Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần An Bình

Lời mở đầu - 5 -

Chương I: Vốn và huy động vốn của NHTM - 7 -

1.1 Nguồn vốn và vai trò của nguồn vốn đối với NHTM - 7 -

1.1.1 Ngân hàng thương mại và vốn kinh doanh của NHTM - 7 -

1.1.2 Vai trò của nguồn vốn đối với ngân hàng thương mại - 10 -

1.2 Các nguồn hình thành nên nguồn vốn của và tác động của vốn trong kinh doanh ngân hàng - 12 -

1.2.1 Các nguồn hình thành nên nguồn vốn - 12 -

1.2.1.1 Vốn chủ sở hữu - 12 -

1.2.1.2 Vốn nợ - 15 -

1.2.2 Tác động của vốn trong kinh doanh ngân hàng - 19 -

1.2.2.1 Quy mô, cơ cấu nguồn vốn quyết định cơ cấu tài sản và ảnh hưởng tới khả năng sinh lời - 20 -

1.2.2.2 Sự ổn định của nguồn vốn có ảnh hưởng đến độ an toàn của ngân hàng thương mại - 20 -

1.3 Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại - 24 -

1.3.1 Tiền gửi không kỳ hạn. - 24 -

1.3.1.1 Tiền gửi thanh toán. - 26 -

1.3.1.2 Tiền gửi không kỳ hạn (thuần túy). - 27 -

1.3.2 Tiền gửi có kỳ hạn. - 28 -

1.3.2.1 Chứng chỉ tiền gửi (CD). - 29 -

1.3.2.2 Kỳ phiếu - 30 -

1.3.2.3. Trái phiếu - 30 -

1.3.3 Tiền gửi ủy thác - 31 -

1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM - 32 -

1.4.1 Nhân tố chủ quan - 32 -

1.4.1.1 Uy tín của Ngân hàng - 32 -

1.4.1.2 Chiến lược huy động vốn của ngân hàng - 33 -

1.4.1.3 Chính sách lãi suất - 38 -

1.4.1.4 Cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng - 40 -

1.4.2 Nhân tố khách quan - 40 -

Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn của NHTM cổ phần An Bình - 44 -

2.1 Tổng quan về NHTM cổ phần An Bình - 44 -

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển - 44 -

2.1.2 Tình hình kinh doanh - 52 -

2.2 Thực trạng huy động vốn tại NHTM An Bình - 54 -

2.2.1 Tình hình biến động vốn huy động - 54 -

2.2.2 Chi phí vốn - 63 -

2.3 Đánh giá huy động vốn tại NHTM An Bình - 65 -

2.3.1 Những kết quả đạt được - 65 -

2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân - 66 -

Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHTM An Bình - 70 -

3.1 Định hướng phát triển tại NHTM An Bình - 70 -

3.2 Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHTM An Bình - 71 -

3.2.1 Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và phát triển các hoạt động dịch vụ của ngân hàng - 71 -

3.2.2 Xây dựng chính sách lãi suất hợp lý - 73 -

3.2.3 Xây dựng chính sách tiếp cận và chăm sóc khách hàng hiệu quả-75-

3.2.4 Đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên - 76 -

3.3 Kiến nghị - 77 -

3.3.1 Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước và chính phủ - 77 -

3.3.1.1 Với Chính phủ - 77 -

3.3.1.2 Với Ngân hàng Nhà nước - 78 -

3.3.2 Giải pháp với NHTM An Bình - 79 -

KẾT LUẬN - 81 -

 

 

 

 

 

 

