MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .4
DANH MỤC BẢNG BIỂU 5
LỜI MỞ ĐẦU 7
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO VIỆC LÀM 9
I. Một số khái niệm cơ bản và những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm. 9
1. Một số khái niệm cơ bản. 9
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm. 12
II. Một số mô hình lý thuyết tạo việc làm. 16
1. Mô hình lựa chọn công nghệ phù hợp, khuyến khích giá, tạo việc làm. 16
2. Mô hình phát triển của Lewis. 17
3. Mô hình thu nhập dự kiến về sự di cư nông thôn – thành thị.(Harris-Todaro) 17
III. Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động. 18
1. Đối với xã hội. 18
2. Đối với doanh nghiệp. 19
3. Đối với người lao động. 19
IV. Kinh nghiệm của một số nước châu Á trong vấn đề tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất. 21
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc. 21
2. Kinh nghiệm của Thái Lan. 22
3. Kinh nghiệm của Nhật Bản. 23
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TẠO VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM 24
I. Đặc điểm huyện Gia Lâm. 24
1. Điều kiện tự nhiên. 24
2. Đặc điểm kinh tế, xã hội. 28
3. Đặc điểm dân số, lao động. 30
II. Phân tích thực trạng tạo việc làm cho nông dân sau khi bị thu hồi đất. 37
1. Số lượng. 37
2. Cơ cấu việc làm mới. 38
III. Hiệu quả của tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp. 49
1. Hiệu quả đạt được. 50
2. Hạn chế. 52
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM 60
I. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của huyện trong thời gian tới. 60
1. Kinh tế. 60
2. Dân số, lao động, việc làm. 60
II. Những giải pháp chủ yếu. 61
1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo nghề. 61
2. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống trên địa bàn huyện. 63
3. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. 68
4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn. 70
5. Tăng cường hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động. 72
6. Khuyến khích nông dân tự tạo việc làm. 72
7. Hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất. 73
8. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX. 74
III. Một số kiến nghị trong vấn đề tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất. 76
1. Đối với thành phố Hà Nội. 76
2. Đối với chính quyền địa phương. 77
KẾT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
MỘT SỐ TRANG WEB 80
80 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4649 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Gia Lâm - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lao động trong các hộ bị thu hồi đất nông nghiệp: Theo bảng 4, việc thu hồi đất nông nghiệp trong những năm gần đây ở huyện đã gây ảnh hưởng đến 5.548 hộ dân với 11.851 người trong độ tuổi lao động. Trong đó, số người trong độ tuổi lao động cần giải quyết việc làm là 4.293 người bằng 36,22 % tổng số người trong độ tuổi lao động. Đặc điểm của những lao động này là:
+ Về tuổi: 1.844 người trong nhóm 15-30 tuổi chiếm 42,95%; 1.468 người trong độ tuổi từ 30-45 chiếm 34,2%; còn lại 981 người trong nhóm 45-60 tuổi chiếm 22,85%. Đây là những lao động trẻ, phần lớn trong độ tuổi sung sức, lại là lao động chính trong gia đình.
+ Về giới tính: số nam và nữ tương đương nhau, không có sự chênh lệch lớn. Số nam là 2.169 chiếm 50,52%, số nữ là 2.124 chiếm 49,48%. Số nam nhiều hơn số nữ sẽ ảnh hưởng đến vấn đề tạo việc làm sau này.
+ Về trình độ văn hoá: 1.797 người tốt nghiệp tiểu học ( 41,85%); 1.466 người tốt nghiệp trung học cơ sở ( 34,15%); 1.030 người tốt nghiệp PTTH (24%). Nhìn chung, trình độ văn hóa của những lao động cần giải quyết việc làm thuộc những hộ mất đất còn thấp. Số người tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở chủ yếu nằm trong nhóm 30-45 tuổi và 45-60 tuổi.
