Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tại Sở Giao Dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Chương I: Lý luận về cho vay và chất lượng cho vay của Ngân hàng

thương mại. 2

1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại. 2

1.1.1 . Khái niệm về NHTM 2

1.1.2. Nghiệp vụ của NHTM 3

1.2. Lý luận về hoạt động cho vay. 3

1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay 3

1.2.2. Phân loại cho vay 4

1.3. Chất lượng cho vay của NHTM 6

1.3.1.Khái niệm chất lượng cho vay của NHTM 6

1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay của NHTM 7

a. Chỉ tiêu định tính 7

b. Chỉ tiêu định lượng 8

1.3.3 Ý nghĩa của nâng cao chất lượng cho vay 10

a. Đối với NHTM 10

b. Đối với nền kinh tế quốc dân 10

c. Đối với khách hàng 11

Chương II: Thực trạng chất lượng cho vay tại Sở Giao Dịch Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Việt nam 12

2.1 Khái quát về Sở Giao Dịch 12

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển 12

2.1.2 Cơ cấu tổ chức 13

2.2 Thực trạng chất lượng cho vay tại SGD trong thời gian 2003-2005 14

2.2.1 Doanh số cho vay và dư nợ 14

2.2.2 Hiệu quả cho vay 17

2.2.3 Một số rủi ro trong hoạt động cho vay 19

2.3 Đánh giá chất lượng cho vay 21

2.3.1 Kết quả 21

2.3.2 Tồn tại 22

2.3.3 Nguyên nhân 22

Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tại Sở Giao

Dịch 25

3.1 Định hướng công tác cho vay của SGD năm 2006 25 3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay 26

3.2.1 Tăng cường công tác huy động vốn 26

3.2.2 Thẩm định chặt chẽ dự án cho vay 27

3.2.3 Đảm bảo quy trình cho vay 27

3.2.4 Kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay 28

3.2.5 Tư vấn cho đơn vị vay vốn để sử dụng vốn có hiệu quả 28

3.2.6 Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ SGD 29

3.2.7. Tích cực xử lý nợ quá hạn 30

3.3 Một số kiến nghị 30

3.3.1.Kiến nghị với NHNN 30

3.3.2.Kiến nghị với NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam 31

3.3.3.Kiến nghị với các cơ quan địa phương 31

Kết luận 33

Tài liệu tham khảo 34

 

