Năm 2006 có 6.746.553 người thực tế tham gia đóng BHXH chiếm khoảng 63% số người bắt buộc phải tham gia BHXH. Năm 2007 có 8.148.123 triệu người tham gia, chiếm khoảng 70% số người phải tham gia BHXH bắt buộc [26]. Như vậy còn 33% người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc chưa tham gia BHXH theo quy định. Có nghĩa là quỹ BHXH đang thất thu khoảng hơn 30% lượng tài chính. Số thất thu BHXH chủ yếu tập trung ở khu vực ngoài quốc doanh, số lao động tham gia BHXH chỉ chiếm khoảng 30% tổng số lao động đang làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh [xem phụ lục 4]. Nguyên nhân chủ yếu là do việc quản lý Nhà nước về lao động, bảo hiểm xã hội ở địa phương chưa đạt hiệu quả cao. Mặc dù pháp luật quy định bắt buộc các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sau khi đăng ký hoạt động sản xuất kinh doanh phải đăng ký số lao động với cơ quan chức năng và phải đóng BHXH cho người lao động theo quy định. Tuy nhiên, nhiều người sử dụng lao động vẫn không tuân thủ quy định này, trong khi mức xử phạt chưa đủ sức răn đe nên nhiều người thà chịu phạt còn hơn nộp bảo hiểm xã hội với số tiền lớn hơn.
97 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1900 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo toàn và tăng trưởng quỹ được thực hiện bởi một tổ chức chuyên nghiệp về đầu tư tài chính. Đầu tư vào lĩnh vực có lợi nhuận cao để đem về một khoản lãi lớn cho quỹ là rất quan trọng, song lợi nhuận thường đi đôi với rủi ro nên phải dựa vào công cụ đánh giá, thẩm định dự án đầu tư do các hãng lớn, có uy tín, chuyên làm công tác thẩm định dự án.
- Quỹ BHXH phải được công khai. Các khoản thu, chi chế độ, tình hình đầu tư quỹ và tổng kết quỹ phải được công khai để các thành viên của quỹ được biết.
- Chính phủ cung cấp đầy đủ thông tin thông đầu tư, công khai, quản lý tốt và quy định cơ cấu đầu tư.
Kết luận chương 1
Hiện nay BHXH ở Việt Nam có các chế độ gồm: khám chữa bệnh, trợ cấp ốm đau, thai sản, nghĩ dưỡng sức phục hồi sức khỏe, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp và trợ cấp tử tuất. Trong 9 chế độ của Công ước 102 thì Việt Nam chưa có trợ cấp gia đình và trợ cấp thất nghiệp ( sẽ thực hiện từ 01/01/2009). Như vậy về cơ bản, BHXH Việt Nam đã thực hiện tương đối đầy đủ các chế độ BHXH theo quy định của Tổ chức lao động quốc tế. Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, sự hỗ trợ của Nhà nước và được thiết kế theo mô hình tồn tích. Mô hình quỹ tồn tích hiện nay phù hợp đối với những hệ thống BHXH trẻ như Việt Nam, số người đóng góp hiện tại lớn hơn nhiều so với số người hưởng BHXH hiện tại, nên số dư quỹ được cộng dồn để chi trả cho tương lai. Do đó, theo kinh nghiệm một số nước cần phải có một cơ chế quản lý, đầu tư và một khung pháp lý hiệu quả để quản lý Quỹ BHXH.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGUỒN QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1 Quá trình hình thành và tổ chức thực hiện BHXH từ khi thành lập BHXH Việt Nam
2.1.1 Những quy định về BHXH
Việc cải cách BHXH thực sự đi vào thực tiễn khi hàng loạt các văn bản pháp qui được ban hành từ năm 1995:
- Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước và mọi người lao động theo loại hình bắt buộc để thực hiện thống nhất trong cả nước. Các chế độ trong Điều lệ này gồm: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, TNLĐ – BNN, hưu trí và tử tuất. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là người lao động làm việc ở những đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên; người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các tổ chức kinh doanh dịch vụ, doanh nghiệp thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, lực lượng vũ trang, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội;
- Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam;- Quyết định số 606/ TTg ngày 26/09/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam;
