Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thạch Thất lần thứ XXI với trọng tâm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) nhằm nâng cao chất lượng GD&ĐT. Ban chấp hành Đảng bộ huyện chỉ đạo “Xây dựng kỷ cương, nề nếp quản lý”, quy hoạch trường lớp, xã hội hoá sự nghiệp GD & ĐT và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong trường học. Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của bậc học Mầm non, việc đa dạng hoá các loại hình giáo dục được đẩy mạnh.
113 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3161 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp quản lý quản lý nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụ lục 13
2.5. Bảng thống kê cơ sở vật chất bậc học MN qua các năm.
Năm học
Tổng số
Phòng học
Chia ra
Kiên cố
Bán kiên cố
Tạm
06 - 07
272
108
126
38
07 - 08
289
118
105
66
08 - 09
331
119
104
108
09 - 10
341
148
89
104
2.14. Biểu đồ về cơ sở vật chất (phòng học) bậc học Mầm non qua các năm
2.3. Thực trạng quản lý công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non huyện Thạch Thất
2.3.1. Chủ trương của cấp uỷ chính quyền:
2.3.1.1. Chủ trương của cấp uỷ, chính quyền thành phố:
- Thực hiện chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực hoạt động xã hội theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1999 và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục… Chính phủ đã có Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 về việc đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục.
Trong Nghị quyết này đã định hướng phát triển xã hội hoá giáo dục.
a. Nhà nước tiếp tục tăng tỷ lệ chi ngân sách cho GD& ĐT bảo đảm kinh phí cho giáo dục phổ cập: Tập trung đầu tư cho các nhiệm vụ trọng điểm, các chương trình mục tiêu Quốc gia; đào tạo nhân lực cho các ngành, nghề mũi nhọn, trọng điểm, khó huy động nguồn lực từ xã hội; ưu tiên đầu tư cho những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Nhà nước có cơ chế chính sách đào tạo đủ số lượng và đảm bảo chất lượng giáo viên, CBQL giáo dục và các nhân viên khác, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, tiếp tục thực hiện các cơ chế chính sách khuyến khích, thu hút học sinh, sinh viên giỏi làm giáo viên, giảng viên, gắn đào tạo với sử dụng.
b. Huy động nguồn lực của các ngành các cấp, các tổ chức kinh tế xã hội và cá nhân để phát triển GD&ĐT. Tăng cường quan hệ của nhà trường - gia đình và xã hội, huy động trí tuệ, nguồn lực của toàn ngành, toàn xã hội vào việc đổi mới nội dung, chương trình, thực hiện giáo dục toàn diện. Ban hành cơ chế chính sách cụ thể khuyến khích và quy định trách nhiệm của ngành địa phương, các tổ chức kinh tế - xã hội và người sử dụng lao động tham gia xây dựng trường, hỗ trợ kinh phí cho người học, thu hút nhân lực đã được đào tạo và giám sát các hoạt động giáo dục.
c. Đổi mới cơ bản chế độ học phí:
Ngoài phần hỗ trợ của Nhà nước theo khả năng ngân sách, học phí cần bảo đảm trang trải chi phí cần thiết cho giảng dạy học tập và có tích luỹ để đầu tư phát triển nhà trường, bước đầu đủ bù đắp chi phí thường xuyên, xoá bỏ mọi khoản thu khác ngoài học phí.
Nhà nước có chính sách trợ cấp học phí hoặc học bổng cho học sinh giáo dục phổ cập cho người học là đối tượng chính sách, những người ở vùng khó khăn, những người nghèo và những người học xuất sắc, không phân biệt học ở trường công lập hay ngoài công lập.
d. Khuyến khích thành lập các cơ sở GD&ĐT và dạy nghề ngoài công lập, chuyển một số cơ sở công lập sang loại hình ngoài công lập. Hạn chế mở thêm các cơ sở công lập những vùng kinh tế phát triển, không duy trì các cơ sở bán công, các lớp bán công trong trường công.
Khuyến khích việc hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo có chất lượng cao của nước ngoài, khuyến khích các nhà khoa học, giáo dục có trình độ cao ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia giảng dạy tại Việt Nam.