+ Về nghề nghiệp: Trước khi bị thu hồi đất, những lao động này làm ruộng và chăn nuôi. Trồng lúa vẫn là công việc chiếm tỷ trọng thời gian cao nhất, trung bình một lao động dành khoảng 75% thời gian để làm việc trên ruộng lúa, 7% dành cho trồng trọt các loại cây hoa màu khác, 21% dành cho chăn nuôi. Ngoài thời vụ, phần lớn họ chuyển sang các lao động phổ thông khác như gia công thêm một số mặt hàng thủ công truyền thống; bán buôn, bán lẻ các mặt hàng rau quả, lương thực, thực phẩm; chuyên chở vật liệu xây dựng, phụ việc ở các công trình xây dựng… Sau khi mất đất, đa số lao động không có việc làm, nếu có thì chỉ là những công việc tạm thời thu nhập không cao, không ổn định, cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Do đó, họ rất cần những chính sách, biện pháp từ phía chính quyền các xã, thị trấn; chính quyền huyện và thành phố để có thể có việc làm mới, ổn định cuộc sống.
Bảng 7. Số người trong độ tuổi lao động bị thu hồi đất nông nghiệp cần giải quyết việc làm.
STT
Xã - thị trấn
Tổng số
(người)
Tiêu chí đánh giá
Tuổi
Giới
Trình độ văn hoá
15-30
30-45
45-60
Nam
Nữ
Tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp trung học cơ sở
Tốt nghiệp PTTH
1
Cổ Bi
364
180
127
57
202
162
149
118
97
2
Ninh Hiệp
270
82
105
83
143
127
113
92
65
3
Dương Xá
302
166
80
56
145
157
126
104
72
4
Lệ Chi
321
145
96
80
167
154
132
112
77
5
Đặng Xá
827
372
289
166
426
401
347
287
193
6
Trung Mầu
480
192
178
110
236
244
206
153
121
7
Phú Thị
420
155
121
144
201
219
176
142
102
8
Kiêu Kỵ
470
211
178
81
228
242
188
167
115
9
Phù Đổng
160
72
56
32
84
76
68
54
38
10
Yên Thường
150
64
55
31
73
77
62
49
39
11
Bát Tràng
208
83
58
67
107
101
89
73
46
12
Trâu Quỳ
321
122
125
74
157
164
141
115
65
Cộng
4.293
1.844
1.468
981
2.169
2.124
1.797
1.466
1.030
Nguồn: UBND huyện Gia Lâm, Phòng lao động, thương binh và xã hội: Kết quả tổng hợp nhu cầu việc làm và nhu cầu học nghề của lao động nông thôn vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất huyện Gia Lâm.
II. Phân tích thực trạng tạo việc làm cho nông dân sau khi bị thu hồi đất.
Trước tình trạng đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, người nông dân không có việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn. Chính quyền huyện Gia Lâm đã phối hợp với chính quyền các xã, thôn; các doanh nghiệp cùng với người dân thuộc diện bị thu hồi đất giải quyết vấn đề này. Trong những năm qua, huyện Gia Lâm đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp. Bước đầu đã đạt được một số kết quả như sau:
1. Số lượng.
- Số người có việc làm mới sau khi bị thu hồi đất là 2.746 người bằng 63,96% số người trong độ tuổi lao động có nhu cầu tìm việc làm. Bình quân mỗi xã có 229 lao động được giải quyết việc làm. Trong đó số người có công việc ổn định là 2.216 người bằng 80,7%; công việc tạm thời là 530 người bằng 19,3%.
Bảng 8. Kết quả giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở huyện Gia Lâm.
Đơn vị: người.
STT
Xã - thị trấn
Kết quả giải quyết việc làm
Tổng số
Công việc ổn định
Công việc tạm thời
khu vực nhà nước
XKLĐ
khu vực ngoài nhà nước
HTX
Công ty TNHH
Công ty LD
1
Cổ Bi
218
22
7
30
102
28
29
2
Ninh Hiệp
180
0
0
5
143
0
32
3
Dương Xá
213
42
4
64
25
17
61
4
Lệ Chi
142
0
5
28
71
15
23
5
Đặng Xá
425
38
8
108
171
43
57
6
Trung Mầu
279
0
0
80
70
67
62
7
Phú Thị
278
0
0
67
77
70
64
8
Kiêu Kỵ
350
17
20
52
89
96
76
9
Phù Đổng
126
37
1
22
32
30
4
10
Yên Thường
115
35
0
20
30
15
15
11
Bát Tràng
153
0
0
45
50
15
43
12
TT Trâu Quỳ
267
28
4
0
69
102
64
Cộng
2.746
219
49
521
929
498
530
Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm. Kết quả giải quyết việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở huyện Gia Lâm.
