Luận văn Giải pháp phát triển công nghiệp Việt Nam trong thời kì sau gia nhập WTO - Bài học từ Trung Quốc

Môc lôc

 

Lời nói đầu 3

Chương I. VIỆT NAM RA NHẬP WTO VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

I. TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO. 6

1. Yêu cầu của sự ra đời tổ chức thương mại thế giới WTO 6

2. Giới thiệu về WTO 6

3. Lợi ích và khó khăn khi gia nhập WTO 9

II. VIỆT NAM RA NHẬP WTO 10

1. Sự cần thiết gia nhập WTO 10

2. Những lợi ích có được khi Việt Nam gia nhập WTO 12

3. Những thách thức phải đối mặt khi Việt Nam gia nhập WTO 12

III. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO ĐẾN CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 14

Chương II. THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI CỦA CÔNG NGHIỆP TRUNG QUỐC TRONG THỜI KÌ HẬU WTO

I. KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC CHUNG CỦA CÔNG NGHIỆP TRUNG QUỐC TRƯỚC KHI GIA NHẬP WTO 17

1. Khủng hoảng thừa 17

2. Mức độ bảo hộ cao 18

3. Vấn đề về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp 19

4. Tác động đến một số ngành công nghiệp cụ thể 19

II. THỰC TRẠNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRUNG QUỐC TỪ SAU KHI GIA NHẬP WTO 25

1. Nghành công nghiệp ô tô 27

2. Nghành dệt may 28

3. Ngành thông tin điện tử 28

III. ĐỐI SÁCH CỦA TRUNG QUỐC TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP 28

1. Đối sách chung của Trung Quốc 28

2. Những điều chỉnh và biện pháp chính sách ứng phó với việc gia nhập WTO của Trung Quốc 30

IV. VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI 32

1. Phát triển công nghiệp theo chiều rộng 32

2. Nạn thất nghiệp ngày một trầm trọng hơn 35

3. Tính minh bạch và quyền sở hữu trí tuệ là điểm đen bất ổn của kinh tế Trung Quốc 35

4. Trung Quốc chú trọng phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp cao mà bỏ quên những nghành công nghiệp chế biến 36

5. Cơ sở vật chất hạ tầng xã hội và bưu chính viễn thông của Trung Quốc 36

6. Tranh chấp thương mại gia tăng nhất là từ khi Trung Quốc gia nhập WTO 37

Chương III. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN THỜI KỲ HẬU WTO

I. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC WTO 38

1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trứơc khi gia nhập WTO đối với ngành công nghiệp 38

2. Thực trạng phát triển ngành công nghiệp Việt Nam trứơc khi gia nhập WTO 39

3. Đánh giá từng phân ngành công nghiệp 47

II.CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO 51

1. Mục tiêu phát triển ngành công nghiệp sau khi gia nhập WTO 51

2. Kế hoạch phát triển công nghiệp trong giai đoạn tiếp theo 53

3. Thực trạng công nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO 58

III. SO SÁNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VỚI CÔNG NGHIỆP

 TRUNG QUỐC 64

1. Điểm giống nhau 64

2. Điểm khác nhau 65

Chương IV. GIẢI PHÁP CHO CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

I. CÁC GIẢI PHÁP RÚT RA TỪ BÀI HỌC PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TRUNG QUỐC 68

1. Giải pháp 1 68

2. Giải pháp 2 69

3. Giải pháp 3 70

4. Giải pháp 4 70

5. Giải pháp 5 71

6. Giải pháp 6 72

7. Giải pháp 7 74

Phụ lục 76

Tài liệu tham khảo 81

 