đ. Củng cố, phát triển nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục từ xa, trung tâm GDTX, trung tâm học tập cộng đồng đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên của mọi người, ở mọi nơi, mọi trình độ và mọi lứa tuổi.
Thực hiện theo Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục; Nghị quyết số 69/2008/NQ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá giáo dục. Quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày 10/10/2008 của thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục chi tiết các loại hình tiêu chí quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hoá trong các lĩnh vực GD & ĐT.
Thành phố Hà Nội đã ra Nghị quyết số 06/2009/NQ-HĐND ngày 17/7/2009 về việc đẩy mạnh xã hội hoá GD&ĐT… của thành phố Hà Nội (giai đoạn 2009 - 2015) tại Nghị quyết này đã đưa ra mục tiêu: Phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nội dung, huy động toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp GD & ĐT...; tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả GD & ĐT..., ngày càng cao. Đồng thời có chính sách và cơ chế để huy động các nguồn lực xã hội hoá, thành phố tiếp tục ưu tiên đầu tư ngân sách cho GD & ĐT… để đáp ứng nhu cầu về nâng cao chất lượng dạy và học, khám chữa bệnh của nhân dân thủ đô.
* Chỉ tiêu cụ thể:
- Tỷ lệ học sinh ngoài công lập: Tiểu học: 3%; THCS: 5%; THPT: 40% (riêng ở khu vực điều kiện khó khăn 30%) TCCN đạt 60%.
- Phấn đấu 100% xã, phường và thị trấn có trung tâm học tập cộng đồng.
- Thí điểm chuyển 30 đến 35 trường công lập có điều kiện phát triển thực hiện tự đảm bảo toàn bộ chi phí thường xuyên và hoạt động theo mô hình cung ứng dịch vụ chất lượng cao (cụ thể đối với các cấp học: Mầm non: 20 trường; Tiểu học: 5 trường; THCS: 5 trường; THPT: 3 trường và TCCN: 2 trường).
- Kêu gọi xã hội hoá đầu tư xây dựng cơ sở vật chất 60 đến 70 trường học ngoài công lập (cụ thể đối với các cấp học: Mầm non: 10 - 20 trường; Tiểu học: 10 trường; THCS: 10 trường; THPT: 20 trường và TCCN: 10 trường).
Từ những yêu cầu nhiệm vụ đã nêu trên đến ngày 30/7/2009 UBND thành phố Hà Nội xây dựng đề án số 104/ĐA-UBND về việc đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo của thành phố Hà Nội (2009 - 2015).
Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XIV đã khẳng định tầm nhìn thủ đô năm 2020: “Hà Nội phải trở thành một đô thị văn minh, hiện đại, thành phố du lịch hấp dẫn của khu vực; phát huy tốt vai trò là trung tâm lớn về văn hoá, khoa học - công nghệ, GD & ĐT, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước”. Để các hoạt động GD & ĐT đáp ứng được nhu cầu đào tạo nguồn lực cho cao cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thủ đô thì mục tiêu định hướng đẩy mạnh xã hội hoá GD & ĐT nói chung, xã hội hoá giáo dục Mầm non nói riêng của thành phố Hà Nội từ nay đến năm 2015 là hết sức quan trọng và cần thiết.
- Đẩy mạnh việc thực hiện Quyết định số 149/2006/QĐ-TTg ngày 23/6/2006 của thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án phát triển giáo dục Mầm non giai đoạn 2006 - 2015 thành phố chủ trương khuyến khích thành lập các trường Mầm non ngoài công lập và đồng thời tăng cường công tác quản lý, kiểm tra và giám sát hoạt động của các cơ sở giáo dục Mầm non dân lập, tư thục.
- Ưu tiên đầu tư ngân sách cho giáo dục Mầm non ngoại thành đẩy nhanh tiến độ kiên cố hoá trường lớp học, xoá phòng học tạm cấp 4 xuống cấp, thu gom các điểm lẻ, xây dựng khu trung tâm của giáo dục Mầm non, kết hợp huy động các nguồn lực xã hội để mua sắm trang thiết bị dạy học theo hướng đồng bộ, hiện đại.
- Khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, xã hội và nhân dân đóng góp các nguồn lực để xây dựng trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia. Khuyến khích đầu tư và phát triển các cơ sở giáo dục Mầm non 100% vốn nước ngoài và cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài.
2.3.1.2. Chủ trương của cấp uỷ chính quyền huyện Thạch Thất:
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Thạch Thất lần thứ XXI với trọng tâm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) nhằm nâng cao chất lượng GD&ĐT. Ban chấp hành Đảng bộ huyện chỉ đạo “Xây dựng kỷ cương, nề nếp quản lý”, quy hoạch trường lớp, xã hội hoá sự nghiệp GD & ĐT và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong trường học. Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của bậc học Mầm non, việc đa dạng hoá các loại hình giáo dục được đẩy mạnh.
Ngày 21/8/2007 Huyện uỷ tổ chức quán triệt hội nghị Trung ương 6 (khoá IX) về GD & ĐT thường xuyên được quan tâm lãnh đạo, hàng năm Ban thường vụ Huyện uỷ chỉ đạo UBND các cấp đầu tư xây dựng cải tạo hệ thống trường học, trang bị bàn ghế, thiết bị dạy học, kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý, xây dựng đội ngũ giáo viên trường chuẩn Quốc gia môi trường sư phạm; đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục, phát động toàn dân làm công tác giáo dục.
Cũng tại Đại hội đại biểu lần thứ 21 Đảng bộ huyện Thạch Thất báo cáo của đồng chí Nguyễn Quang Huấn - Bí thư Huyện uỷ - Chủ tịch HĐND huyện trình bày rõ “Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục ở các cấp học. Quan tâm giáo dục toàn diện, nâng cao chất lượng học sinh, xây dựng đội ngũ học sinh giỏi của huyện. Chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống và tăng cường hướng nghiệp dạy nghề cho học sinh, xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ QL đảm bảo đủ về số lượng, 100% đạt chuẩn và có tỷ lệ trên chuẩn cao, nhiều đồng chí đạt danh hiệu GVGD cấp huyện, cấp tỉnh. Xây dựng hoàn thiện mạng lưới trường học theo quy hoạch, trang bị đủ thiết bị dạy và học theo hướng hiện đại hoá, đáp ứng nhu cầu học tập, khai thác mọi nguồn lực xã hội cho phát triển GD & ĐT”.
- Tiếp tục quán triệt văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, lần thứ VIII, Nghị quyết Ban chấp hành TW lần thứ 2 (khoá VIII) văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; lần thứ X của Đảng về chiến lược phát triển giáo dục và xã hội hoá giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quyết định 161/2001/QĐ-TTg Chính phủ về phát triển giáo dục Mầm non trên cơ sở mục tiêu, chiến lược, phát triển giáo dục và đào tạo tăng cường quản lý chặt chẽ mạng lưới trường lớp theo quy hoạch phát triển các khu dân cư mới, các khu đô thị mới, quản lý việc xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp các trường Mầm non để có cơ sở vật chất đạt chuẩn Quốc gia. Phát huy tính tự chủ, năng động trong việc tổ chức thực hiện và quản lý các loại hình giáo dục Mầm non ở các cơ sở. Phấn đấu đến năm 2015 từ 24 trường lên 28 trường: Số trường Mầm non tư thục từ 1 trường lên 10 trường; 60% trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia. Nâng cao chất lượng trình độ nghiệp vụ quản lý đối với cán bộ, giáo dục Mầm non trên cơ sở có kế hoạch, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng dài hạn và ngắn hạn, đáp ứng được quy mô phát triển ngày càng lớn và chất lượng ngày càng cao của sự nghiệp chăm sóc giáo dục Mầm non trên địa bàn huyện Thạch Thất. Củng cố và phát huy sự phối hợp trong công tác quản lý các loại hình giáo dục Mầm non giữa Phòng giáo dục và đào tạo với các xã, thị trấn, các ban ngành có liên quan. Tổ chức kiểm tra, thanh tra, xử lý kịp thời đối với các cơ sở giáo dục Mầm non chưa được cấp phép hoạt động hoặc đối với những trường, lớp không đạt yêu cầu về cơ sở vật chất chất lượng chăm sóc giáo dục Mầm non vv…
2.3.2. Quản lý chỉ đạo công tác xã hội hoá của ngành giáo dục:
Với vai trò là ngành chủ quản trong xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non, Phòng GD & ĐT huyện Thạch Thất đã làm tốt vai trò của mình, thông qua việc đề xuất, tham mưu với Huyện uỷ và UBND huyện về các vấn đề xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non.