doc82 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2508 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần An Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả năng ổn định lượng vốn huy động, tiết kiệm chi phí huy động. Uy tín không chỉ ảnh hưởng đến quá trình huy động vốn mà nó còn ảnh hưởng tới tất cả các hoạt động khác của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng phải không ngừng nâng cao uy tín đồng thời với việc tăng cường quan hệ khác hàng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, không chỉ tiếp cận thị trường trong nước mà các ngân hàng còn có thể nâng cao uy tín của mình trên cả thị trường quốc tế và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. 1.4.1.2 Chiến lược huy động vốn của ngân hàng a. Đa dạng hoá sản phẩm huy động vốn. Để thu hút được nhiều tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế, các ngân hàng thương mại không ngừng đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn của mình. Các NHTM có thể tiến hành phát triển, đa dạng hoá sản phẩm dựa trên nhiều tiêu chí như sau: Theo kì hạn và lãi suất: Với các sản phẩm tiền gửi, NHTM thường chia ra nhiều kì hạn khác nhau để khách hàng có thể chọn lựa các kì hạn gửi tiền phù hợp với nhu cầu của mình. - Đối với tiền gửi ngắn hạn (< 12 tháng): ngân hàng phân loại tiền gửi theo thời gian từng quý: không kì hạn, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng. - Đối với tiền gửi trung và dài hạn (> 12 tháng): các kì hạn tiền gửi được chia ra thành: 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng và 60 tháng. Hầu hết các NHTM hiện nay đều phân loại tiền gửi theo các kì hạn trên; do đó, để tạo sự khác biệt thu hút khách hàng gửi tiền, nhiều ngân hàng đã chia nhỏ thời gian của kì hạn hoặc đưa ra nhiều kì hạn mới như: kì hạn 1 tháng, 2 tháng và 13 tháng. Các kì hạn mới này sẽ tạo cho người gửi tiền sự linh hoạt trong khi rút và gửi tiền, đồng thời tăng thêm mức thu nhập từ lãi suất tiền gửi. Tương ứng với các kì hạn tiền gửi là các mức lãi suất khác nhau, tăng dần theo thời gian của kì hạn gửi tiền. Biên độ giữa các mức lãi suất này dao động trong khoảng 0,1%/tháng và rất khác nhau giữa các ngân hàng thương mại. Sự cạnh tranh về lãi suất tiền gửi luôn diễn ra gay gắt ở từng mức lãi suất tiền gửi cho các kì hạn. Mỗi một NHTM đều xây dựng những chiến lược lãi suất riêng dựa trên mặt bằng lãi suất chung. Sự chênh lệch lãi suất giữa các NHTM cổ phần và NHTM quốc doanh thường khá rõ ràng; điều này cũng dễ hiểu vì: các NHTM quốc doanh có uy tín và thâm niên hoạt động lâu năm hơn so với các NHTM cổ phần, để cạnh tranh thu hút vốn các NHTM cổ phần sẽ phải tăng lãi suất của mình cao hơn mới hấp dẫn được khách. Chênh lệch lãi suất giữa các NHTM luôn ảnh hưởng tới tâm lý của người gửi tiền, dù khoảng cách đó nhiều khi không lớn. Nhiều khách hàng luôn thích gửi tiền ở những ngân hàng có lãi suất cao nhất để được hưởng tiền lãi nhiều hơn. Bên cạnh đó, các NHTM hiện nay cũng phát triển các chứng chỉ tiền gửi tương ứng với nhiều lượng tiền gửi khác nhau và áp dụng biểu lãi suất bậc thang cho các chứng chỉ tiền gửi loại này để khuyến khích khách hàng gửi nhiều tiền vì càng gửi nhiều càng được hưởng lãi cao. Theo tiện ích của sản phẩm. Nói chung, những sản phẩm huy động vốn đều giống nhau về bản chất nên để tạo sự khác biệt các NHTM thường tăng thêm nhiều tiện ích cho các sản phẩm khiến cho khách hàng ưa thích chúng hơn. Việc làm này đòi hỏi sự sáng tạo của bộ phận phát triển sản phẩm trong mỗi ngân hàng. Các ngân hàng thường đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn của họ dựa trên 2 cách: Một là, đưa thêm các tiện ích mới vào các sản phẩm huy động truyền thống. Chẳng hạn như đối với thẻ ATM,thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng ngoài chức năng chính là cho phép khách hàng rút tiền mặt tại máy ATM, ngân hàng có thể đưa thêm một số tiện ích mới như: Thanh toán các loại cước phí (điện, nước, điện thoại....), trả lương, quản lý chi tiêu cá nhân, được ưu đãi ở một số cửa hàng... Đối với các loại tiền gửi có kì hạn, hiện nay ngân hàng có thể cho phép người gửi rút tiền trước kì hạn, dễ dàng chuyển đổi kì hạn theo ý mình...Chi phí cho việc tăng thêm các tiện ích mới cho các sản phẩm truyền thống cũng chiếm một phần đáng kể trong chi phí huy động vốn chung. Do đó, tuỳ thuộc vào khả năng của từng ngân hàng mà số tiện tích mới của các sản phẩm huy động vốn của chúng ít hay nhiều. Hai là, phát triển sản phẩm hoàn toàn mới với những tiện ích nổi trội. Đây là công việc rất khó khăn đối với hầu hết các ngân hàng thương mại. Hiện nay, các loại sản phẩm huy động vốn được phát triển đã khá đầy đủ, đa dạng, việc tạo ra một sản phẩm mới hoàn toàn khác biệt những sản phẩm cũ là điều ít ngân hàng nào dám nghĩ tới, mà hầu hết họ đều đa dạng các sản phẩm huy động vốn theo cách thứ nhất (dựa trên nền tảng các sản phẩm cũ). Tóm lại, việc đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, chú ý phát triển sản phẩm riêng biệt sẽ tạo dựng cho các ngân hàng thương mại những dấu ấn nhất định đối với khách hàng gửi tiền, khuyến khích họ gửi tiền nhiều hơn, làm tăng lượng vốn huy động cho các ngân hàng thương mại. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, khuyến mại sản phẩm. Bên cạnh việc đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, các NHTM đều không ngừng đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, khuyến mại sản phẩm của mình đến với khách hàng. Đây là chiến lược huy động vốn rất hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Các hoạt động tiếp thị sản phẩm huy động vốn được các ngân hàng tiến hành bằng nhiều phương thức khác nhau, chủ yếu là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: truyền hình, báo chí, tờ rơi, thư tay...Nội dung của các chương trình quảng cáo này cũng được các ngân hàng thiết kế sao cho sản phẩm cũng như hình ảnh của ngân hàng mình thật hấp dẫn người xem nhất. Bên cạnh hoạt động tiếp thị sản phẩm, các ngân hàng cũng tổ chức các đợt khuyến mại để tăng cường huy động vốn. Các đợt khuyến mại này thường được triển khai vào các thời điểm trong năm như: đầu năm, giữa năm hay cuối năm, hoặc cũng có khi tuỳ thuộc vào chiến lược huy động vốn của mỗi ngân hàng. Thông thường các NHTM triển khai chương trình khuyến mại lớn bằng các đợt huy động vốn dự thưởng với tổng giá trị giải thưởng khá lớn, rất thu hút được sự tham gia của khách hàng. Ngoài những đợt huy động dự thưởng lớn đó, các ngân hàng cũng triển khai xen kẽ các đợt khuyến mại nhỏ với từng loại sản phẩm huy động vốn của mình như: tặng quà khách hàng thân thiết, khách hàng gửi tiền với số lượng lớn... Những chi phí cho hoạt động tiếp thị và khuyến mại này cũng chiếm phần khá lớn trong chi phí huy động vốn, đòi hỏi các ngân hàng phải tính toán, cân nhắc kĩ lưỡng trước khi triển khai, để tránh việc lượng vốn huy động được nhiều nhưng cho phí huy động lại quá lớn, thì hiệu quả huy động vốn không cao. Mở rộng mạng lưới chi nhánh; nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho cán bộ. Mở rộng mạng lưới chi nhánh. Để thu hút được nhiều vốn từ dân cư, các ngân hàng thương mại còn không ngừng mở rộng mạng lưới chi nhánh của mình. Quy mô, khả năng tài chính của ngân hàng nào càng lớn thì số lượng chi nhánh của nó càng nhiều và trải rộng trên nhiều nơi, khả năng thu hút càng lớn. Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hoặc gần với những trung tâm thương mại thì sẽ có thuân lợi khi thu hut vốn. Lẽ tự nhiên, khi dân chúng có tiền nhàn rỗi họ sẽ đến các chi nhánh ngân hàng gần nhà mình nhất để gửi, như thế vừa tiết kiệm thời gian đi lại vừa đảm bảo an toàn. Ngày nay, các ngân hàng đều cố gắng mở thật nhiều chi nhánh để thu hút tiền gửi của người dân cũng như đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh khác. Với một mạng lưới chi nhánh rộng khắp đất nước, đến cả những vùng sâu vùng xa, các ngân hàng sẽ có điều kiện cấp các dịch vụ của mình cho người dân một cách chu đáp và tiện lợi nhất. Tuy nhiên trước khi lập thêm chi nhánh các ngân hàng phải tìm hiểu rõ địa bàn đặt chi nhánh, dự đoán được khả năng phát triển của chi nhánh trong tương lai, nếu không việc lập thêm chi nhánh sẽ không có tác dụng thu hút vốn mà còn làm tăng chi phí hoạt động cho ngân hàng. Nâng cao trình độ và thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng . Con người vẫn là yếu tố quyết định đến viêch thành công hay thất bại của một ngân hàng, chính con người gây dựng uy tín của Nh với khách hàng. Một ngân hàng với đội ngũ nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao, mọi thao tác được thực hiện chính xác, hiệu quả, tác phong làm việc vui vẻ, lịch sự, thái độ phục vụ tận tình, chu đáo thì sẽ gây ấn tượng tốt đẹp đối với khách hàng. Nhân viên giao dịch được coi là “bộ mặt” của ngân hàng, hình ảnh của họ ltrong con mắt khách hàng phản ánh hình ảnh của ngân hàng. Khách hàng là những người có quyền lựa chọn, vì vậy họ sẽ lựa chọn nơi làm họ kài lòng nhất để gửi tiền, vay tiền và sử dụng các dịch vụ khác do ngân hàng cung ứng. Đối với nhà quản lý thì năng lực và trình độ cảu họ là yếu tố quyết định hàng đầu đến tất cả hoạt động của ngân hàng, trong đó có huy động vốn. Quản lý tốt thì quá trình hoạt động của ngân hàng có thể đảm bảo an toàn vốn, tăng uy tín từ đó có thể thu hút được nhiều khách hàng được nhiều khách hàng hơn. Để có thể đáp ứng nhu cầu kịp thời, có hiệu quả các yêu cầu cao trong hoạt động ngành ngân hàng nói chung thì cần phải tuyển chọn nguồn nhân lực có đạo đức nghề nghiệp tốt, có trình độ chuyên môn giỏi, đặc biệt là thái độ, cách cư xử của cán bộ nhân viên. Chính những điều đó sẽ tạo nên sự thành công của ngân hàng nói chung và hiệu quả huy động vốn nói riêng. Hiện nay các ngân hàng đều cố gắng lựa chọn cũng như đào tạo các cán bộ của mình thành thạo về nghiệp vụ cũng bồi dưỡng nâng cao các kiến thức về marketing và ngân hàng. Bên cạnh việc đào tạo trực tiếp cán bộ tại nơi làm việc, các NHTM thường tổ chức các khoá bồi dưỡng, nâng cao kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ ở các cơ sở trong nước và nước ngoài. Đây là việc làm có ý nghĩa khá quan trọng cho công tác huy động vốn trong hiện tại cũng như tương lai của ngân hàng. 1.4.1.3 Chính sách lãi suất Ngân hàng bao giờ cũng cố gắng tìm kiếm cho mình các nguồn vốn khác nhau với mức lãi suất huy động thấp nhất để lợi nhuận là cao nhất. Trong khi đó, những người cho vay vốn lại luôn muốn ngân hàng trả cho mình mức lãi suất cao. Lãi suất chi trả càng cao càng có thể huy động nguồn vốn lớn song lại làm tăng chi phí cho ngân hàng. Một chính sách lãi suất thấp sẽ hạn chế khách hàng gửi tiền vào ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động tín dụng và đầu tư của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng phải giữ lãi suất ở mức vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, vừa đảm bảo lợi ích của ngân hàng. Lãi suất huy động phụ thuộc vào lãi suất cho vay, mặt bằng lãi suất trên thị trường, mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước qui định, thời hạn khác nhau thì lãi suất cũng sẽ khác nhau, từng nhóm khách hàng… Đối với người gửi tiền là khách hàng doanh nghiệp, họ gửi tiền vào các ngân hàng với mục đích thanh toán nên lãi suất không phải vấn đề họ quan tâm. Điều họ quan tâm nhất là việc sử dụng các dịch vụ từ ngân hàng và loại tiền này gọi là tiền gửi không kì hạn, lãi suất cho loại này rất thấp. Bên cạnh đó thì bộ phận tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và tiền gửi tiết kiệm của dân cư lại rất nhạy cảm với lãi suất. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, mỗi ngân hàng phải đưa ra một chính sách lãi suất huy động mềm dẻo, linh hoạt. Khi ít có sự khác biệt trong chất lượng dịch vụ giữa các ngân hàng thì khách hàng gửi tiền thường đến ngân hàng có mức lãi suất huy động cao hơn. Tuy nhiên, cạnh tranh bằng lãi suất là sự cạnh tranh có giới hạn. Lãi suất tác động đến nguồn vốn huy động, đồng thời làm thay đổi chi phí huy động vốn của ngân hàng. Vì vậy, việc tính toán chính xác lãi suất huy động vốn được coi là yếu tố cơ bản để xác định mức lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ nhyững tài sản sinh lời của mình, từ đó, ngân hàng sẽ định giá cho mỗi sản phẩm dịch vụ. Có thể nói rằng lãi suất là nhân tố tác động có tính chất quyết định đến quá trình huy động vốn của ngân hàng thương mại. Do đó để gia tăng nguồn vốn các ngân hàng thường áp dụng chính sách đa dạng hóa lãi suất, các nhóm lãi suất sẽ phân biệt theo từng loại tiền, kỳ hạn, nhóm khách hàng, mục đích gửi tiền và theo quy mô… để đáp ứng được nhu cầu khách hàng. Một chính sách lãi suất phù hợp với các hình thức khuyến mại như quay số trúng thưởng, quà tặng sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch với ngân hàng: gửi tiền, vay tiền, thanh toán góp phần gia tăng nguồn vốn của ngân hàng. 1.4.1.4 Cơ sở vật chất và công nghệ ngân hàng Hoạt động của ngân hàng gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Hầu hết tất cả các ngân hàng đều muốn áp dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động của mình vì những công nghệ này sẽ giúp ngân hàng rút ngắn thời gian giao dịch, tăng khả năng cung cấp các dịch vụ tiện ích cho khách hàng như: Ngân hàng tự động, máy rút tiền tự động, chuyển tiền nhanh. Nếu ngân hàng ứng dụng và sử dụng công nghệ một cách có hiệu quả thì ngân hàng đó sẽ mở rộng về không gian hoạt động, thời gian phục vụ và cung cấp được những dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Đây chính là những nhân tố phụ trợ thúc đẩy khả năng thu hút được nguồn vốn khi khách hàng đã thấy được rằng khi mình gửi tiền vào ngân hàng không chỉ được hưởng lãi mà còn sử dụng được rất nhiều dịch vụ tiện ích khác của ngân hàng. Công nghệ ngân hàng đã làm thay đổi căn bản các hoạt động của ngân hàng và làm cho chúng dễ dàng hơn. Trong những năm qua, nhờ sự tiến bộ của công nghệ thông tin, chúng ta đã chứng kiến sự ra đời của nhiều sản phẩm dịch vụ mới như: sự phát triển mạng lưới máy tính đã cho phép ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng 24/24 giờ, dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home Banking), máy rút tiền tự động ATM, thẻ tín dụng, hệ thống thanh toán điện tử…. Giới hạn thị trường trong và ngoài nước mất đi nhờ mạng thông tin toàn cầu Internet. 1.4.2 Nhân tố khách quan Tình hình nền kinh tế: Một nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái được thể hiện thông qua các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưởng, GDP, thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp. Ngành ngân hàng là một bộ phận nằm trong nền kinh tế quốc dân, hơn nữa nó lại kinh doanh trong một lĩnh vực hết sức nhạy cảm là tiền tệ, do vậy các hoạt động của ngân hàng chịu ảnh hưởng lớn từ những biến động trong nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển thì thu nhập bình quân trên đầu người cao, làm tăng tiết kiệm dân cư, tạo ra sự an tâm của công chúng sẽ kích thích người dân gửi tiền vào ngân hàng. Mặt khác, nền kinh tế tăng trưởng cũng thúc đẩy các doanh nghịêp mở rộng sản xuất, tăng đầu tư kéo