doc81 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2453 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển công nghiệp Việt Nam trong thời kì sau gia nhập WTO - Bài học từ Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HIỆP VIỆT NAM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN THỜI KỲ HẬU WTO I. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRƯỚC KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC WTO: 1. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trứơc khi gia nhập WTO đối với ngành công nghiệp: Cho tới trước khi gia nhập WTO mục tiêu của công nghiệp Việt Nam đó là : - Mục tiêu chung: Tốc độ tăng trươởng GDP bình quân hàng năm của nền kinh tế là 7,5%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng 38-39%, nông lâm ngơư nghiệp 20-21%, các ngành dịch vụ 41-42%. - Mục tiêu phát triển ngành công nghiệp: + Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng bình quân 13%/năm; + Ngành điện tăng trưởng 13,1%/năm, năm 2005 dự kiến điện sản xuất đạt 49 tỷ Kwh; + Ngành than tăng trưởng 6,8%/năm, năm 2005 dự kiến sản lượng than sạch khoảng 15 triệu tấn và xuất khẩu khoảng 3,5 triệu tấn/năm; + Ngành dầu khí tăng trưởng khoảng 4-5%/năm, năm 2005 dự kiến đạt sản lượng 22 - 22,5 triệu tấn dầu quy đổi và xuất khẩu khoảng 12 - 16 triệu tấn/năm; + Ngành thép tăng trưởng khoảng 14-15%/năm, năm 2005 dự kiến đạt sản lượng 3,3 triệu tấn thép xây dựng, 1 - 1,4 triệu tấn phôi thép và 0,7 triệu tấn thép các loại khác; + Ngành xi măng tăng trưởng khoảng 13%/năm, năm 2005 dự kiến đạt sản lượng sản xuất 23-24 triệu tấn xi măng; + Ngành giấy tăng trưởng khoảng 10%/năm, năm 2005 dự kiến đạt sản lượng 605 ngàn tấn giấy; + Ngành cơ khí được lựa chọn là một trong những ngành mũi nhọn tập trong phát triển vào các nhóm sản phẩm: cơ khí phục vụ nông lâm ngư nghiệp, xây dựng, công nghiệp nhẹ và thiết bị toàn bộ; cơ khí đóng tàu; cơ khí chế tạo máy công cụ; công nghiệp ôtô, xe máy; cơ khí chế tạo vật liệu và thiết bị điện; + Tổng giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp tăng bình quân 16%/năm, năm 2005 dự định đạt 19,5 tỷ USD, trong đó hàng dệt may chiếm khoảng 4 tỷ USD, hàng da giày chiếm khoảng 3,5 tỷ USD, hàng linh kiện điện tử chiếm khoảng 1,5 tỷ USD. Để đạt được các mục tiêu tăng trưởng trên trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 tổng nhu cầu vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp khoảng 400.000 tỷ đồng. Trong đó, nguồn vốn nhà nước và các DNNN tự huy động, tự vay trả chiếm khoảng 45%, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài chiếm khoảng 27%, vốn ODA chiếm khoảng 7,5%, còn lại là vốn của khu vực tư nhân khoảng 20%. 2. Thực trạng phát triển ngành công nghiệp Việt Nam trước khi gia nhập WTO 2.1. Những thuận lợi và khó khăn 2.1.1. Thuận lợi: * Tình hình thế giới: Từ năm 2000, kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng kinh tế - tài chính, đặc biệt là các nền kinh tế Đông Nam á và các nước NICS. * Tình hình trong nước: - Tình hình chính trị - xã hội ổn định và kinh tế trong nước tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, tạo điều kiện để duy trì tăng trưởng công nghiệp. Ngoài ra, việc triển khai các chương trình hành động thực hiện các Nghị quyết Trung ương 3, 5 và 9 (khoá IX) tạo ra môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi và hiệu quả hơn cho phát triển công nghiệp. - Việc mở rộng quan hệ quốc tế với các nước, ký kết và thực hiện các Hiệp định thương mại và đầu tư trong đó có Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, Việt - Nhật, thực hiện chương trình thu hoạch sớm asean- Trung Quốc... tiếp tục thúc đẩy quá trình đầu tư và xuất nhập khẩu, tạo đà tăng trưởng công nghiệp đặc biệt là các ngành dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ. - Các