- Nghị định số 45/CP ngày 15/07/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH đối với sĩ quan. Quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân;
- Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 50/CP ngày 26/07/1995 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ phường, xã, thị trấn. Cán bộ cấp xã tham gia đóng BHXH và hưởng chế độ hưu trí và mai táng phí là những cán bộ làm công tác Đảng, chính quyền, trưởng các đoàn thể và cán bộ thuộc bốn chức danh chuyên môn;
- Nghị định 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998 của Chính phủ ban hành Điều lệ BHYT thay thế cho NĐ 299/HĐBT ngày 15/8/1992;
- Quyết định số 37/2001/QĐ-TTg ngày 21/3/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe cho người lao động có thời gian tham gia BHXH từ đủ 3 năm trở lên bị suy giảm sức khỏe, sau điều trị ốm đau, TNLĐ-BNN mà chưa phục hồi sức khỏe hoặc lao động nữ yếu sức khỏe sau khi sinh;
- Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9/1/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ BHXH quy định việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với lao động làm việc ở tất cả các đơn vị, tổ chức theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn và có thời hạn từ 3 tháng trở lên( không còn điều kiện số lao động nữa);
Lịch sử phát triển ngành BHXH Việt Nam được đánh dấu như một bước phát triển mới là vào ngày 29 tháng 6 năm 2006 Luật BHXH số 71/2006/QH11 ra đời. Về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo Luật thì không thay đổi so với NĐ 01/2003/NĐ-CP, nhưng về các chế độ thì có thay đổi và bổ sung thêm loại hình BHXH tự nguyện thực hiện từ 01/01/2008 và bảo hiểm thất nghiệp thực hiện từ 01/01/2009;
- Tiếp theo là Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc.
Tất cả là một chặng đường dài tất yếu của sự phát triển và từ năm 1995 đến nay mới thực sự có những cải cách về chính sách BHXH và đánh dấu thời kỳ phát triển mới về sự nghiệp BHXH. Những nội dung cụ thể đánh dấu bước cải cách về BHXH ở nước ta là:
- Đối tượng tham gia BHXH bao gồm cả người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Hình thành được quỹ BHXH trên cơ sở đóng góp của 3 bên: người sử dụng lao động, người lao động và sự bảo hộ của Nhà nước (người sử dụng lao động đóng 15%, người lao động đóng 5%). Quỹ BHXH hoạt động độc lập với NSNN.
- Các chế độ BHXH gồm: ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN, hưu trí và tử tuất, sau đó đã bổ sung thêm chế độ nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe(Quyết định số 37/2001/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/03/2001).
- Hệ thống BHXH Việt Nam được hình thành 3 cấp từ Trung ương đến địa phương - Một hệ thống thống nhất chuyên trách tổ chức thực hiện chính sách và quản lý quỹ BHXH. Từ năm 2002 đã chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam.
2.1.2 Tổ chức bộ máy thực hiện BHXH
BHXH Việt Nam được thành lập theo Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính Phủ và ngày 26/09/1995 Chính phủ ra Quyết định số 606/TTg ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam. Theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, chịu sự quản lý nhà nước của Bộ LĐTB&XH về BHXH, của Bộ Y tế về BHYT, của Bộ Tài chính về chế độ tài chính đối với các quỹ BHXH, BHYT [13]. Bộ máy quản lý của BHXH Việt Nam cũng được tổ chức theo ba cấp: Bảo hiểm xã hội Việt Nam là đơn vị dự toán cấp 1; BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là BHXH tỉnh), văn phòng BHXH Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu khoa học, Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH, Trung tâm thông tin, Đại diện BHXH Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí BHXH, Báo BHXH là các đơn vị dự toán cấp 2; BHXH các quận huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là BHXH huyện) là đơn vị dự toán cấp 3.
Các đơn vị dự toán cấp 1, cấp 2, cấp 3 có tư cách pháp nhân đầy đủ, thực hiện hạch toán kế toán, báo cáo quyết toán hoạt động tài chính của từng đơn vị đồng thời thực hiện hạch toán kế toán tập trung tại BHXH Việt Nam.