- Vận động, khuyến khích và tổ chức thực hiện sự tham gia rộng rãi của các cá nhân, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đoàn thể quần chúng, các thành phần kinh tế, các lực lượng xã hội… tham gia quản lý các loại hình trường lớp, gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khuyến học.
- Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về đẩy mạnh công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non.
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện đề án đẩy mạnh công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non từ nay đến năm 2015, đề xuất các cơ chế chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập về giáo dục Mầm non.
- Đề xuất và trình UBND huyện về định mức thu chi theo thoả thuận và đóng góp xây dựng cơ sở vật chất của các loại hình trường phù hợp với quy định của Nhà nước và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của thủ đô. Chủ động tham mưu và đề xuất UBND huyện ban hành các cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hoá liên quan đến lĩnh vực giáo dục Mầm non.
- Thực hiện quản lý Nhà nước về công tác xã hội hoá như: Thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá tổng hợp kết quả định kỳ báo cáo với huyện.
- Phối hợp với các phòng ban, ngành hàng năm xây dựng danh mục chỉ tiêu xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non và danh mục các dự án kêu gọi xã hội hoá đầu tư trình UBND huyện phê duyệt.
- Thực hiện cơ chế quản lý toàn diện, quản lý tài chính, quản lý vật lực, tài lực, quản lý đội ngũ giáo viên và ngay cán bộ quản lý cũng được thực hiện chế độ quản lý.
- Thực hiện bình đẳng, dân chủ trong quản lý xã hội hoá sự nghiệp GDMN với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng tham gia quản lý.
2.3.3. Đánh giá thực trạng nhận thức:
2.3.3.1. Nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non:
99% đội ngũ cán bộ chủ chốt của Huyện uỷ, UBND huyện cho đến các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền các xã, thị trấn và nhân dân đều có chung một nhận thức: Chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non, thực hiện toàn dân tham gia quản lý sự nghiệp giáo dục của Đàng và Nhà nước là hết sức đúng đắn. Đó là cơ hội để cho con em các tầng lớp nhân dân được chăm sóc nuôi dưỡng một cách dân chủ và bình đẳng. Đồng thời phần lớn các lực lượng xã hội cũng đã nhận thức sâu sắc về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với sự nghiệp phát triển giáo dục Mầm non .
Phần lớp các khách thể được điều tra đều nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục: trong đó 100% cán bộ quản lý ; 98,4% giáo viên; 94,6% các lực lượng xã hội và các cha mẹ học sinh đều đánh giá với vị trí quan trọng và cần thiết. Chỉ có 1,8% giáo viên, 7,6% lực lượng xã hội và cha mẹ học sinh còn băn khoăn chưa có ý kiến rõ ràng.
2.3.3.2. Nhận thức về nội dung, mục tiêu công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất:
Thực hiện sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, sự chủ động của ngành GD & ĐT, sự phối kết hợp chặt chẽ và đồng bộ của các ban ngành các tổ chức chính trị - xã hội… đã tạo mọi điều kiện, tạo tiền đề và đã góp phần nâng cao nhận thức cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội về mục tiêu xã hội hoá giáo dục nói chung, mục tiêu xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non nói riêng.
Qua điều tra xã hội học, việc nhận thức của các đối tượng về mục tiêu của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non được đánh giá ở mức độ quan trọng là khá cao. Tuy nhiên còn có một bộ phận của cán bộ quản lý, giáo viên, lực lượng xã hội nhận thức của khách thể đa phần là đúng nhưng một số nhận thức chưa đầy đủ, đôi khi còn lệch lạc, chưa nắm chắc bản chất của công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non.