chính sách phát triển và khung khổ pháp lý cho hoạt động kinh doanh đã và đang được hoàn chỉnh tạo môi trường tốt hơn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi đã phát huy tác dụng tích cực trong thực tế. 2.2.2 Khó khăn: * Tình hình thế giới: Tính bất định, khó lường và rủi ro của tình hình thế giới gia tăng. Năm 2003 xảy ra bệnh dịch sars, dịch cúm gia cầm cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, giá một số vật tơ, nguyên liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất tăng đột biến và kéo dài (từ năm 2003 đến nay) như giá xăng dầu, sắt thép, phân bón, sợi, nguyên liệu nhựa đã ảnh hưởng đến sản xuất trong nước và xuất khẩu. Cuộc chiến ở I-rắc và sự mất giá của đồng đô-la có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội…. * Tình hình trong nước: - Việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường theo lộ trình giảm thuế quan chung cept (afta) đã được thực hiện từ năm 2000, từ 01/01/2003 đưa thêm khoảng 760 mặt hàng đang nằm trong danh mục tạm thời vào danh mục cắt giảm ngay và xoá bỏ hoàn toàn các hạn chế định lượng (quota, giấy phép). Điều này làm tăng cạnh tranh ở thị trường trong nước do hàng hoá nhập khẩu từ các nước asean. - Các chi phí dịch vụ hạ tầng như điện, nước, viễn thông, cảng biển, chi phí vận tải ở Việt Nam còn cao. Những vấn đề trên làm ảnh hưởng nhiều tới quá trình sản xuất công nghiệp và đặc biệt là sức cạnh tranh của hàng công nghiệp. - Vốn tín dụng đầu tư nhà nước chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư của hầu hết các ngành nên trong những năm qua một số dự án bị triển khai chậm ảnh hưởng đến việc tăng năng lực sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường. 2.2 Thành tựu đạt được: Sau thời kì đổi mới cho đến trước những năm gia nhập WTO Việt Nam đã thay đổi rất nhiều trong phát triển kinh tế và bản thân nghành công nghiệp. Càng gần mốc gia nhập WTO sự tăng trưởng đó càng thể hiện mạnh mẽ và rõ nét hơn Cùng với thành tựu to lớn về kinh tế-xã hội của những năm đổi mới, ngành công nghiệp với vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân đã có bước phát triển vượt bậc, biểu hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau: Cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, năng lực sản xuất ngày càng lớn mạnh - Ngành công nghiệp duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và vượt chỉ tiêu của Đại hội IX đề ra (13%/năm). Tính theo giá cố định năm 1994, giá trị SXCN năm 2001 đạt 227,3 nghìn tỷ đồng, tăng 14,6% so với năm 2000, năm 2002 đạt 261,1 nghìn tỷ đồng, tăng 14,9 % so với năm 2001 và năm 2003 đạt 302,9 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2002, Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 ước tính tăng 17,2% so với năm 2004. Giá trị sản xuất công nghiệp 2006 đạt 490,82 nghìn tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.Có được những thành công kể trên đó là do những chính sách đúng đắn và đường lối phát triển công nghiệp của Việt Nam ta. Nhanh nhạy trong điều chỉnh quả lý và thể chế cho phù hợp với nền kinh tế mở cửa đã giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng của của những năm cuối thập niên 80 qua đó phát triển kinh tế và đặc biệt công nghiệp một các manh mẽ. - Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp: cơ cấu ngành công nghiệp đã từng bước được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến từ 80,7% năm 2000 tăng lên 82,6% năm 2003; giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác từ 13,8% năm 2000 xuống còn 10,9% năm 2003. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng trong GDP cũng tăng dần từ 38,5% năm 2001 lên 39,5% năm 2003.V à liên tục tăng trưởng nhanh trong những năm tiếp theo. Có được thành công trên phải kể đến những chính sách đúng đắn trong thời gian qua. Các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp đã được triển khai: Trong những năm qua, Chính phủ tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành và triển khai nhiều chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp nhằm điều chỉnh các bất hợp lý trong sản xuất và kinh doanh, thúc đẩy sản xuất và đầu tươ của doanh nghiệp và tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi và bình đẳng hơn, giảm chi phí giao dịch kinh doanh, góp phần tích cực mở rộng sản xuất công nghiệp trong nước và mở rộng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp như: - Sửa đổi bổ sung Nghị định ban hành kèm theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước: Các ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng vào những ngành và khu vực được khuyến khích dưới các hình thức như miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế sử dụng vốn, miễn thuế nhập khẩu vật tư thiết bị tạo tài sản cố định khi thực hiện các dự án đầu tư, miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư (Nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 và Nghị định 35/2002/NĐ-CP ngày 29/3/2002 của Chính phủ). Số doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư tăng đáng kể, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc (Lào Cai, Thái Nguyên). - Cung cấp tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu dưới các hình thức như: cho vay ngắn, trung và dài hạn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Quyết định 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ). Khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm thông qua thưởng xuất khẩu theo giá trị, chủng loại sản phẩm và thị trường xuất khẩu mới cũng tạo ra động lực mạnh mẽ tăng khả năng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp; - Thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh đối với một số ngành như: đóng tàu, dệt may, các sản phẩm cơ khí trọng điểm, phân bón d ưới hình thức cho vay tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp 3%, ưu đãi về thuế, xây dựng cơ sở hạ tầng (Quyết định 55/2001/QĐ-TTg ngày 23/4/2001; Quyết định số 1420/QĐ-TTg ngày 02/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ). Điều đó đã khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, đổi mới công nghệ, thiết bị và nâng cao được năng lực sản xuất. - Khuyến khích phát triển hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới công nghệ như: triển khai các chương trình trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu và công nghệ tự động hoá; chính sách khuyến khích doanh nghiệp tự đầu tươ phát triển khoa học và công nghệ dưới hình thức hỗ trợ một phần vốn đầu tươ cho việc phát triển công nghệ bằng nguồn vốn ngân sách. Xây dựng chương trình hành động phát triển và đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất (Quyết định số 188/2002/QĐ-TTg ngày 31/12/2002). Sau 20 năm đổi mới ,làm một khái quát tóm tắt sự phát triển của cả nghành công nghiệp có thể tính đến đầu năm 2006 tổng vốn sản xuất kinh doanh thuộc quyền sở hữu và sử dụng của các cơ sở công nghiệp là 896.000 tỷ đồng, gấp 53 lần năm 1990, bình quân mỗi năm tăng 31,5%, trong đó: Khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 26,4%; Khu vực ngoài quốc doanh tăng 36,2%/năm; Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 32,8%/năm. Sự gia tăng và tích tụ vốn được tập trung vào ngành công nghiệp chế biến với mức tăng bình quân: 37,1%/năm và tỷ trọng đến đầu năm 2005 chiếm 73,8%, trong đó sản xuất thực phẩm đồ uống chiếm 12,8%, dệt may 9,2%, da giầy 4,2%, sản xuất sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại 9,1%, sản xuất hoá chất 5,9%. Ngành công nghiệp khai thác mỏ chiếm 9,4%, trong đó khai thác dầu khí chiếm 7,6%. Ngành sản xuất điện tăng