2. Cơ cấu việc làm mới.
2.1. Cơ cấu theo tuổi và giới tính.
2.1.1. Cơ cấu theo tuổi.
Do đặc điểm lao động trong những hộ bị thu hồi đất chủ yếu thuộc nhóm từ 15-30 tuổi và từ 30-45 tuổi, nên huyện cũng đã tập trung giải quyết việc làm cho nhóm đối tượng này.
Bảng 9. Kết quả giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất theo tuổi.
STT
Tuổi
số người
Tỷ lệ (%)
1
15-19
328
11,94
2
20-29
755
27,49
3
30-39
717
26,11
4
40-49
516
18,79
5
50-60
430
15,67
6
Tổng cộng
2.746
100
Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm: Kết quả điều tra lao động có nghề trên địa bàn huyện Gia Lâm.
Nhìn vào bảng 9, nhóm tuổi được tạo nhiều việc làm là nhóm từ 20 đến 39 tuổi với 1800 người, chiếm 65,54%. Ở nhóm tuổi này, khả năng tiếp thu kiến thức khoa học kỹ thuật vẫn còn khá cao. Cho nên đào tạo nghề cho nhóm lao động này sẽ đem lại hiệu quả. UBND huyện đã tổ chức thực hiện chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Từ năm 2006 đến 2008 trung tâm dạy nghề của huyện đã có 876 lao động được đào tạo nghề như: may công nghiệp, nấu ăn, cơ khí, hàn, sửa chữa xe máy, điện dân dụng…Trong đó:
Nghề may: 95 người.
Nghề sửa chữa xe máy: 274 người.
Nghề nấu ăn : 219 người.
Nghề cơ khí : 288 người.
Bảng 10. Tổng hợp kết quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất huyện Gia Lâm.
STT
Xã - thị trấn
Nghề đào tạo
Hình thức đào tạo
Nghề may
Sửa chữa xe máy
Cơ khí
Nấu ăn
Ngắn hạn
Dài hạn
1
Cổ Bi
6
17
19
15
39
18
2
Ninh Hiệp
0
0
0
0
0
0
3
Dương Xá
8
22
23
15
46
21
4
Lệ Chi
11
30
32
30
71
32
5
Đặng Xá
11
30
32
25
71
29
6
Trung Mầu
11
30
32
25
71
29
7
Phú Thị
11
35
36
25
75
32
8
Kiêu Kỵ
6
13
16
10
32
14
9
Phù Đổng
11
35
36
25
75
32
10
Yên Thường
8
22
23
20
50
21
11
Bát Tràng
4
13
13
10
28
11
12
TT Trâu Quỳ
8
27
26
19
57
22
Cộng
95
274
288
219
615
261
Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm: Kết quả điều tra lao động có nghề trên địa bàn huyện Gia Lâm.
Hình thức đào tạo có thể là ngắn hạn hoặc dài hạn. Trong số 876 người được đào tạo, có 615 người đào tạo theo hình thức ngắn hạn chiếm 70,2%; 261 người đào tạo dài hạn chiếm 29,8%. Những nghề này cũng gắn liền với nhu cầu của lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đồng thời gắn liền với sản xuất của doanh nghiệp tại các khu công nghiệp. Trong quá trình đào tạo, Chính quyền huyện đã hỗ trợ trực tiếp cho người lao động nông nghiệp tham gia đào tạo nghề với thời gian và mức kinh phí hỗ trợ như sau:
Bảng 11. Thời gian hỗ trợ kinh phí và mức kinh phí hỗ trợ dạy nghề.