Từ năm 1998 đến 2002 hệ thống BHYT Việt Nam cũng được tổ chức tương tự hệ thống BHXH Việt Nam. Thực hiện chủ trương sắp xếp lại hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 20/2002/QĐ-TTG về việc chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam. Ngày 6/12/2002, Chính phủ ban hành nghị định số 100/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Thực hiện các quy định trong hai văn bản đó, ở nước ta đã hình thành một hệ thống tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương để thực hiện quản lý tập trung thống nhất các chế độ, chính sách BHXH. Luật BHXH ra đời năm 2006 có bổ sung thêm một số loại hình BHXH nên mới đây Chính phủ đã ban hành Nghị định 94/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam thay thế Nghị định số 100/2002/NĐ-CP. Các quy định trong NĐ 94/2008/NĐ-CP căn bản không thay đổi nhiều so với NĐ 100/2002/NĐ-CP. Tuy nhiên có một số điểm bổ sung sau:
+ Về vị trí, chức năng: “ BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc chính phủ, có chức năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện; tổ chức thu, chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp; quản lý và sử dụng quỹ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp (sau đây gọi chung là BHXH), BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện (sau đây gọi chung là BHYT) theo quy định của pháp luật.
+ Quy định cụ thể, rõ ràng hơn trách nhiệm của BHXH Việt Nam đối với các bộ liên quan: Bộ LĐTB&XH, Bộ Y tế, Bộ Tài Chính.
+ Các thành viên trong Hội đồng quản lý BHXH gồm: đại diện Bộ LĐTB&XH, Bộ Y tế, Bộ Tài Chính, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Tổng giám đốc BHXH Việt Nam (theo NĐ 100/2002/NĐ-CP); nay bổ sung thêm đại diện Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt Nam và Hội nông dân Việt Nam.
+ Làm rõ quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng quản lý và của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam, trong đó đề cao vai trò của Hội đồng quản lý (NĐ 100/2002/NĐ-CP đề cao vai trò của Tổng giám đốc).
2.1.3 Hoạt động quản lý quỹ BHXH
Từ khi BHXH Việt Nam được thành lập, có nhiều văn bản quy định nội dung thu chi BHXH như:
Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ BHXH; Nghị định số 45/CP quy định về BHXH đối với quân sự (quân đội, công an).
Trong 2 nghị định của Chính phủ có quy định về hình thành quỹ BHXH trên cơ sở thu BHXH bao gồm người sử dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương và người lao động đóng 5% tiền lương hàng tháng. Quỹ này được sử dụng để chi cho các chế độ BHXH. Quỹ BHXH được bảo tồn, tăng trưởng và được Nhà nước bảo hộ.
Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của chính phủ; Quyết định 37/2001/QĐ-TTg ngày 21/03/2001 của Thủ tướng chính phủ; Nghị định 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính Phủ và gần đây nhất là Luật BHXH 71/2006/QH11. Nội dung thu, chi của quỹ theo Luật BHXH được quy định như sau:
2.1.3.1 Nguồn thu vào quỹ BHXH
Thứ nhất, đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động
Thực hiện hình thức thu BHXH bắt buộc đối với tất cả người lao động làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ ba tháng trở lên không kể số lao động (trước 2003 chỉ thu BHXH ở những đơn vị có từ 10 lao động trở lên).
- Mức đóng của người lao động là 5% cho quỹ hưu trí, tử tuất và từ năm 2010 cứ 2 năm tăng 1% cho đến khi đạt mức 8%.
- Mức đóng và phương thức đóng của người lao động Việt Nam làm việc có thời hạn ở nước ngoài do Chính phủ quy định.
- Mức đóng và phương thức đóng của người sử dụng lao động: Hằng tháng, người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của người lao động như sau:
+ 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; trong đó người sử dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau, thai sản và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ chức bảo hiểm xã hội;
+ 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
+ 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%.
- Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội không có phụ cấp khu vực.
- Quy định mức trần đóng, cao nhất bằng 20 lần mức lương tối thiểu chung.
Thứ hai, hỗ trợ từ NSNN gồm kinh phí để chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH trước 01/01/1995 và nguồn hỗ trợ để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với đối tượng tham gia và hưởng chế độ từ sau 01/01/1995.