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tại Sở Giao Dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cao thì ngân hàng thương mại càng gặp khó khăn trong kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận, tức là tỷ lệ nợ quá hạn càng cao, chất lượng tín dụng càng thấp. Nợ quá hạn được chia làm hai loại: Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ quá hạn được ngân hàng đánh giá là khách hàng vẫn có khả năng tiếp tục trả nợ, những khoản nợ quá hạn làm giảm chất lượng cho vay vì thời gian thu hồi nợ bị kéo dài. nguyên nhân của những khoản nợ chậm trễ này do ngân hàng định kỳ trả nợ không phù hợp không phù hợp, hoặc khách hàng gặp phải những rủi ro bất ngờ làm cho dòng tiền từ hoạt động kinh doanh không trùng với thời hạn trả nợ. Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là những khoản nợ quá hạn mà khách hàng không còn khả năng trả nợ, nếu chỉ tiêu này cao sẽ ảnh hưởng trực tiếo đến sự tồn tại của ngân hàng. Nguyên nhân của những khoản nợ có khả năng mất vốn này là do sự yếu kém của ngân hàng trong khâu thẩm định, phân tích dự án hoặc do đạo đức của khách hàng. 1.3.3 ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng cho vay Đối với Ngân hàng thương mại Cho vay là hoạt động chính, đem lại lợi nhuận nhiều nhất cho ngân hàng nhưng khả năng rủi ro rất lớn. Nếu một khoản vay nào đó thất thoát thì trước tiên làm ngân hàng không còn khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng có trách nhiệm với các cổ đông đảm bảo mức chia lãi cổ phần hợp lý cũng như mức lương nhất định đối với nhân viên. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng cho vay để có một khoản dư nợ tốt mang lại sự an toàn và hiệu quả tài chính cao đối với ngân hàng rất quan trọng. Đối với nền kinh tế quốc dân Hoạt động cho vay đảm bảo đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân trong nền kinh tế, góp phần giảm chi phí lưu thông, ổn định thị trường. Nâng cao hoạt động cho vay đồng nghĩa với việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế đúng hướng, hiệu quả hơn làm cho khả năng trả nợ Ngân hàng cao hơn, giảm được những khoản nợ xấu, nợ không có khả năng chi trả, giảm được chi Ngân sách Nhà nước cho khoản dự phòng rủi ro. Nhờ vào hoạt động cho vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng có thể tăng cường kiểm tra, giám sát với khách hàng vay vốn, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế chung của nền kinh tế quốc dân. Đối với khách hàng Hoạt động cho vay cung cấp nguồn vốn quan trọng, mang tính chất quyết định cho các doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng chịu sự ảnh hưởng của chất lượng khoản vay rất nhiều. Một khoản vay có chất lượng cao với lãi suất hợp lý, thời gian giải ngân và thu nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng làm cho khoản vay có khả năng sinh lời cao đối với cả khách hàng và Ngân hàng. Chương 2 Thực trạng cho vay tại sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt nam 2.1 Khái quát về Sở giao dịch. 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được thành lập theo quyết định 177/TTg ngày 26/04/1957 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là một trong bốn Ngân hàng thương mại Nhà nước lớn nhất ở Việt Nam được hình thành sớm nhất và lâu đời nhất, là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức hoạt động theo mô hình Tổng công ty nhà nước. Trong quá trình hoạt động và trưởng thành, Ngân hàng được mang các tên gọi khác nhau phù hợp với từng thời kỳ xây dựng và phát triển của đất nước: Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam từ ngày 26/4/1957 Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Việt Nam từ ngày 24/6/1981 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ ngày 14/11/1990 Đầu năm 1991, thực hiện các quyết định của Nhà nước và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) triển khai hoạt động theo mô hình tổ chức mới. Ban lãnh đạo Ngân hàng đã xác định: Vốn là mặt trận phía trước, tín dụng là trung tâm với phương châm: ”Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của BIDV”. Đồng thời bước đầu triển khai các dịch vụ ngân hàng, mở rộng quan hệ đối ngoại và thanh toán quốc tế, đi vào tin học. Song song với việc tổ chức và đạo tạo cán bộ, BIDV cũng bước đầu mở thêm một số lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ mới như: Huy động vốn, Phát hành kỳ phiếu đảm bảo giá trị theo vàng, thanh toán quốc tế, cho vay XNK, cho vay và làm nhà ở… Trước những yêu cầu của nhiệm vụ mới, Ban lãnh đạo BIDV đã bàn bạc kỹ về đặc điểm của lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, đặc điểm của BIDV cũng như của khách hàng nhất là trong giai đoạn bước đầu thực hiện nhiệm vụ mới của một ngân hàng thương mại. Từ đó đã đi đến kết luận rằng cần thiết phải xin phép Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thành lập Sở giao dịch Sở giao dịch (SGD) được thành lập năm 1991 theo quyết định số 76/QĐ-TCCB ngày 28-3-1991 của Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam về việc thành lập SGD Ngân hàng Đầu Tư và phát triển Việt Nam. Theo quyết định này, SGD là đơn vị trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thực hiện hạch toán nội bộ, có bảng cân đối tài sản riêng, có con dấu riêng trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trụ sở của SGD đặt tại toà tháp A Vincom City Towers, 191 Bà Triệu, Hai Bà Trưng, Hà Nội. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, SGD đã trải qua ba thời kỳ chính: Thời kỳ 1991 –1995 : Thời kỳ bước đi chập chững với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát vốn ngân sách cho các dự án đầu tư của các Bộ, Ngành. Thời kỳ 1995 - 2000 : Giai đoạn khởi động chuyển hướng mạnh mẽ sang hoạt động kinh doanh, hạch toán kinh tế chủ động, tự trang trải. Thời kỳ 2000 đến nay : Giai đoạn trưởng thành, SGD đã tách ra, nâng cấp thêm bốn đơn vị thành viên chi nhánh cấp I trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trên địa bàn với tổng tài sản mỗi đơn vị trên 1000 tỷ đồng. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức. Sơ đồ về cơ cấu tổ chức của Sở Giao Dịch Ban giám đốc Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng nguồn vốn kinh doanh Phòng dịch vụ khách hàng DN Phòng dịch vụ khách hàng CN Phòng tín dụng Phòng thanh toán quốc tế Phòng điện toán Phòng kế toán tài chính Phòng tổ chức hành chính Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ Phòng thẩm định Phòng giao dịch I và phòng giao dịch II Nhìn vào sơ đồ trên mặc dù ta thấy các phòng ban đều độc lập với nhau nhưng thực chất các phòng lại luôn có quan hệ tác động qua lại, giúp đỡ, cùng phối hợp với nhau đảm bảo cho mọi hoạt động của SGD được tiến hành một cách nhanh chóng, thuận lợi, hướng tới mục đích chung là làm cho SGD phát triển ổn định, bền vững. Thực trạng chất lượng cho vay tại Sở Giao Dịch trong thời gian 2003- 2005 Doanh số cho vay và dư nợ. Trong năm 2004 và 2005 tình hình lãi suất huy động tăng đã dẫn đến lãi suất cho vay cũng phải tăng theo. Đây là khó khăn mà SGD gặp phải nhưng với những biện pháp hợp lý đã làm cho hoạt động cho vay thực sự phát triển lớn mạnh cả chiều rộng và chiều sâu. Đó là việc mở rộng quan hệ khách hàng trên nguyên tắc “Hợp tác- Phát triển- Bền vững” đi đôi với việc phục vụ khách hàng truyền thống, sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đó là việc đa dạng hoá sản phẩm với phương châm “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng” như: cho vay bổ sung vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh, hỗ trợ vốn trong khi chờ thanh toán của chủ đầu tư, đối ứng bằng tiền gửi, tài trợ xuất nhập khẩu, cầm cố, chiết khấu chứng từ có giá, mua nhà, ô tô trả góp, đồng tài trợ các dự án… Doanh số cho vay Bảng 2.1 Doanh số cho vay tại SGD năm 2003- 2005 Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 TĐ %03/02 TĐ %04/03 TĐ %05/04 Doanh số cho vay 2.940 97 3.106 107 3.727 120 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2004&2005) Hoạt động cho vay qua các năm đã được cải thiện cả về quy mô cũng như chất lượng góp phần thu hút khách hàng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của SGD. Năm 2003 doanh số cho vay giảm so với năm 2002, nguyên nhân là do thời gian này SGD tách chi nhánh Đông Đô và chi nhánh Hà Thành. Nhưng năm 2005 với tỷ lệ tăng trưởng tăng 20% so với năm 2004, SGD đã khẳng định mục tiêu, năng lực uy tín của chính mình. Dư nợ cho vay Dư nợ cho vay được hiểu là số tiền khách hàng đang còn nợ Ngân hàng tính đến ngày 31/12. Cùng với doanh số cho vay tăng dần theo hàng năm thì dư nợ cũng tăng đáng kể theo chiều hướng ổn định. Cụ thể là: Bảng 2.2: Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn đơn vị: tỷ đồng Loại vay 2003 2004 2005 04/03(%) 05/04(%) TĐ % TĐ % TĐ % 1. Ngắn hạn 971 18 1.100 23 2.156 38 113,3 196 2. Trung dài hạn 4.269 82 3.674 77 3.518 62 86,1 95,8 - TDH thương mại 3.366 65 3.000 63 3.050 54 89,1 101,6 - KHNN và chỉ định 903 17 674 14 468 8 74,6 69,4 Tổng cộng 5.186 100 4.774 100 5.674 100 92,1 118,8 (nguồn: báo cáo tổng kết năm 2004& 2005) Dư nợ cho vay của SGD trong 3 năm gần đây tương đối ổn định và cao. Dư nợ ngắn hạn liên tục qua các năm, năm 2004 tăng 13,3% so với năm 2003, đặc biệt năm 2005 tăng gấp đôi so với năm 2004 và chiếm gần 40% trong tổng dư nợ năm này. Với tỷ trọng lớn về cho vay trung- dài hạn có thể thấy đây là ưu thế nổi bật của SGD. Đây là đặc trưng của hệ thống Ngân hàng Đầu tư phát triển góp phần đáp ứng nhu cầu vốn trung- dài hạn cho nền kinh tế. Tuy nhiên cơ cấu dư nợ cho vay trung- dài hạn đang có xu hướng giảm dần: từ 82% năm 2003 xuống 77% năm 2004 và năm 2005 còn hơn 60%. Điều này phù hợp với mục tiêu kinh doanh tổng hợp đa năng của SGD, dần dần cân đối cơ cấu dư nợ với phương hướng giảm tỷ lệ cho vay trung- dài hạn, tăng tỷ lệ cho vay ngắn hạn. Tuy nhiên với đặc trưng của SGD thì cho vay trung- dài hạn vẫn chiếm ưu thế. Dư nợ theo kế hoạch Nhà nước và chỉ định đang giảm dần cụ thể: năm 2004 giảm 229 tỷ đồng và bằng 74,6% so với năm 2003, năm 2005 giảm còn 69,4% so với 2004, điều này chứng tỏ rằng sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động cho vay của SGD giảm và SGD được chủ động hơn nữa trong việc đánh giá khách hàng vay của mình. Bảng 2.3: Cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế đơn vị: tỷ đồng 2003 2004 2005 04/03(%) 05/04(%) TĐ % TĐ % TĐ % Quốc doanh 4.729 90 4.276 90 4.293 87 90,4 100,4 Ngoài quốc doanh 457 9 498 10 751 13 109 150,8 Tổng cộng 5186 100 4.774 100 5.764 100 92,1 118,8 ( nguồn: báo cáo tổng kết năm 2004&2005) Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp quốc doanh chiếm chủ yếu trong tổng dư nợ (trung bình 90%). Đây là đối tượng cho vay an toàn nhất bởi có sự bảo lãnh của Nhà nước. Bên cạnh việc phát huy thế mạnh cho vay đối với thành phần kinh tế quốc doanh, dư nợ cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng tăng dần qua các năm. Năm 2005, tỷ lệ cho vay thành phần này trong tổng dư nợ là 13%, tăng 253 tỷ đồng tương đương 50,8% so với năm 2004. Tuy dư nợ cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mới chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ nhưng cũng đã thể hiện