bình quân 27,3%, chiếm 15,4%. Xét theo vùng và địa phương, vốn sản xuất được phân bố chủ yếu vào các vùng công nghiệp tập trung là vùng Đông Nam bộ, chiếm 51,2%, trong đó TP.Hồ Chí Minh chiếm 21,2%, Đồng Nai 10,2%, Bà Rịa-Vũng Tàu 11,4%, Bình Dương 7,4%; vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 19,4%, trong đó Thành phố Hà Nội chiếm 8,5%, Thành phố Hải Phòng 3,1%, vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm 4,8%. Giá trị tài sản cố định đến đầu năm 2006 là 488.000 tỷ đồng, gấp 34 lần năm 1990, bình quân từ 1990-2005 tăng 27,5%, trong đó: Khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 39,2%/năm; Khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,5%/năm; Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 42,3%/năm. Cũng như vốn sản xuất, giá trị tài sản cố định cũng được tập trung vào ngành công nghiệp chế biến tới 66,5% và tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam bộ 50,8%; vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 16,7%; vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm 3,8% và 5 vùng còn lại chỉ chiếm 28,8%. Năng lực sản xuất tăng lên nhanh chóng, số lượng cơ sở sản xuất (bao gồm cả cơ sở cá thể) từ 313.293 cơ sở năm 1985 tăng lên 792.500 cơ sở ở đầu năm 2006, bình quân mỗi năm tăng thêm 23.980 cơ sở. Trong đó: số doanh nghiệp nhà nước giảm từ 3.050 doanh nghiệp xuống 1.252 doanh nghiệp (bình quân mỗi năm giảm 90 doanh nghiệp); Cơ sở ngoài quốc doanh từ 310.243 lên 763.000 cơ sở (mỗi năm tăng 15.131 cơ sở); Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 1985 chưa có, nhưng đầu năm 2006 đã có 2.679 doanh nghiệp. Cùng với số cơ sở tăng lên, số lao động cũng tăng từ 2,51 triệu người năm 1985 lên 5,06 triệu người ở đầu năm 2006, bình quân mỗi năm tăng gần 12,8 vạn người. Sản xuất tăng trưởng cao và ổn định. Sản xuất công nghiệp thời kỳ 1986-2006 có tốc độ tăng trưởng bình quân cao nhất trong 50 năm lại đây, toàn ngành tăng bình quân 12,5%/năm (20 năm trước đó thời kỳ 1966-1985 chỉ tăng 7,2%/năm). Đáng chú ý là thời kỳ 5 năm sau luôn tăng cao hơn thời kỳ 5 năm trước, cụ thể: -  1986-1990 tăng bình quân 5,9%/năm. -  1991-1995 tăng bình quân 13,7%/năm. -  1996-2000 tăng bình quân 13,9%/năm.   -  2001-2005 tăng bình quân 16,0%/năm. -  2006 tăng 17,1% Xét theo thành phần kinh tế thì khu vực doanh nghiệp nhà nước có mức tăng trưởng thấp nhất, bình quân 1986-2006 chỉ tăng 10,3%/năm (DNNN Trung ương tăng bình quân 11,7%/năm, địa phương quản lý tăng bình quân 7,4%/năm). Doanh nghiệp nhà nước tăng thấp và giảm dần là chủ trương sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, hạn chế tăng thêm doanh nghiệp hiện có được cổ phần hoá và chuyển qua khu vực ngoài quốc doanh hoặc giải thể. Khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh tăng bình quân 11,8%/năm. 5 năm gần đây khu vực kinh tế này luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so với các khu vực khác, năm 2001 tăng 21,5%, năm 2002 tăng 18,3%, năm 2003 tăng 23,3%, năm 2004 tăng 23,6% và năm 2005 tăng 25,8%, bình quân 5 năm tăng 22,5%, chủ yếu do phát triển mới và chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá chuyển qua. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài mới chính thức có trong cơ cấu của công nghiệp nước ta từ năm 1989, nhưng phát triển khá nhanh cả về quy mô và tốc độ sản xuất, 15 năm liên tục tăng, năm cao nhất tăng 45,6% (năm 1991), năm thấp nhất 8,8% (năm 1995), bình quân 15 năm tăng 20,8%/năm. Trong 10 năm lại đây tăng bình quân 19,6%/năm. Việc tăng mạnh ở khu vực ngoài quốc doanh ,khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và giảm ở khu vực trong nước đó là do chủ trương chuyển dich cơ cấu của Đảng và nhà nước. Hạn chế doanh nghiệp nhà nước ,chuyển sang cổ phần hoá …cho phù hợp với kinh