Thứ ba, các khoản tài trợ, viện trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; tiền lãi từ hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
2.1.3.2 Các khoản chi từ quỹ
Quỹ BHXH dùng cho các khoản chi sau:
- Chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động gồm: ốm đau, thai sản, nghĩ dưỡng sức phục hồi sức khỏe, TNLĐ-BNN, hưu trí và tử tuất
- Đóng bảo hiểm y tế cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng.
- Chi phí quản lý cho hoạt động của hệ thống BHXH từ Trung ương xuống địa phương, gồm chi cho hoạt động thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất.
- Chi khen thưởng.
- Chi đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ và chi khác theo quy định
2.2 Hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH
2.2.1 Nội dung và quy trình quản lý quỹ
Hàng năm căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao các đơn vị dự toán đều phải xây dựng kế hoạch hoạt động gồm: số người tham gia và số thu; số người hưởng chế độ và số chi; chi hoạt động bộ máy; chi mua sắm trang thiết bị và đầu tư xây dựng cơ bản. Các đơn vị dự toán cấp trên kiểm tra, xét duyệt và giao chỉ tiêu kế hoạch cho các đơn vị dự toán cấp dưới. BHXH Việt Nam lập dự toán thu, chi BHXH, BHYT, chi quản lý bộ máy, chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi đầu tư tăng trưởng quỹ trình Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam thẩm định, gửi Bộ Tài chính xem xét tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ.
Căn cứ vào các quy định về quản lý và chế độ thu, chi BHXH, chi quản lý bộ máy, chi đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước và của BHXH Việt Nam quy định các đơn vị dự toán các cấp tổ chức thực hiện theo các chỉ tiêu, kế hoạch được giao. Tổ chức hạch toán kế toán, thống kê các nghiệp vụ kinh tế phát sinh kịp thời, đầy đủ vào trong hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán. Định kỳ cuối quý, năm các đơn vị dự toán cấp dưới lập báo cáo gửi lên để đơn vị dự toán cấp trên kiểm tra. BHXH Việt Nam kiểm tra báo cáo của các đơn vị dự toán cấp dưới, tổng hợp báo cáo quyết toán ngành trình Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam và Bộ Tài chính.
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức thực hiện BHXH
BHXH Việt Nam
(Quỹ BHXH)
Ngân sách Nhà nước
Đơn vị sử dụng lao động và người lao động
Đơn vị sử dụng lao động và người lao động
Người thụ hưởng chế độ BHXH
BHXH quận, huyện
Chính phủ
Hội đồng quản lý
BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Đại lý chi trả phường, xã
Nguồn quỹ tạm thời nhàn rỗi
Bộ công an, Bộ Quốc phòng, Ban cơ yếu
(1)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(10)
(11)
(12)
(1): Hàng tháng người sử dụng lao động thu 5% của người lao động đồng thời trích 15% so tổng quỹ tiền lương của đơn vị nộp vào tài khoản BHXH. Việc phân cấp thu BHXH được quy định như sau: BHXH huyện thu BHXH của các đơn vị có trụ sở chính đóng trên địa bàn mình, ngoại trừ những đơn vị do Trung ương quản lý, những đơn vị có yếu tố nước ngoài và những đơn vị có quy mô lớn do BHXH tỉnh thu. Ngoài ra BHXH huyện còn thu BHXH những đơn vị khác do BHXH tỉnh giao.
Đơn vị sử dụng có trách nhiệm lập danh sách tăng, giảm lao động tham gia BHXH ngay khi có phát sinh để kịp thời đối chiếu số lao động, quỹ tiền lương nộp.
(2)&(3): Tất cả tiền BHXH được nộp vào tài khoản chuyên thu của BHXH tại Kho bạc nhà nước hoặc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Định kỳ hàng tháng và ngày 31/12 hàng năm BHXH huyện phải nộp hết số tiền trong tài khoản về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh, BHXH tỉnh nộp về tài khoản tiền gửi của BHXH Việt Nam.
(4): Riêng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban cơ yếu Chính phủ tổ chức thu BHXH đối với toàn bộ các đơn vị, cán bộ, công nhân viên, sĩ quan … do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban cơ yếu Chính phủ quản lý sau đó chuyển vào tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam.