được chính sách đa dạng hoá đối tượng khách hàng cho vay, sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phù hợp với tình hình chung của nền kinh tế. Nước ta đang trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước để kinh doanh có hiệu quả hơn, các công ty tư nhân ngày càng tăng lên về số lượng và chất lượng. Đây sẽ là nhóm khách hàng đầy tiềm năng mà SGD có thể khai thác trong thời gian tới. Tài sản đảm bảo luôn là điều kiện tiên quyết trong một hợp đồng tín dụng, nó không chỉ là cơ sở đưa ra hạn mức cho vay mà còn giúp cho ngân hàng tránh được thiệt hại lớn khi xảy ra rủi ro tín dụng, cơ cấu tín dụng về tài sản đảm bảo của SGD qua các năm: Bảng 2.4: Cơ cấu cho vay theo tài sản đảm bảo nợ vay đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2004 2005 05/04(%) TĐ % TĐ % Dư nợ có tài sản đảm bảo 2.530 53 2.837 50 112 Dư nợ không có tài sản đảm bảo 2.244 47 2.837 50 126,4 Tổng dư nợ 4.774 100 5.674 100 118,8 (Nguồn: báo cáo tổng kết năm 2004&2005) Xét về số lượng, dư nợ có tài sản đảm bảo năm 2005 tăng 307 tỷ đồng tương đương 12% so với năm 2004. Dư nợ không có tài sản đảm bảo năm 2005 tăng 26,4% do tổng dư nợ năm này tăng 18,8% so với năm 2004. Đây cũng là vấn đề mà SGD cần có biện pháp khắc phục trong thời gian tới. Tuy vậy, SGD đã hoàn thành chỉ tiêu cơ cấu tín dụng theo tài sản đảm bảo của Hội Sở Chính. 2.2.2 Hiệu quả cho vay tại Sở Giao Dịch Hiệu suất sử dụng vốn Hiệu suất sử dụng vốn phản ảnh hiệu quả của quá trình sử dụng vốn. Trong 3 năm (2003-2005) với nhiều hình thức huy động vốn đa dạng, linh hoạt, hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu của khách hàng gửi tiền và hệ thống công nghệ hiện đại SGD đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn mới: tiết kiệm lãi suất bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm ổ trứng vàng… làm cho nguồn vốn huy động liên tục tăng trưởng đảm bảo nguồn vốn cho vay. Bảng 2.5 Hiệu suất sử dụng vốn năm 2003- 2005 Đơn vị: tỷ đồng 2003 2004 04/03(%) 2005 05/04(%) Tổng vốn huy động 9.210 7.070 76,7 10.652 150 Tổng dư nợ 5186 4.774 92 5.764 121 Hiệu suất sử dụng vốn 56,3% 67,5% 120 54,1% 76,1 (Nguồn: báo cáo tổng kết năm 2004&2005) Hiệu suất sử dụng vốn của SGD trong 3 năm gần đây luôn đạt trên 50%. Năm 2004, do ảnh hưởng của cuộc cạnh tranh lãi suất giữa các Ngân hàng thương mại nên nguồn vốn huy động giảm 8% so với năm 2003, nhưng SGD đã sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn trên thể hiện ở con số 67.5%. Năm 2005 tổng dư nợ tăng 21% so với 2004 nhưng nguồn vốn huy động tăng 50% làm cho tỷ lệ tổng dư nợ trên tổng nguồn vốn giảm. Nhưng xét tổng quát thì hiệu suất sử dụng vốn của SGD đang ngày càng tăng trưởng. Hệ số quay vòng vốn cho vay Bảng 2.6: Hệ số quay vòng vốn cho vay Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2003 04/03(%) 2005 05/04(%) Doanh số thu nợ 2.882 3.106 108 3.772 120 Hệ số quay vòng vốn 0,55 0,65 120 0,66 101,5 (Nguồn: báo cáo tổng kết năm 2004&2005) Doanh số thu nợ của SGD tăng dần theo mỗi năm, đặc biệt năm 2005 doanh số thu nợ tăng 20% so với năm 2004. Đây cũng chưa hẳn là một con số lý tưởng bởi lẽ dư nợ bình quân của SGD cũng rất cao, dẫn đến hệ số quay vòng vốn chỉ ở mức trên 60%, điều đó có nghĩa là 60% vốn cho vay được đầu tư vào dự án mới trong một năm. Nhưng điều đó cũng cho thấy SGD đã sử dụng nguồn vốn cho vay có hiệu quả. Tỷ lệ sinh lời và lợi nhuận cho vay Với đặc thù hoạt động kinh doanh của SGD nói riêng và của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói riêng thì cho vay là nghiệp vụ chủ yếu. Vì vậy lợi nhuận từ hoạt động này chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng lợi nhuận của SGD Bảng 2.7: Lợi nhuận của hoạt động cho