tế mở cửa và các quy luật khách quan kinh tế, tăng cường tính năng động, hiệu quả của thị trường. Trong những năm qua, nhiều cơ sở công nghiệp được thực hiện đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ kết hợp với đầu tư mở rộng nâng cao năng lực sản xuất, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Một số ngành công nghiệp đã có được công nghệ tương đối hiện đại như dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông, may, sản xuất đồ uống, lắp ráp ôtô, xe máy, thiết bị điện, hàng điện tử dân dụng, săm lốp ô tô, ắc qui, đồ nhựa, chế biến lương thực thực phẩm, xi măng (lò quay). Do đó, các sản phẩm này được thị trường trong nước và ngoài nước chấp nhận. Điều đó chứng tỏ sản phẩm đã có khả năng cạnh tranh. - Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu trong nước đã được thực hiện ở một số ngành công nghiệp như dệt, chế biến sữa, thuốc lá, chính sách nội địa hóa trong ngành công nghiệp ô tô, xe máy là một trong những biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp. Sử dụng nguồn lao động rẻ, trong nước cũng là một hướng tận dụng lợi thế của Việt Nam để tăng sức cạnh tranh. Xét theo trình độ công nghệ thì những ngành công nghiệp có công nghệ cao tăng nhanh nhất (20 năm tăng bình quân 14,6%/năm); Tiếp theo là các ngành có công nghệ trung bình tăng bình quân 12,2%/năm. Chậm nhất là các ngành có công nghệ thấp tăng bình quân 9,8%/năm; Đó là xu hướng tăng trưởng tích cực, phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta, nó phản ánh quá trình cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng mở rộng và phát triển nhanh các ngành công nghiệp có công nghệ cao... Đồng thời phát triển các ngành có công nghệ trung bình nhằm giải quyết nhu cầu tiêu dùng trong nước, hạn chế nhập khẩu, tận dụng thế mạnh và điều kiện sản xuất tại chỗ. Mặt khác vẫn duy trì nhịp độ tăng trưởng ở mức trên dưới 10%/năm đối với các ngành có công nghẹ thấp để vừa giải quyết các nhu cầu cơ bản về sản phẩm tiêu dùng thông thường phục vụ ăn mặc, văn hoá phẩm và đồ dùng thiết yếu của nhân dân vừa tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội. Kết quả của tăng trưởng công nghiệp đã giải quyết cơ bản nhu cầu về tiêu dùng sản phẩm công nghiệp cho toàn xã hội và xuất khẩu nâng mức bình quân đầu người của một số sản phẩm quan trọng ngang mức trung bình và khá so với các nước ASEAN: Một số sản phẩm công nghiệp bình quân đầu người của Việt Nam Sản phẩm 1985 2005 2005 so 1985 (lần) -Điện (KWh) 87,2 641,5 7,4 -Than đá (Kg) 93,9 389,7 4,1 -Dầu mỏ thô (Kg) - 220 - -Thép (Kg) 1,03 46,8 45,6 -Xi măng (Kg) 25,1 337,5 13,4 -Giấy (Kg) 1,3 10,8 8,2 -Đường (Kg) 6,7 14,1 2,1 -Bia (Lít) 1,4 17,2 11,9 -Thuốc viên các loại (Viên) 119 354 3,0 - Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp liên tục tăng trưởng ở mức độ cao với tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2003 tới 14,1 tỷ usd. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu phong phú hơn, đặc biệt một số sản phẩm cơ khí đòi hỏi công nghệ cao như điện tử, xe máy, động cơ điêzen đã có chỗ đứng trên một vài thị trường thế giới. 2.3. Những mặt còn tồn tại - Sự phát triển của công nghiệp tuy đạt tốc độ cao, nhưng chưa thật vững chắc biểu hiện ở chỗ giá trị gia tăng chưa nhiều, đặc biệt ngành may mặc xuất khẩu được nhiều về giá trị nhưng phần lớn sản xuất bằng vật tư, nguyên phụ liệu nhập khẩu từ nước ngoài. - Khai thác khoáng sản tuy đã giảm về tỷ trọng trong công nghiệp nhưng vẫn còn lớn và hầu như được xuất khẩu ở dạng chưa qua chế biến thành sản phẩm. - Hạn chế sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp: Kết quả của các biện pháp từ phía nhà nước là rất đáng kể, làm tăng khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp. Tuy nhiên, ở đây vẫn còn nhiều bất cập: Vẫn còn nhiều