STT
Nghề đào tạo
Thời gian hỗ trợ ( tháng)
Kinh phí hỗ trợ (đồng/học viên/khoá học)
1
Nghề may
5
1.500.000
2
Nghề sửa chữa xe máy
5
1.500.000
3
Nghề nấu ăn
5
1.500.000
4
Nghề cơ khí
5
1.500.000
Nguồn: Phụ lục: Thời gian hỗ trợ kinh phí và mức kinh phí hỗ trợ dạy nghề theo nghề ( Kèm theo Quyết định số 3486/QĐ-UBND ngày 05/09/2007 của UBND thành phố Hà Nội).
Mức hỗ trợ cho mỗi học viên là 300.000 đồng/học viên/tháng. Sau khi học nghề, bồi dưỡng tay nghề, nhiều người đã tự tạo được việc làm, lập cơ sở sản xuất, hoặc vào làm trong các khu công nghiệp.
Mặt khác, các doanh nghiệp được phép xây dựng trên diện tích đất bị thu hồi cũng đã có cam kết ưu tiên cho con em những hộ dân có đất bị thu hồi vào làm trong doanh nghiệp. Mặt hàng sản xuất của doanh nghiệp chủ yếu là đòi hỏi phải có sức khoẻ như sản xuất bao bì, lắp ráp xe máy, may da, sản xuất gốm sứ…nên việc làm tạo ra cho nhóm đối tượng từ 15-39 tuổi nhiều hơn.
Trong khi đó, nhóm từ 40 tuổi trở lên, việc làm tạo ra giảm dần với 946 lao động bằng 34,45%. Do khả năng tiếp thu giảm dần theo tuổi tác, nên việc học nghề hay vào làm trong các khu công nghiệp gặp nhiều khó khăn. Đây chủ yếu là những lao động thuần nông, trình độ văn hoá không cao. Ngoài làm ruộng, họ không đáp ứng được những công việc yêu cầu trình độ cao. Để giải quyết việc làm cho những người này, chính quyền các cấp đã tiến hành một số biện pháp như: đưa nhóm đối tượng này vào các HTX nông nghiệp (521 người), tạo điều kiện cho họ được làm việc trong các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, cấp một phần đất sát với khu công nghiệp để người dân có thể tổ chức các hoạt động dịch vụ như buôn bán hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày, dịch vụ ăn uống, sửa chữa phương tiện…Ngoài ra, họ đã được tham dự lớp đào tạo nghề nông; được học các phương pháp trồng rau an toàn, nuôi thuỷ sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm, công tác thú y và trồng cây ăn quả góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm do bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho xây dựng công trình giao thông và khu công nghiệp.
2.1.2. Cơ cấu theo giới tính.
Bảng 7, số nam có nhu cầu giải quyết việc làm là 2.169 người, số nữ là 2.124 người. Số lao động nam có việc làm mới là 1.829 người chiếm 66,6%; số lao động nữ là 917 người chiếm 33,4%. Số lao động nữ được giải quyết việc làm còn khá ít. Đây là một thực trạng đáng buồn. Vì hiện nay lao động nữ ở nông thôn nói chung và lao động nữ thuộc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp nói riêng có trình độ học vấn thấp. Do tâm lý cha mẹ vẫn còn nếp suy nghĩ cũ “ con gái học nhiều cũng chẳng nên cơm cháo gì”. Điều này khiến cho lao động nữ nông thôn rơi vào tình trạng khó tìm việc khi ruộng đất bị thu hẹp. Mặt khác, các trường cao đẳng, trung cấp nghề lại chỉ tập trung đào tạo các ngành: cắt gọt kim loại, hàn, điện lạnh, cơ khí…lại không phù hợp với lao động nữ. Một số trường có khoa thiết kế thời trang hay may mặc, nữ chiếm đa số nhưng chỉ tiêu tuyển sinh lại ít hơn các ngành khác. Hiện nay, trong thời kỳ suy thoái kinh tế, ngành may mặc cũng đang bị cắt giảm hoặc thiếu việc làm trầm trọng. Do đó, việc làm cho lao động nữ đang gặp nhiều khó khăn.