2.3.3.3. Nhận thức về lợi ích công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất:
Lợi ích thiết thân đối với từng gia đình, dòng họ, lợi ích lâu dài đối với tương lai đất nước của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non đã từng bước được các bậc cha mẹ học sinh, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đoàn thể quần chúng trong xã hội nhận thức ngày càng đầy đủ hơn. Sự gặp gỡ có tính chung trong suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm của các lực lượng xã hội là ở chỗ: xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non là tạo điều kiện cho thế thế hệ trẻ Mầm non được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường lành mạnh để phát triển thể chất, trí tuệ, tình cảm và thẩm mỹ, giáo dục nhân cách, đạo đức… Song còn một bộ phận cán bộ, lực lượng xã hội, cha mẹ học sinh còn có sự so sánh, suy bì thiệt hơn giữa nghĩa vụ, trách nhiệm với lợi ích gia đình và xã hội.
2.3.4. Thực trạng việc thực hiện nội dung:
Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục cho đến nay đã trở thành cuộc vận động lớn trong xã hội. Kinh phí, ngân sách của Nhà nước đầu tư cho giáo dục Mầm non cũng như nguồn vật lực, tài lực đóng góp của nhân dân, của các tổ chức xã hội đã được quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả để phát triển các loại hình, các hình thức giáo dục Mầm non. Nhưng mới được tổ chức thực hiện ở loại hình trường lớp công lập và tư thục.
Hạn chế đó do chưa khai thác hết khả năng, tiềm lực của các tổ chức chính trị - xã hội. Các tổ chức quần chúng, các thành phần kinh tế, các lực lượng xã hội, bên cạnh đó xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non còn mang tính đơn điệu, hành chính, thiếu tính năng động và sáng tạo.
2.3.4.1. Thực hiện các biện pháp xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất.
Qua quá trình khảo sát các chủ thể và khách thể cho thấy 97,6% cán bộ quản lý giáo dục Mầm non 95,1% giáo viên, 88% các lực lượng xã hội và cha mẹ học sinh đều đánh giá ở vị trí rất quan trọng và cần thiết, chỉ có 2,4% cán bộ quản lý, 4,9 % giáo viên; 12% lực lượng xã hội là chưa có ý kiến rõ ràng.
2.3.4.2. Nhận xét về mức độ:
Qua tổ chức thực hiện khảo sát tiếp xúc lấy ý kiến của cán bộ quản lý và giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất là tốt, tỷ lệ 82% đến 93%, chứng tỏ sự quan tâm đối với việc thực hiện các biện pháp quản lý xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất là ở mức khá cao. Tuy nhiên mức độ tham gia thực hiện các biện pháp quản lý xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất chưa được đồng đều, một số ít địa phương còn “Khoán trắng” công tác quản lý cho đội ngũ quản lý nhà trường và giáo viên.
2.3.5. Phân tích các yếu tố tác động đến việc thực hiện các biện pháp quản lý xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất:
Mầm non đã khằng định sự quan tâm chỉ đạo đúng đắn của các cấp uỷ Đảng, chính quyền là hết sức quan trọng, đã đem lại hiệu quả thiết thực, tạo điều kiện để giáo dục Mầm non huyện Thạch Thất phát triển như khuôn viên diện tích mở rộng, quy mô mạng lưới trường lớp phát triển, chất lượng giáo dục nâng lên… năng lực quản lý, phẩm chất đạo đức, sự nhiệt huyết của đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên nhân viên là yếu tố quyết định chất lượng quản lý nội dung xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non .
- ý thức trách nhiệm của các lực lượng xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội cha mẹ học sinh cũng là yếu tố quan trọng trong việc thực hiện xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non .
- Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý giáo dục, đội ngũ giáo viên, các lực lương xã hội, các hội cha mẹ học sinh trong thực hiện quản lý xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non đó chính là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến thực hiện biện pháp quản lý xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất.