nơi, nhiều chỗ độc quyền, dựa dẫm vào chính sách bảo hộ của Nhà nước, đặc biệt là khối doanh nghiệp nhà nước; sự quản lý còn nhiều lãng phí nên đã làm giảm kết quả của các giải pháp trên. Sự độc quyền phần lớn nằm ở khu vực tiện ích, dịch vụ công, nếu chi phí ở đây cao thì tất cả mọi lĩnh vực sản xuất đều bị ảnh hưởng. Điều này cần được đặc biệt lưu ý trong tiến trình hội nhập kinh tế. - Chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp trong những năm qua đã có tác động mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp, huy động mọi nguồn lực tham gia đầu tư phát triển sản xuất. Tuy nhiên, các chính sách này vẫn thiên về bảo hộ sản xuất trong nước như bảo hộ về vốn đầu tư\, hạn ngạch, chính sách thuế, phụ thu nên nhiều doanh nghiệp ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, không chủ động đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến quản lý, sản phẩm làm ra có giá thành cao. - Cơ cấu sản xuất công nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến nhưng rất chậm. Trong thời gian qua, ngành công nghiệp phát triển theo chiều rộng, chưa chú trọng đầu tư và phát triển theo chiều sâu, chưa nâng cao tỷ trọng chế biến sâu, đảm bảo cung cấp nguyên nhiên vật liệu đầu vào và dịch vụ hạ tầng hợp lý nên hiệu quả sản xuất có xu hướng giảm, chi phí sản xuất cao làm hạn chế khả năng nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp trên thị trường trong quá trình hội nhập. - Tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp mặc dù chiếm khoảng 34% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, song với số vốn đầu tư đó chưa đủ để cơ cấu lại ngành. Nhiều ngành, nhiều lĩnh vực công nghiệp có vai trò và tác động lớn như cơ khí chế tạo máy móc và thiết bị, công nghiệp nguyên liệu... chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Do đó nên một số doanh nghiệp nhà nước đã tìm mọi cách để có dự án đầu tư chứ không xem xét kỹ thị trường và yếu tố hiệu quả. - Sự phát triển của một số ngành vẫn còn lộn xộn, không theo quy hoạch và một số lĩnh vực phát triển không theo ý muốn gây lãng phí và tiêu cực cho nền kinh tế, ví dụ như ngành xe máy. - Các dự án đầu tư lớn, quan trọng thuộc ngành công nghiệp thực hiện chậm gây thất thoát lang phí đáng kể: chi phí tăng, vốn đầu tư chậm được thu hồi. Nguyên nhân thực hiện vốn đầu tư thấp là do nhiều dự án lớn được dự kiến triển khai trong kỳ kế hoạch nhưng tiến độ thực hiện chậm như: Nhà máy lọc dầu số 1, các dự án điện chạy than, xi măng (xi măng Hải Phòng mới, Tam Điệp), thép (dự án cán nóng thép tấm, dự án phôi thép phía Bắc), giấy (dự án cải tạo nhà máy giấy Bãi Bằng, dự án giấy Thanh Hoá, dự án bột giấy kon Tum), phân bón (đạm Cà Mau, dap, đạm từ than). Các dự án lớn bị chậm do nguyên nhân chủ yếu là dự án quá phức tạp, quá mới vượt qua khả năng tiếp nhận của nước ta về mặt vốn, trình độ quản lý, sự bất đồng ý kiến, nguy cơ dẫn đến tiêu cực cao. Một số dự án đầu tư hoàn thành đã•đưa vào sản xuất được đánh giá cụ thể trong từng ngành công nghiệp như dự án đầu tư nguồn điện, lưới điện 500Kv, 220 Kv, đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn, các dự án thuộc ngành thép, dệt may, chế biến cao su... Những hạn chế trong phát triển công nghiệp nêu trên cần được chú trọng với những giải pháp hữu hiệu trong thời gian tới. 3. Đánh giá từng phân ngành công nghiệp: 3.1. Ngành điện: Đáp ứng nhu cầu về năng lượng điện là điều rất quan trọng đảm bảo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, Ngành điện đạt mức tăng trưởng cao nhất trong số các ngành công nghiệp đáp ứng được nhu cầu điện của nền kinh tế quốc dân. Năm 2001, điện sản xuất đạt 30,6 tỷ KWh, tăng 15% so với năm 2000, năm 2002 đạt 35,8 tỷ Kwh, tăng 17% so với năm 2001, năm 2003 đạt 40,92 tỷ Kwh, tăng 14,3% so với năm 2002. Điện