2.2. Cơ cấu theo ngành kinh tế.
Bảng 12. Kết quả giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp ở huyện Gia Lâm theo ngành kinh tế.
Đơn vị: người.
STT
Xã- thị trấn
Tổng số
Ngành kinh tế
Công nghiệp
Nông nghiệp
Dịch vụ
1
Cổ Bi
218
150
30
38
2
Ninh Hiệp
180
67
27
86
3
Dương Xá
213
54
85
74
4
Lệ Chi
142
82
30
30
5
Đặng Xá
425
106
164
155
6
Trung Mầu
279
87
174
18
7
Phú Thị
278
112
136
30
8
Kiêu Kỵ
350
281
33
36
9
Phù Đổng
126
34
57
35
10
Yên Thường
115
55
37
23
11
Bát Tràng
153
68
0
85
12
TT Trâu Quỳ
267
168
41
58
Cộng
2.746
1.264
814
668
Nguồn: Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện Gia Lâm. Kết quả giải quyết việc làm cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở huyện Gia Lâm.
Với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành CN-XDCB và dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, việc giải quyết việc làm cho những lao động thuộc diện bị thu hồi đất được tiến hành theo hướng này. Cụ thể như sau:
Khu vực công nghiệp, xây dựng: 1.246 người chiếm 46,03%.
Khu vực nông nghiệp : 814 người chiếm 29,64%.
Khu vực dịch vụ : 668 người chiếm 24,33%.
Hình 1. Cơ cấu việc làm mới theo ngành kinh tế.
Ta thấy, sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp thì cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch. Số người làm trong khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng lên, số người làm trong khu vực nông nghiệp giảm đi. Điều này cũng phù hợp với thực tế. Vì sau khi bị thu hồi đất, nhiều hộ nông dân không còn đất để canh tác, trong khi họ vẫn phải đảm bảo những nhu cầu tối thiểu như ăn ở, mặc, đi lại. Cho nên họ cần tìm một công việc mới để kiếm sống. 80% diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi được sử dụng vào mục đích xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp, cụm làng nghề. Trên địa bàn huyện hiện có một số khu công nghiệp và cụm công nghiệp như cụm công nghiệp nhỏ và vừa Phú Thị, khu công nghiệp Dương Xá, khu công nghiệp Ninh Hiệp… với 118 doanh nghiệp đã hoạt động thu hút một lượng lớn lao động thuộc diện bị thu hồi đất nông nghiệp. Làm công nhân trong khu công nghiệp là hình thức chủ yếu, một số khác xin vào làm trong các xưởng sản xuất gốm sứ, hay may da. Bên cạnh sự giúp đỡ và hỗ trợ từ phía UBND huyện và chính quyền các xã, thôn, có nhiều hộ dân bị mất đất đã chủ động tìm lối ra, tự tạo công ăn việc làm. Họ dùng tiền đền bù nhận được mua sắm phương tiện như xe máy để chạy xe ôm, chở vật liệu xây dựng, chở hàng. Nghề này đơn giản, không yêu cầu chi phí cao, không yêu cầu tay nghề, trình độ kỹ thuật, phù hợp với những người trung tuổi ( 30-45 tuổi). Ngoài ra, một số hộ chuyển sang kinh doanh buôn bán. Chủ yếu kinh doanh ăn uống, buôn bán hàng tạp hóa, vật liệu xây dựng, kinh doanh Internet, cho thuê nhà trọ…Số khác được hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi như: tận dụng diện tích mặt nước để nuôi cá, xây dựng trang trại chăn nuôi bò sữa, nuôi lợn thịt; quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn…góp phần tạo việc làm cho 814 người.
2.3. Cơ cấu theo thành phần kinh tế.
Khu vực nhà nước: 219 lao động chiếm 7,97%.
HTX: 521 lao động chiếm 18,97%.
Công ty TNHH: 929 lao động chiếm 33,83%.
Công ty liên doanh: 498 lao động chiếm 18,13%.