theo nhu cầu vay vốn tăng theo, từ đó thúc đẩy ngân hàng tăng cường huy động vốn. Tuy nhiên, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, thu nhập giảm, thất nghiệp tăng cao thì đồng nội tệ mất giá nhanh, người dân không có thu nhập hoặc không muốn gửi tiền vào ngân hàng, các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất nên nhu cầu về tiền gửi và tín dụng cũng giảm theo. Tình hình chính trị-xã hội: Một đất nước có tình hình chính trị ổn định, an ninh trật tự đảm bảo sẽ là môi trường thuận lợi để các hoạt động kinh tế được diễn ra suôn sẻ, người dân sẽ cảm thấy tin cậy khi gửi tiền vào ngân hàng. Đó cũng là cơ hội tốt để các ngân hàng trong nước có thể sử dụng các hình thức huy động như phát hành trái phiếu ra thị trường nước ngoài, hay thu hút các nhà đầu tư nước ngoài khi họ thấy rằng họ đang đầu tư trong một môi trường an toàn, rủi ro thấp, và khả năng thu hồi vốn cao. Chính sách của Nhà nước: ngân hàng là một tổ chức kinh doanh đặc biệt chịu tác động trực tiếp bởi các chính sách, các quy định của chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. Bất kỳ một sự điều chỉnh nảo của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất đều ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng. Những chính sách được thực thi sẽ đem đến cho ngân hàng những cơ hội hoặc thách thức mới. Mỗi chính sách của Nhà nước nhằm ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một ngành hay một lĩnh vực nào đó để đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, tác động trực tiếp đến khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế. Các bộ luật trực tiếp tác động, điều chỉnh hoạt động kinh doanh của NH: Luật các tổ chức tín dụng, Luật NHNN, các văn bản trong hệ thống NH…Bên cạnh đó các chính sách tài chính như tiền tệ, lãi suất… cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng thu hút vốn, sử dụng vốn của ngân hàng như: tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mức cho vay đối với một khách hàng… Đối với ngân hàng điều quan trọng là phải nắm bắt nhanh nhạy về các quy định của pháp luật để có những điều chỉnh kịp thời và phù hợp. Bên cạnh đó, một môi trường quản lý đồng bộ, hoàn thiện sẽ giúp cho hệ thống ngân hàng hoạt động tự chủ, lành mạnh, an toàn. Đối thủ cạnh tranh của ngân hàng: Cùng với xu thế toàn cầu hoá, các NHTM không những phải cạnh tranh với các ngân hàng trong nước mà các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực về tài chính, công nghệ, trình độ quản lý đang là những đối thủ lớn của các NH trong nước. Cạnh tranh vừa là thách thức tất yếu của sự phát triển vừa là nhân tố thúc đẩy sự phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động của NH, trong đó có hoạt động huy động vốn. Với hoạt động huy động vốn, cạnh tranh không chỉ là cứ tăng lãi suất huy động là tăng được lượng khách hàng và quy mô vì điều đó chưa đủ thoả mãn nhu cầu của khách hàng mà còn làm tăng chi phí huy động. Để cạnh tranh với các ngân hàng khác, ngân hàng phải nghiên cứu kỹ đối thủ, khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, đưa ra chính sách sản phẩm, khách hàng, phân phối phù hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Tuy nhiên, trong môi trường vừa cạnh tranh vừa hợp tác thì các ngân hàng cần kết hợp với nhau trong việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ, nhằm khai thác ưu thế sẵn có của nhau và giảm chi phí. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản cũng là những đối thủ cạnh tranh đối với hoạt động của ngân hàng nói chung và huy động vốn nói riêng. Sự phát triển của những thị trường này đã giúp người dân ngày càng có nhiều cơ hội để lựa chọn các hình thức đầu tư vào bất động sản hay vào chứng khoán…thậm chí, những thị trường này còn mở ra cho họ những cơ hội có được thu nhập cao hơn là đầu tư vào ngân hàng. Vì vậy, cạnh tranh vừa là thách thức vừa là cơ hội thúc đẩy sự phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng. Tâm lý, thói quen cuả người tiêu dùng: Tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng. Nếu những vùng dân cư người ta quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ là chính thì việc huy động vốn sẽ gặp khó khăn. Chẳng hạn vào thời kì vàng còn có giá trị thì người ta dùng tiền nhàn rỗi đi mua vàng về cất trữ…Còn khi người dân có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn. Khi đó cơ hội huy động vốn của ngân hàng tăng lên. Ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch thanh toán qua ngân hàng rất phát triển. Hầu hết những người dân có thu nhập đều mở tài khoản để thanh toán qua ngân hàng. Tuy nhiên ở những nước kém phát triển, thu nhập của người dân thấp, nhu cầu giao dịch qua ngân hàng còn hạn chế nên ít người mở tài khoản tại ngân hàng. Điều này sẽ hạn chế khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, không phát huy được tính hiệu quả của tài khoản giao dịch. Mức thu nhập và chu kì chi tiêu của người dân cũng là những yếu tố trực tiếp tác động đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung thu nhập của người dân càng cao; nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu dùng thì nhu cầu mở tài khoản cũng như gửi tiền vào ngân hàng sẽ tăng lên. Chu kì chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào những dịp nghỉ lễ trong năm, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt là trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến. Có thể nói đây không phải yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn của ngân hàng những lại có giá trị ở chỗ nó khiến cho gần hết tiền nhàn rỗi trong dân cư được luân chuyển vào ngân hàng Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn của NHTM cổ phần An Bình 2.1 Tổng quan về NHTM cổ phần An Bình 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình được thành lập ở Việt Nam theo giấy phép Hoạt động Ngân hàng số 0031/NH – GP ngày 15 tháng 4 năm 1993 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ban đầu,Ngân hàng đăng kí hoạt động dưới hình thức là một ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn. Theo quyết định chấp thuận số 1333 ngày 07 tháng 09 năm 2005 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân hàng đã được chuyển đổi thành ngân hàng thương mại cổ phần đô thị. Do đó, ngân hàng được phép tiến hành đầy đủ các hoạt động ngân hàng, bao gồm hoạt động huy động và nhận vốn ngắn hạn,trung hạn và dài hạn từ các tổ chức và cá nhân khác nhau, hoạt động cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn các tổ chức và cá nhân khác nhau dựa trên đặc điểm và năng lực về vốn của Ngân hàng; tiến hành các giao dịch ngoại hối, các dịch vụ hỗ trợ thương mại quốc tế, chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá; cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa khách hàng với nhau và các hoạt động ngân hàng khác được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận. Các mốc thời điểm quan trọng 1993: Ngân hàng TMCP Nông thôn An Bình được thành lập theo Giấy phép số 535/NH- GP ngày 13 tháng 05 năm 1993 do UBND Tp. Hồ Chí Minh cấp. Trụ sở của Ngân hàng đặt tại 138 Hùng Vương, thị trấn An Lạc, huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh. Theo Giấy phép hoạt động số 0031/NH-GP ngày 15/04/1993 do Thống đốc NHNN Việt Nam cấp, Ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động. 2002: Ðể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trong nền kinh tế ngày càng phát triển cũng như với mong muốn Ngân hàng ngày càng phát triển, bắt đầu từ tháng 3 năm 2002, Ngân hàng tiến hành cải cách mạnh mẽ về cơ cấu và