thương phẩm tương ứng năm 2001 đạt 25,8 tỷ Kwh, tăng 14% so với năm 2000, năm 2002 đạt 30 tỷ Kwh, tăng 16% so với năm 2001, năm 2003 đạt 34,84 tỷ Kwh, tăng 14% so với năm 2002. Sản lượng điện phát ra tăng bình quân 15,4%/năm, điện thương phẩm tăng bình quân 14,6%/năm. Như vậy, cả điện sản xuất và điện thương phẩm năm 2003 đ㕠gần đạt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm và tốc độ tăng trưởng cao hơn so với chỉ tiêu kế hoạch (13,1%). Mặc dù vậy, ngành điện vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu một cách vững chắc, còn nhiều sự cố trên lưới điện, thiếu điện về mùa khô và có khả năng thiếu điện trong tương lai do các dự án điện triển khai chậm và một phần do dự báo nhu cầu điện chơa thật chính xác. Tình trạng độc quyền trong ngành điện cũng hạn chế phần nào sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. 3.2. Ngành dầu khí: Năm 2001: Khai thác dầu thô đạt 16,7 triệu tấn, tăng 2,8% so với năm 2000, khí khô đạt 1,7 tỷ m3. Tổng lượng khai thác dầu khí quy đổi đạt 18,4 triệu tấn, tăng 3,4% so với năm 2000. Năm 2002: Khai thác dầu thô đạt 16,6 triệu tấn, giảm 0,6% so với thực hiện năm 2001, khai thác 2,1 tỷ m3 khí. Tổng lượng khai thác dầu khí quy đổi đạt 18,7 triệu tấn, tăng 1,6% so với năm 2001. Năm 2003: Khai thác dầu thô đạt 17,27 triệu tấn, 3,7 tỷ m3 khí; sản lượng dầu khí quy đổi đạt 20,97 triệu tấn, tăng 12% so với năm 2002. Rõ ràng là ngành dầu khí đang đứng trước thách thức rất lớn, sản lượng khai thác dầu thô khó gia tăng trong thời gian tới do nguồn tài nguyên bị hạn chế, (mỏ dầu lớn nhất nước là Bạch Hổ đang phải giảm dần sản lượng khai thác, dự kiến mỗi năm phải giảm khai thác từ 1-2 triệu tấn. Đây là mức độ giảm rất lớn mà khó có nguồn khác thay thế nên trong 10 năm tới. Vì vậy trong những năm tiếp theo sản lượng dầu khống chế khai thác giảm dần giữ ở mức nhất định năm 2005 la 92,3 % so với năm trước và 2006 bằng 82 % so với năm 2005. 3.3 Ngành than: Trong 3 năm 2001- 2003, ngành than đều thực hiện vượt mức kế hoạch đề ra, sản lượng than sạch các năm như sau: năm 2001 đạt 13,4 triệu tấn, tăng 15,4% so với năm 2000; năm 2002 đạt 16,3 triệu tấn, tăng 21% so với năm 2001; năm 2003 đạt 19 triệu tấn, tăng 16,5% so với năm 2002 và đã hoàn thành sớm hơn 2 năm so với mục tiêu của Đại hội Đảng IX đề ra cho năm 2005. Đến năm2005 tỉ lệ tăng la 17,3 %, 2006 tỉ lệ tăng còn cao hơn nhiều 18,7 % Về đầu tư: Bên cạnh việc đầu tư phục vụ duy trì và phát triển mỏ, ngành đã đầu tư một số dự án lớn như nhiệt điện Na Dương, Cao Ngạn, và đầu tư nhiệt điện Cẩm Phả nhằm sử dụng hợp lý hơn tài nguyên quốc gia. Sự tăng trưởng của ngành than khá cao trong những năm qua đã góp phần không nhỏ trong việc tăng trưởng của một số ngành như điện, xi măng và vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, ngành than cần xem xét đáng giá tính hiệu quả của việc xuất khẩu than và cần tìm giải pháp để tiêu thụ than chất lượng thấp ở trong nước thay cho xuất khẩu. 3.4. Ngành thép: Gang thép là nghành quan trọng trong phát triển nền công nghiệp. Ngành thép có tốc độ tăng trưởng cao về sản xuất thép xây dựng đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước. Sản lượng thép cán năm 2001 đạt 1,9 triệu tấn, tăng 20% so với năm 2000; năm 2002 đạt 2,44 triệu tấn, tăng 28% so với năm 2001; năm 2003 đạt 2,68 triệu tấn, tăng 9,8% so với năm 2002. Công suất cán thép xây dựng đến cuối năm 2003 là 4 triệu tấn/năm đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước. Trong giai đoạn 2001-2003 nhiều nhà máy cán thép dài với công nghệ khá hiện đại, quy mô trung bình đơược đầu tư và đi vào sản xuất, hoàn thành đầu tư cải tạo giai đoạn 1 Gang thép Thái Nguyên. Đơn vị tính : Tấn Năm 2003 2004 2005 20

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21475.doc
Tài liệu liên quan