(5): NSNN cấp kinh phí để chi trả cho các đối tượng hưởng các chế độ từ 01/01/1995 trở về trước và hỗ trợ chi trả các chế độ BHXH.
(6)&(7): Hàng tháng dựa vào dự trù kinh phí chi mà BHXH Việt Nam cấp kinh phí để BHXH tỉnh thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho người lao động do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý và cấp kinh phí cho BHXH huyện để chi cho các đối tượng do BHXH huyện quản lý. BHXH tỉnh và BHXH huyện mở hai tài khoản chuyên chi, một tại kho bạc Nhà nước để nhận kinh phí chi cho các đối tượng hưởng các chế độ từ 01/01/1995 trở về trước(do NSNN đảm bảo), một tại Ngân hàng NN&PTNT để nhận kinh phí chi cho các đối tượng hưởng các chế độ do quỹ BHXH đảm bảo.
(8)&(9): BHXH tỉnh, BHXH huyện thực hiện tiếp nhận hồ sơ các chế độ BHXH do người sử dụng lao động và người lao động gửi đến, thực hiện thẩm định và chi trả cho đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý của mình. Riêng chế độ ốm đau, thai sản đơn vị chi trả trước cho người lao động sau đó quyết toán lại với cơ quan BHXH theo tháng, quý.
(10)&(11): Các chế độ BHXH thường xuyên( hưu, mất sức, tuất…) được tổ chức chi trả theo địa bàn phường, xã hoặc BHXH huyện (nếu đối tượng đến nhận sau khi đại lý phường đã quyết toán với cơ quan BHXH).
(12): Phần quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi sẽ được đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định của pháp luật, lợi nhuận từ đầu tư được bổ sung trở lại cho Quỹ BHXH.
2.2.2 Cân đối thu – chi quỹ BHXH
Cân đối Quỹ BHXH bắt đầu từ việc cân đối giữa thu và chi. Thực trạng cân đối thu, chi quỹ HT&TC thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.2 : THỰC TRẠNG CÂN ĐỐI QUỸ HT&TC TỪ 1995 ĐẾN 2007
Đơn vị tính: tỷ đồng
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
1.Dư năm trước chuyển sang
0
746
2.969
5.742
8.887
12.241
16.285
21.690
26.507
33.231
42.821
54.850
68.972
2.Tổng số thu trong năm
788
2.629
3.495
4.132
4.675
5.881
8.030
7.777
10.983
15.605
20.026
26.047
33.534
2.1 Thu từ đóng BHXH
788
2.570
3.514
3.876
4.186
5.198
6.348
6.963
9.627
13.001
16.901
21.966
28.991
2.2 Thu từ lãi đầu tư tài chính và thu khác
0
59
-19
256
489
683
1.682
814
1.356
2.604
3.125
4.081
4.543
3. Tổng số chi trong năm
42
406
722
987
1.321
1.837
2.625
2.960
4.259
6.015
7.997
11.925
15.483
3.1 Trong đó chi trả BHXH
42
383
594
752
940
1.335
1.856
2.585
3.792
5.342
7.145
10.991
14.508
3.2 Chi Quản lý và chi khác
0
23
128
235
381
502
769
375
467
673
852
934
975
4. Chênh lệch thu - chi trong năm
746
2.223
2.773
3.145
3.354
4.044
5.405
4.817
6.724
9.590
12.029
14.122
18.051
5. Số dư cuối năm
746
2.969
5.742
8.887
12.241
16.285
21.690
26.507
33.231
42.821
54.850
68.972
87.023
Nguồn [1]
Bảng số liệu cho thấy hàng năm số thu lớn hơn số chi, do vậy quỹ có kết dư hàng năm. Số dư tuyệt đối của năm sau cao hơn năm trước. Tổng số dư đến 31/12/2007 là 87.023 tỷ đống, số thu BHXH năm 2007 gấp 11,28 lần số thu BHXH năm 1996. Tuy nhiên chúng ta cũng thấy rằng tốc độ tăng năm sau so với năm trước của số chi tăng nhanh hơn số thu, bình quân từ năm 1996 đến 2007 số thu BHXH tăng 25,12%/năm, số chi BHXH tăng 40,15%/năm. Xét về tỷ lệ của số thực chi BHXH so với số thực thu BHXH theo từng năm thì năm 1996 là 14,90% đến năm 2007 đã tăng lên 50,04%. Với tốc độ tăng như vậy thì đến khoảng năm 2023 số chi BHXH sẽ bằng với số thu BHXH.