vay Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 04/03(%) 2005 05/04(%) Lợi nhuận của SGD 215 138 64,2 176,8 128 Lợi nhuận từ cho vay 176,3 120 68 144 120 Tỷ lệ sinh lời (%) 3.3 2,5 76 2.5 100 Tỷ lệ lợi nhuận cho vay(%) 82 87 106 81.4 94 (Nguồn: báo cáo tổng kết năm 2004&2005) Trong 3 năm (2003- 2005) tỷ trọng lợi nhuận từ cho vay của SGD luôn ở mức trên 80% tổng lợi nhuận của SGD. Năm 2004, lợi nhuận của SGD giảm đáng kể do phải chia một phần lợi nhuận cho Chi nhánh Đông Đô tách ra thành chi nhánh chính của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam dẫn đến lợi nhuận từ hoạt động cho vay cũng giảm theo. Nhưng năm 2005, SGD đã vượt kế hoạch đề ra về tăng trưởng lợi nhuận, lợi nhuận từ hoạt động cho vay cũng tăng 20%. Tỉ lệ sinh lời của 1 đồng vốn cho vay của SGD tuy chưa cao, mỗi đồng vốn cho vay mang lại khoảng 0,025 đồng lợi nhuận, nhưng với doanh số cho vay và dư nợ mỗi năm lớn thì đây là mức có thể chấp nhận được. 2.2.3 Một số rủi ro trong hoạt động cho vay Cho vay là nghiệp mang lại lợi nhuận lớn nhất cho SGD, nhưng cũng là nghiệp vụ có tính rủi ro cao nhất. Nói đến thực trạng chất lượng cho vay không thể không nói đến khả năng không thu hồi nợ đúng hạn, nợ không có khả năng thu hồi, và có khả năng mất vốn. Bảng 2.8: Số liệu về nợ quá hạn Đơn vị: Tỷ đồng 2003 2004 2005 04/03(%) 05/04(%) TĐ % TĐ % TĐ % 1.Tổng nợ quá hạn 77,6 100 46,7 100 54,2 100 60.2 115.8 - Ngắn hạn 37,6 49 22,4 48 34,3 64 59,6 153,6 - Trung dài hạn 21,9 28 18,8 48 17,9 33 85,8 95,2 - Kế hoạch Nhà nước 18,1 23 5,5 12 1,8 3 30,4 32,7 2. Tỷ lệ nợ quá hạn(%) 1,5 0,98 0,95 65,3 97 (Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004&2005) Qua bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ qua các năm 2004 và 2005 giảm đáng kể so với năm 2003, và giảm xuống dưới mức 1%. Chúng ta có thể thấy rõ là tỷ lệ nợ quá hạn đối với món cho vay theo kế hoạch nhà nước và chỉ định giảm đáng kể, mỗi năm nợ quá hạn giảm khoảng 70% so với năm trước, điều này phù hợp với chủ trương của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung và SGD nói riêng là: giảm cho vay theo kế hoạch Nhà nước để mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tỷ lệ nợ quá hạn đối với món vay trung dài hạn đang giảm xuống, đây là dấu hiệu mừng và chứng tỏ rằng SGD đã sàng lọc và đánh giá đúng đối tượng vay. Tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn đối với những món vay ngắn hạn đang còn ở mức cao và SGD cần phải xem xét điều này để đưa ra kế hoạch trong năm 2006. Bảng 2.9: Nợ quá hạn theo khả năng thu hồi Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2005 04/03(%) 05/04(%) TĐ % TĐ % TĐ % NQH có khả năng thu hồi 52 67 34,1 73 41,7 77 65,6 122 NQH không có khả năng thu hồi 25,6 33 12,6 27 12,5 23 49,2 98,8 Tổng NQH 77,6 100 46,7 100 54,2 100 60,2 115,8 (Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004&2005) Tỷ lệ nợ không có khả năng thu hồi (nợ khó đòi) chiếm khoảng 27% trên tổng nợ quá hạn, đây là mức thấp so với tỷ lệ nợ khó đòi của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Nợ khó đòi năm 2004 giảm chỉ còn 49,2% so với năm 2003 . Năm 2005 tỷ lệ nợ khó đòi chỉ còn 23% trên tổng nợ quá hạn. Số nợ khó đòi tập trung nhiều ở các dự án được cho vay theo kế hoạch Nhà nước và chỉ định, đặc biệt doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. Đánh giá chất lượng cho vay Kết quả Trong những năm qua, hoạt động cho vay của Sở Giao Dịch phát triển cả về quy mô cũng như chất lượng. Sản phẩm cho vay đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng và thực sự là phương tiện không thể thiếu giúp khách hàng của SGD kinh doanh hiệu quả. Nhờ đó, uy tín của SGD ngày càng cao, thị phần được giữ vững. SGD đã duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng truyền thống kinh doanh hiệu quả, đồng thời mở rộng quan hệ với nhiều khách hàng mới thực sự đáng tin cậy. Doanh số cho vay, dư nợ, thu nợ tăng dần qua các năm, khách hàng vay vốn đều sử dụng đúng mục đích đã ký kết trong hợp đồng. Tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu, nợ không thu hồi được ngày càng giảm. Công tác xử lý nợ tiến hành hiệu quả, cụ thể: kết quả thu nợ trong năm 2005 hơn 30 tỷ đồng nợ chỉ định, và 6,1 tỷ đồng nợ hạch toán ngoại bảng, gần 30 tỷ đồng lãi vay tồn từ các năm trước. Trích lập đủ và vượt kế hoạch dự phòng rủi ro theo quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước, cụ thể đã trích 51 tỷ đồng, nâng số quỹ dự phòng rủi ro lên 138,69 tỷ đồng. Tồn tại Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu và nợ không thu hồi được trong những năm qua tuy có chiều hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao (9%) so với nợ xấu của toàn ngành (năm 2004 tỷ lệ nợ xấu của toàn bộ các Ngân hàng tại Việt Nam là 2.85%). Sở Giao Dịch cần có những biện pháp xử lý để hạ tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 5% (mức được xem là lành mạnh theo thông lệ quốc tế). Cơ cấu cho vay chưa hợp lý và chưa phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp Nhà nước còn quá cao, cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn khiêm tốn. Trong số các khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn nhiều khách hàng hoạt động kinh doanh chưa thực sự hiệu quả, không thanh toán được đúng thời hạn của hợp đồng cho vay đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp dẫn đến lượng nợ quá hạn tăng, tăng mức rủi ro cho SGD. Công tác Marketing của SGD cũng như của Ngân hàng chưa được thực sự đẩy mạnh. SGD chưa có các biện pháp tích cực để lôi kéo khách hàng, đôi khi còn quá tin tưởng vào các khách hàng quen mà quên mất rằng nếu họ được các ngân hàng khác chào mời với các lợi ích nhất định thì SGD có thể sẽ mất khách. Chính vì vậy SGD cần có chính sách khuyến khích khách hàng thường xuyên. Nguyên nhân Nguyên nhân chủ quan Hệ thống thông tin tín dụng còn yếu, chất lượng cung cấp thông tin chưa cao, chưa kịp thời. Việc thẩm định dự án trước khi cho vay, nhất là dự án trong lĩnh vực xây lắp chưa thực sự chặt chẽ dẫn đến việc thu hồi nợ không đúng hạn. Khâu kiểm tra, kiểm soát nội bộ của SGD vẫn chưa được thực hiện đúng mức, cán bộ làm công tác thanh tra còn thiều về số lượng, kinh nghiệm thực tế. Số lượng cán bộ trẻ chiếm tỷ lệ lớn tuy có sự năng động, nhiệt tình trong công việc nhưng còn thiếu kinh nghiệm, phần lớn đang còn trong quá trình tiếo cận, đào tạo và học hỏi. SGD còn thiếu những cán bộ được đào tạo chuyên ngành kỹ thuật để thẩm định tính khả thi và hiệu quả của dự án kỹ thuật Việc đánh giá tài sản cầm cố thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng chưa phù hợp với giá cả thị trường nên khi xảy ra rủi ro tín dụng SGD bị thiệt hại lớn. Nguyên nhân khách quan Nguyên nhân từ phía khách hàng: + Trình độ quản lý và kinh doanh của các doanh nghiệp còn hạn chế, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn nặng cơ chế thủ tục hành chính, bộ máy quản lý và đội ngũ nhân viên còn thiếu tác phong công nghiệp dẫn đến hoạt động kinh doanh kem hiệu quả, không bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế. + Một số ít doanh nghiệp Nhà nước còn có tư tưởng coi tín dụng Ngân hàng như một khoản cấp phát của Ngân sách Nhà nước nên việc sử dụng vốn kém năng động + Một số khách hàng không cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin tài chính gây khó khăn cho công tác thẩm định, kiểm tra của Ngân hàng. Nguyên nhân từ cơ quan quản lý + Hành lang pháp lý tuy thông thoáng hơn nhưng chưa đồng bộ, các