2.3.6. Đánh giá chung
2.3.6.1. Những thành tựu của công tác quản lý xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện:
Công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non đã và đang phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, tạo ra sự biến đổi to lớn đối với sự nghiệp quản lý xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non như:
Đến ngày 31/12/2008 có 3 trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia, 31% nhà trẻ; 80% độ tuổi mẫu giáo được đến trường, 100% trẻ nhà trẻ, 80% trẻ mẫu giáo được ăn tại trường lớp, đến ngày 01/7/2009: 23/23 trường chuyển đổi từ trường Mầm non bán công sang công lập tự chủ một phần.
- Đến 5/2009 đã xoá được 120 phòng học tạm phòng học xuống cấp nặng.
Đặc biệt huy động các nguồn lực đầu tư và phát triển loại hình trường đến ngày 01/6/2009 có thêm 3 trường Mầm non tư thục được UBND huyện ra Quyết định cho phép hoạt động.
Về chất lượng giáo dục: Trong những năm qua giáo dục Mầm non đã thực hiện đổi mới trên nhiều lĩnh vực hoạt động có hiệu quả như: Đổi mới quản lý giáo dục, đổi mới phân cấp quản lý, đổi mới cách đánh giá thi giáo viên dạy giỏi. Đánh giá chất lượng dạy và học, như vậy các cơ sở giáo dục Mầm non đã phát huy vai trò chủ đạo trong hệ thống giáo dục quốc dân như: Giữ vững và ổn định quy mô giáo dục, chất lượng giáo dục toàn diện giữ vững, xử lý mũi nhọn được nâng cao.
- Về đội ngũ: hiện có 77 CBQL; 667 CBGV trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, gần 80%, tăng cường đào tạo bồi dưỡng đội ngũcán bộ giáo viên về năng lực quản lý chỉ đạo, nâng cao nghiệp vụ đồng thời với nâng cao trình độ lý luận chính trị, quản lý giáo dục, quản lý Nhà nước…
- Về công tác huy động nguồn kinh phí để mua sắm trang thiết bị phục vụ cho dạy và học hàng năm phong trào này được duy trì và phát huy rất tốt đã đem lại kết quả rõ rệt với phương châm là Nhà nước và nhân dân cùng làm như:
Năm học 2008 - 2009: 20/24 trường đã huy động được các nguồn kinh phí đồng thời quản lý tốt việc huy động đã trang bị cho 100% số nhóm lớp 15 trường có đầu màn, đàn để dạy theo phương tiện đồ dụng trực quan bằng điện tử và một số trường trang bị máy vi tính để dạy trẻ ở các hoạt động nâng cao chất lượng vv… với tổng số tiền trên 3 tỷ đồng.
Trong những năm qua giáo dục Mầm non huyện Thạch Thất đã nỗ lực phấn đấu và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ: Giữ vững và ổn định quy mô giáo dục Mầm non , phát triển đa dạng các loại hình trường lớp và hình thức học tập cơ bản đáp ứng được nhu cầu người học. Chất lượng giáo dục toàn diện được giữ vững, chất lượng mũi nhọn được nâng cao. Chương trình kiên cố hoá, hiện đại hoá được ưu tiên đầu tư, số trường đạt chuẩn Quốc gia tăng lên. Quản lý giáo dục có nhiều đổi mới; kỷ cương nề nếp có chuyển biến tích cực. Công tácễnã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non có chuyển biến rõ rệt, công bằng trong giáo dục được đảm bảo.
Để đạt được những kết quả trên thì đã làm tốt công tác tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương; tuyên truyền vận động các lực lượng xã hội tham gia chăm lo cho giáo dục Mầm non ; thực hiện dân chủ hoá hoạt động trong các nhà trường Mầm non; tổ chức tốt các hoạt động của Hội đồng giáo dục, Hội cha mẹ học sinh ngành giáo dục Mầm non ; Phải quy hoạch mạng lưới theo hướng đa dạng hoá các loại hình trường lớp Mầm non; đồng thời phải đánh giá kết quả và phân tích ưu nhược điểm trong việc thực hiện và quản lý công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non ở huyện Thạch Thất.