2.2.3 Hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH
Khoản 2 Điều 149 Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung quy định:“Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của Chính phủ”. Khoản 5 Điều 90 của Luật BHXH cũng quy định được sử dụng quỹ BHXH để “ Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định”.
- Các hoạt động đầu tư để bảo toàn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH theo quy định bao gồm:
+ Mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà nước, của ngân hàng thương mại của Nhà nước.
+ Cho ngân hàng thương mại của Nhà nước vay.
+ Đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia.
+ Các hình thức đầu tư khác do Chính phủ quy định.
- Hoạt động bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHXH phải được hạch toán và báo cáo riêng theo quy định tại chế độ hạch toán kế toán BHXH.
- Tiền sinh lợi từ hoạt động đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội được sử dụng như sau:
+ Chi quản lý bộ máy của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo quy định.
+ Chi đầu tư xây dựng, trang bị cơ sở vật chất, phát triển công nghệ thông tin theo dự án, đề án được cấp có thẩm quyền phê duyệt và kế hoạch hàng năm do Thủ tướng Chính phủ giao.
+ Phần còn lại bổ sung vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ kết dư tương ứng của từng quỹ thành phần.
Như vậy, có thể thấy hoạt động bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHXH chịu sự kiểm soát và theo cơ chế tài chính rất chặt chẽ.
Quỹ BHXH tách ra khỏi Ngân sách Nhà nước từ tháng 10/1995 bắt đầu hoạt động tuân theo các quy luật của thị trường. Bên cạnh những kết quả đạt được sau 13 năm đổi mới chính sách BHXH nói chung, Quỹ BHXH nói riêng còn nhiều hạn chế cần phải được xem xét và điều chỉnh để phù hợp với quá trình phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế. Thực trạng đó thể hiện như sau:
- Thứ nhất, thất thu tài chính Quỹ bảo hiểm xã hội
Năm 2006 có 6.746.553 người thực tế tham gia đóng BHXH chiếm khoảng 63% số người bắt buộc phải tham gia BHXH. Năm 2007 có 8.148.123 triệu người tham gia, chiếm khoảng 70% số người phải tham gia BHXH bắt buộc [26]. Như vậy còn 33% người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc chưa tham gia BHXH theo quy định. Có nghĩa là quỹ BHXH đang thất thu khoảng hơn 30% lượng tài chính. Số thất thu BHXH chủ yếu tập trung ở khu vực ngoài quốc doanh, số lao động tham gia BHXH chỉ chiếm khoảng 30% tổng số lao động đang làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh [xem phụ lục 4]. Nguyên nhân chủ yếu là do việc quản lý Nhà nước về lao động, bảo hiểm xã hội ở địa phương chưa đạt hiệu quả cao. Mặc dù pháp luật quy định bắt buộc các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sau khi đăng ký hoạt động sản xuất kinh doanh phải đăng ký số lao động với cơ quan chức năng và phải đóng BHXH cho người lao động theo quy định. Tuy nhiên, nhiều người sử dụng lao động vẫn không tuân thủ quy định này, trong khi mức xử phạt chưa đủ sức răn đe nên nhiều người thà chịu phạt còn hơn nộp bảo hiểm xã hội với số tiền lớn hơn. Mặt khác, người lao động do nhận thức chưa đầy đủ về chính sách BHXH và những nguy cơ rủi ro về thu nhập nên nhiều người không phản đối khi người sử dụng lao động không đóng BHXH cho họ.
Năm 1995 có khoảng 2,85 triệu người đã có thời gian công tác coi như đã đóng BHXH bình quân 14,5 năm. Nhưng BHXH Việt Nam không thu được số tiền đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động để hình thành quỹ. Tại thời điểm năm 2003, số tiền đó đã là 60.400 tỉ đồng và nó sẽ tiếp tục tăng khi Nhà nước tăng lương tối thiểu.
