyền vẫn mang nặng
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
53
tính hình thức, hô khẩu hiệu, chưa đủ sáng tạo. Tại nhiều nơi,công tác tuyên truyền
về Chương trình còn nặng về nội dung xây dựng cơ sở hạ tầng, nhẹ về nội dung
phát triển sản xuất, văn hóa, xã hội, môi trường. Dẫn đến một bộ phận nhân dân vẫn
còn hiểu sai lệch về xây dựng NTM, coi xây dựng NTM là đầu tư xây dựng các
công trình, dự án đầu tư. Nhiều người dân có quan niệm xây dựng NTM là dự án đầu
tư của Nhà nước cho nên còn xuất hiện tư tưởng trông chờ. Đại đa số những người
thuộc hộ nghèo, khó khăn, trình độ dân trí thấp, đồng bào dân tộc thiểu số đều cho
rằng họ không biết hoặc thậm chí chưa bao từng nghe về Chương trình này hoặc
nếu có nghe thì không hiểu NTM có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, khi được hỏi về việc kêu
gọi đóng góp sức lao động, tiền hoặc vật liệu xây dựng các cơ sở hạ tầng tại thôn,
xóm thì hộ dân nào cũng đều đã từng có người tham gia. Ngoài ra, lựa chọn kênh
thông tin phù hợp để người dân ở nông thôn dễ tiếp nhận thông tin tuyên truyền
cũng rất cần thiết. Cho dù, các biện pháp tuyên truyền trên truyền hình, phát thanh
phục vụ cho NTM đang được đẩy mạnh, song, kênh thông tin hữu ích nhất với
người dân nông thôn là thông qua họ hàng, bạn bè và hàng xóm, có tác động hơn
hẳn so với các hình thức tuyên truyền khác loa truyền thanh hay các bài báo. Yêu
cầu cần có trong tuyên truyền NTM đến mọi tầng lớp người dân, đặc biệt những
người có trình độ dân trí thấp là sự nhẫn nại, kiên trì từ lãnh đạo xã, thôn. Ngoài ra,
các thuật ngữ tuyên truyền cần được đơn giản hóa, dễ hiểu cho người dân. Đối với
nhiều người dân, các khái niệm như ”Nông thôn mới”, ”Quy hoạch” hay ”Cơ cấu
kinh tế” đều rất trừu tượng và khó hiểu. Nhiều địa phương cũng thừa nhận do đội
ngũ cán bộ còn thiếu kinh nghiệm trong triển khai thực hiện chương trình nên bước
đầu còn gặp khó khăn trong công tác tuyên truyền, chỉ đạo, điều hành cũng như tổ
chức thực hiện.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
54
Bảng 2.8: Tỷ lệ người dân tham gia góp ý kiến về các lĩnh vực chủ yếu
trong chương trình xây dựng NTM (%)
Nội dung đóng góp ý kiến Có Không
1. Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
- Các công trình giao thông (các trục đường xã/ thôn) 59 41
- Các công trình cung cấp điện 25 71
- Các công trình phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao (nhà văn
hóa xã, thôn..)
19 81
- Các công trình phục vụ y tế (trạm y tế) 25 75
-Các công trình giáo dục (trường học...) 27 73
- Các công trình thủy lợi (kênh mương, đê điều...) 8 92
- Chợ nông thôn 25 75
- Bưu điện 6 94
- Chỉnh trang nhà ở dân cư 19 81
2. Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập
- Lựa chọn sản phẩm chủ lực của địa phương 21 79
- Xây dựng và phát triển làng nghề 36 64
- Lựa chọn mô hình phát triển sản xuất 14 86
- Xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm 17 83
3. Hỗ trợ trọng tâm vào người nghèo (việc làm, đào tạo
nghề...)
43 57
4. Hỗ trợ an sinh xã hội (người già, trẻ em cơ nhỡ...) 40 60
5. Hỗ trợ đào tạo nghề 29 71
6. Xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông 21 79
7. Cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 43 57
8. Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng 14 86
9. Giữ vững an ninh trật tự xã h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_huy_dong_von_dau_tu_thuc_hien_chuong_trinh_muc_tieu_quoc_gia_xay_dung_nong_thon_moi_tinh_q.pdf