nhân sự để tập trung vào chuyên ngành kinh doanh ngân hàng Thương mại và ngân hàng Đầu tư. 2005: Ngân hàng thực hiện chuyển đổi mô hình hoạt động từ Ngân hàng Nông thôn thành Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đô thị. Sự tham gia với tư cách là Cổ đông chiến lược của Tổng Công ty Điện lực Việt Nam mang lại thế và lực mới cho sự phát triển của ABBANK. Hoàn thành việc xây dựng Chiến lược phát triển ABBANK và bắt đầu thực hiện điều hành, quản lý ABBANK theo chiến lược đã hoạch định: trong đó nổi bật là việc định hướng phát triển ABBANK trở thành một ngân hàng hiện đại, hoạt động theo các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. 2006: Mở rộng mạng lưới và triển khai nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Ngày 07/11/2006: phát hành thành công 1,000 tỷ Trái phiếu VNĐ của EVN cùng với Deustche Bank và VinaCapital. Tháng 12/2006: ký hợp đồng triển khai phần mềm lõi ngân hàng mới (core banking solutions) với Temenos Singapore Pte. Ltd. và khai trương Trung tâm thanh toán quốc tế tại Hà nội. 2007: Tháng 1/2007, tạp chí Asia Money bình chọn ABBANK là nhà phát hành Trái phiếu công ty bản tệ tốt nhất châu Á. Tháng 3/2007, ABBANK ký hợp đồng liên kết chiến lược với AGRIBANK. Tháng 4/2007, ABBANK trở thành thành viên của mạng thanh toán PAYNET. Tháng 12/2007, ABBANK khai trương 10 điểm giao dịch mới, nâng tổng số các điểm giao dịch lên tới 55 điểm tại 12 tỉnh thành trên toàn quốc. Các mốc tăng trưởng vốn điều lệ: NĂM VỐN ĐIỀU LỆ (Triệu đồng) TỶ LỆ TĂNG VỐN ĐIỀU LỆ (%) 1993 1,000 1998 1,200 120.00 2001 5,000 416.67 2003 36,104 722.08 2004 70,044 194.01 2005 165,000 235.57 2006 1,131,000 685.45 2007 2,300,000 103.34 (Nguồn: ABBank) Mục tiêu đến năm 2010, tăng vốn điều lệ lên 20.000 tỷ đồng và là một trong ba ngân hàng cổ phẩn lớn và tốt nhất của Việt Nam về tiềm lực tài chính, mạng lưới các điểm giao dịch, quy mô và kết quả hoạt động, uy tín của thương hiệu và chất lượng phục vụ. Sơ đồ tổ chức KHỐI KH CÁ NHÂN KHỐI KH DOANH NGHIỆP KHỐI KH ĐIỆN LỰC KHỐI NGUỒN VỐN TRUNG TÂM THẺ PHÒNG ĐẦU TƯ TRUNG TÂM CNTT TRUNG TÂM TTQT ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG BAN KIỂM SOÁT HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN THƯ KÝ HĐQT BAN TỔNG GIÁM ĐỐC KHỐI NHÂN SỰ KHỐI HỖ TRỢ PHÁP LÝ KHỐI QUẢN TRỊ RỦI RO KHỐI PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI PHÒNG KẾ TOÁN PHÒNG THANH TOÁN & QL TIỀN TỆ PHÒNG HÀNH CHÍNH PHÒNG KIỂM TRA NỘI BỘ KHỐI MARKETING Đại hội đồng cổ đông Đại hội đòng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của ABBANK. Đại hội đồng cổ đông quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn được Luật pháp và Điều lệ ABBANK quy định. Hội đồng quản trị Hội đồng quản trị là cơ quan quản trị Ngân hàng, có toàn quyền nhân danh ABBANK để quyết dịnh các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Ban Kiểm soát Ban kiểm soát là cơ quan kiểm tra hoạt động tài chính của ABBANK, giám sát việc chấp hành chế độ hách toán, hoạt động của hệ thống kiểm tra và kiểm toán nội bộ của ABBANK. Tổng giám đốc Tổng giám đốc là người chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước pháp luật về việc điều hành hoạt động hàng ngày của ABBANK. Giúp việc cho Tổng giám đốc có các Phó Tổng giám đốc và các bộ máy chuyên môn nghiệp vụ. Phòng nguồn vốn Thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn dưới nhiều hình thức: kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, sổ tiết kiệm,… của cá nhân và các tổ chức kinh tế. Là nguồn cung cấp vốn chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động ngân hàng. Phòng kế toán Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến quá trình thanh toán thu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33191.doc
Tài liệu liên quan