văn bản hướng dẫn còn chưa rõ ràng, cụ thể khiến cho việc thực hiện gặp nhiều lúng túng. + Các vướng mắc trong việc xử lý tài sản đảm bảo còn gặp nhiều khó khăn, SGD chưa tự chủ động xử lý tài sản đảm bảo, phải nhờ đến cơ quan pháp luật làm tốn nhiều thời gian, chi phí, rủi ro cho SGD trong việc phát mãi tài sản thế chấp do sự biến động về thời gian của tài sản và giá cả thị trường. Chương III Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tại Sở giao dịch Định hướng công tác cho vay của Sở Giao Dịch năm 2006 Trong năm 2006, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang từng bước phát triển với nhiều cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn, thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế được dự đoán sẽ có nhiều biến động. Trước tình hình đó và những bài học kinh nghiệm, dựa vào nguồn lực sẵn có, SGD đã xác định một số định hướng phát triển hoạt động cho vay trong năm 2006 như sau: Tổng dư nợ cho vay cuối kỳ đạt 6.800 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2005, dư nợ bình quân 6.200 tỷ đồng, tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo 60% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1%, trích lập dự phòng rủi ro là 50 tỷ đồng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả cho vay thông qua việc điều chỉnh lại cơ cấu cho vay: tăng cho vay với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có uy tín, kinh doanh hiệu quả ổn định, giảm dư nợ cho vay từng bước đối với các doanh nghiệp quốc doanh đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. Giảm dần tỷ trọng cho vay trung- dài hạn, tăng cho vay ngắn hạn. Mở rộng cho vay kinh tế hộ gia đình, cho vay sinh hoạt, tiêu dùng với cánh bộ công nhân viên, cho vay chính sách đối với học sinh, sinh viên tại các trường Đại học, Cao đẳng. Công tác thẩm định ngày càng được nâng cao và hoàn thiện hơn kể cả về mặt chất lượng cũng như số lượng. SGD quản lý tốt hạn mức của tất cả khách hàng có quan hệ tín dụng với SGD, kiểm soát dư nợ, thực hiện đúng đường lối, chủ trương của ngành đề ra. Trong năm 2005, số lượng dự án đã được thẩm định, được phê duyệt cho vay lên là 39 dự án với tổng mức đầu tư lên tới 9.200 tỷ đồng, số lượng tài sản đảm bảo đã thẩm định trong năm là 83 tài sản. Tiến hành nghiêm túc, chặt chẽ trong quá trình đánh giá khách hàng, trích dự phòng đầy đủ và hợp lý, nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ, hoạt động kinh doanh trên cơ sở cân đối giữa tài sản và nguồn vốn. Ngoài ra, những công tác xử lý, phân loại nợ xấu, triển khai công tác giám sát tài sản đảm bảo cần làm tốt hơn nữa, để tỷ trọng tài sản đảm bảo trên tổng dư nợ tăng lên bằng nhiều hình thức: tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay, thế chấp, cầm cố các khoản phải thu… Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay Trong hoàn cảnh luôn luôn phải cạnh tranh với các Ngân hàng thương mại khác thì việc nâng cao chất lượng cho vay là một vấn đề hết sức cấp bách đối với SGD. Trên cơ sở tình thực tế và những kinh nghiệm đúc rút được trong thời gian qua, có thể đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay như sau: 3.2.1 Tăng cường và đa dạng hoá công tác huy động vốn: Để có thể nâng cao và mở rộng hoạt động cho vay thì việc có một nguồn vốn lớn, ổn định là vô cùng quan trọng. Vì vậy tăng cường công tác huy động vốn là hoạt động cần thiết đối với hoạt động của SGD nói chung và của công tác cho vay nói riêng. Bằng việc nâng cao cạnh tranh về lãi suất huy động vốn và tiện ích để có thể duy trì khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới nhằm tăng nguồn vốn huy động từ dân cư. Với nhiều hình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32822.doc
Tài liệu liên quan