Tình trạng nợ đọng khá phổ biến. Chỉ tính riêng năm 2007 trên phạm vi cả nước các doanh nghiệp nợ BHXH khoảng 1.200 tỷ đồng, nâng tổng nợ BHXH tính đến đầu năm 2008 là 2.156 tỷ đồng. Hiện nay với mức lãi phạt chậm nộp căn cứ trên mức lãi suất đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH thấp hơn cả mức lãi suất tiền gửi ngân hàng (năm 2007 là 0,7%/ tháng, từ tháng 1/2008 đến tháng 5/2008 là 0,73%/tháng, từ tháng 6/2008 là 1,16%/tháng), nếu doanh nghiệp cố tình chiếm dụng thì vẫn có lời.
- Thứ hai, việc sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi của Quỹ BHXH chưa hiệu quả
Mặc dù với số tồn quỹ khá lớn nhưng do việc quy định chặt chẽ và đầu tư theo sự chỉ định của Nhà nước để bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHXH nên hiệu quả đầu tư Quỹ BHXH thấp: Năm 2006, số tiền lãi thu được từ đầu tư quỹ BHXH là 4.081 tỷ đồng, tỷ lệ lãi đầu tư bình quân là 7,58%. Năm 2007 số tiền lãi thu được từ đầu tư quỹ BHXH là 4.536 tỷ đồng, tỷ lệ lãi đầu tư bình quân là 8,4%; nếu như trừ chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng 12,63% thì Quỹ BHXH không còn tăng trưởng. Nếu trừ cả chi phí quản lý BHXH hàng năm được trích từ nguồn lãi đầu tư tăng trưởng quỹ thì tỷ lệ lãi đầu tư quỹ BHXH còn thấp hơn nữa. Như vậy có thể khẳng định với cách thức đầu tư như hiện nay số tiền lãi thu về khó thực hiện được yêu cầu bảo toàn và tăng trưởng quỹ về lâu dài.
- Thứ ba, nguy cơ mất cân đối Quỹ BHXH: có nhiều nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất cân đối:
+ Nguyên tắc đặc trưng ở các chế độ ốm đau, chế độ thai sản, TNLĐ - BNN và chế độ nghỉ dưỡng sức là nguyên tắc cộng đồng, đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro. Nguyên tắc đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro ở đây có ý nghĩa là mỗi thành viên trong cộng đồng cùng loại hình BHXH sẽ đóng góp theo một mức (tỷ lệ) quy định sau đó nhận lại theo yêu cầu mà không xem xét đến khả năng đã đóng góp. Trong khi chế độ hưu trí và trợ cấp nguyên tắc BHXH đặc trưng của chế độ này là sự tương quan giữa mức đóng và mức hưởng và mức hưởng sẽ được xem xét đến trong mối quan hệ với mức sống tại thời điểm người lao động nhận lương hưu. Hiện nay, quyền lợi và trách nhiệm của người lao động quy định trong chế độ, nhất là hưu trí chưa hợp lý: bình quân mỗi năm một người lao động đóng vào quỹ hưu là 1,92 tháng lương; 30 năm làm việc một người sẽ đóng 57,6 tháng lương; thời gian hưởng lương hưu bình quân là 15 năm với mức lương hưu tối đa là 75%, tổng mức hưởng sẽ là 135 tháng lương cao hơn 2,3 lần mức đóng vào. Chưa kể là trước đây người lao động đóng theo mức lương tối thiểu thấp nhưng hiện nay lương tối thiểu đã tăng lên, mức lương hưu cũng tăng theo. Bên cạnh đó chính sách hưu trước tuổi cũng ảnh hưởng đến cấn đối Quỹ BHXH vì người có thời gian đóng BHXH ít, về hưu sớm lại được hưởng chế độ với thời gian dài; tổng số tiền đóng của mỗi người (từ khi đi làm đến lúc về hưu) thấp hơn nhiều so với lương hưu được hưởng. Theo thiết kết tuổi nghỉ hưu trung bình là 57,5 tuổi nhưng thực tế tuổi nghỉ hưu trung bình từ 1995 đến nay chỉ là 51,5 tuổi.
+ Đặc điểm nhân khẩu học của các thành viên được cải thiện. Người dân sống lâu hơn do được cải thiện đời sống vật c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV giai phap tai chinh.doc