2.3.6.2. Những bất cập, phân tích nguyên nhân bất cập và bài học kinh nghiệm.
Việc thực hiện công tác XHH SNGDMN ở huyện Thạch Thất bước đầu đã thu được những thành tích đáng khích lệ. Tuy nhiên, so với yêu cầu cốt lõi của SNGD thì công tác này còn có những hạn chế cả về nhận thức, tổ chức thực hiện, nội dung, còn nặng về huy động tiền của, một bộ phận CB, GV trong ngành chưa thấy hết tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược của vấn đề, các biện pháp chưa có tính hệ thống, còn nặng về biện pháp hành chính, áp đặt, dẫn đến hiệu quả thực hiện xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non hạn chế như chất lượng giáo dục và đào tạo toàn diện chuyển biến chậm, cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở giáo dục Mầm non còn thiếu và lạc hậu.
Sự phối hợp liên ngành trong hoạt động giáo dục còn lỏng lẻo, mang tính mùa vụ. Một số tổ chức chính trị xã hội ở địa phương chưa thật tích cực tham gia hoạt động giáo dục theo chức năng của mình, việc phát huy dân chủ trong thực hiện xã hội hoá sự nghiệp giáo dục ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến những sai phạm trong quản lý. Công tác tổng kết kinh nghiệm và nhân điển hình xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non chưa được quan tâm đúng mức, nhiều tấm gương tập thể và cá nhân chưa được phát hiện, biểu dương kịp thời.
a. Bất cập về mặt nhận thức:
Cấp uỷ, chính quyền ở một số địa phương chưa quán triệt đầy đủ và sâu sắc các Nghị quyết của Đảng, các chủ trương chính sách của Nhà nước về vai trò của GD & ĐT đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương , phương tiện thông tin đại chúng còn đơn điệu, nghèo nàn về nội dung, đơn điệu về hình thức, thiếu tính sắc bén. Chưa đưa ra được giải pháp tổ chức phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội, của nhân dân và mỗi gia đình trong việc thực hiện trách nhiệm xây dựng môi trường giáo dục, quản lý chăm sóc, giáo dục con em và xây dựng cơ sở vật chất trường học.
Hội đồng giáo dục các cấp chưa thực sự phát huy vai trò, trách nhiệm của mình, hiệu quả công tác tư vấn với cấp uỷ, chính quyền cùng cấp còn hạn chế. Vai trò tham mưu của ngành GD & ĐT ở một số địa phương thiếu chủ động, chặt chẽ, chưa có sự phối kết hợp đồng bộ với các ban ngành cùng cấp trong thực hiện quy định phân cấp quản lý giáo dục, còn một bộ phận cán bộ quản lý giáo dục năng lực yếu, làm ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng GD & ĐT.
Nhận thức của nhân dân về quyền lợi học tập, về lợi ích giáo dục được nâng lên, song nhận thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với giáo dục lại chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, ảnh hưởng đến sức mạnh toàn dân chăm lo cho giáo dục và quá trình thực hiện chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục Mầm non .
b. Tồn tại về mặt tổ chức thực hiện:
Ngân sách dành cho GD & ĐT được tăng cường, song ngân sách phải dùng chi trả lương, các khoản phụ cấp, xây dựng và sửa chữa môi trường, cảnh quan trong trường lớp, các thiết bị dạy, học tập… phần còn lại chưa thể nhanh chóng làm thay đổi các điều kiện phát triển giáo dục Mầm non .
Điểm xuất phát kinh tế của huyện còn thấp, đời sống nhân dân lao động trong huyện tuy có được cải thiện nhưng nhìn chung còn khó khăn, nên khả năng huy động sự đóng góp của nhân dân xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trường học còn hạn chế. Mới chỉ phát triển được hai loại hình trường, lớp đó là công lập và tư thục, còn các loại hình khác chưa tổ chức thực hiện được, do đó còn một con số đáng kể trẻ Mầm non đến độ tuổi được quy định được đến nhà trẻ, mẫu giáo vẫn còn được nuôi dạy tại gia đình (tỷ lệ các cháu đến nhà trẻ mới đạt 30% độ tuổi trong địa bàn huyện). Việc huy động trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 5 tuổi được tới nuôi dạy tại các nhà, nhóm trẻ còn phải là một quá trình lâu dài, vì điều đó còn phụ thuộc vào 3 nhân tố đó là: cơ sở vật chất, tran
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Noi dung LV.doc