Hình 2. Số lượng việc làm mới theo thành phần kinh tế.
Để vào được khu vực nhà nước làm việc cần có trình độ cao, đòi hỏi bằng cấp nên khu vực này chỉ thu hút 219 lao động. Khu vực ngoài nhà nước thu hút được nhiều lao động hơn với 70,93%. Trong đó công ty TNHH chiếm 33,83%, công ty liên doanh là 18,13%, HTX là 18,97%. Đó là do mặt bằng trình độ của lao động thuộc hộ bị thu hồi đất không cao, mà yêu cầu của các công ty khi tuyển dụng lao động lại không quá khắt khe. Cho nên người dân đi xin việc ở khu vực ngoài nhà nước dễ dàng hơn.
2.4. Cơ cấu theo trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Với mặt bằng trình độ không cao của lao động thuộc diện bị thu hồi đất, thì số chỗ việc làm mới được tạo ra vẫn sử dụng nhiều lao động phổ thông, chưa qua đào tạo 2.113 người chiếm 76,95%; công việc đòi hỏi trình độ cao đẳng, đại học là 68 người tương ứng 2,47%; trung học chuyên nghiệp là 243 người tương ứng 8,85%; công nhân kỹ thuật không có bằng là 322 người tương ứng 11,73%. Ngay cả những doanh nghiệp, công ty TNHH khi tuyển dụng họ cũng không đòi hỏi tay nghề cao. Với trình độ trung học chuyên nghiệp hoặc công nhân kỹ thuật là có thể tìm được việc trong khu công nghiệp, có trường hợp chỉ xét trình độ văn hóa tốt nghiệp cấp 3, thậm chí cả những lao động học hết cấp 2 không thi đỗ vào cấp 3 vẫn được tuyển vào làm. Còn những công việc đòi hỏi trình độ cao đẳng, đại học chủ yếu thuộc bộ phận quản lý, bộ phận kế toán trong công ty nên chỉ có 2,47% số lao động đáp ứng yêu cầu này.
Hình 3. Cơ cấu việc làm mới theo trình độ chuyên môn kỹ thuật.
2.5. Cơ cấu theo xã.
Vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất cũng cần xem xét điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của từng xã. Trong 12 xã-thị trấn bị thu hồi đất, 2 xã có làng nghề là xã Bát Tràng và xã Kiêu Kỵ; thị trấn Trâu Quỳ có diện tích đất bị thu hồi phục vụ cho những công trình công cộng của nhà nước; 9 xã còn lại diện tích đất thu hồi nhằm xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị. Do đó, giải quyết việc làm cho nông của từng xã cũng khác nhau.
Với các xã có làng nghề truyền thống như Bát Tràng, Ninh Hiệp, Kiêu Kỵ người lao động cùng chính quyền xã chủ động, phối hợp với các hộ gia đình, các doanh nghiệp kinh doanh nhận lao động bị thu hồi đất vào làm việc. Vì ở Bát Tràng mỗi ngày thu hút trên 10.000 lao động thời vụ; Kiêu Kỵ thu hút 1.035 lao động chuyên và 3.106 lao động thời vụ; góp phần giải quyết việc làm cho 507 lao động mất đất.
Riêng thị trấn Trâu Quỳ, diện tích đất bị thu hồi được sử dụng vào mục đích công cộng và lợi ích quốc gia, không sử dụng vào việc xây dựng khu công nghiệp nên xu hướng chung của các hộ dân là chuyển sang công việc buôn bán. Ở Trâu Quỳ có quốc lộ 5A chạy qua, có trường đại học Nông nghiệp I, trường Tư thục Lê Quý Đôn nên các hộ sau khi mất đất có điều kiện kinh doanh các loại hình dịch vụ như: buôn bán hàng tạp hoá, văn phòng phẩm, hàng ăn uống, dịch vụ Internet, sửa chữa xe máy, bán vật liệu xây dựng, kinh doanh nhà trọ…thu nhập khá cao và ổn định. Ngoài ra, một số hộ xin cho con em mình đi làm tại khu công nghiệp hay các nhà máy gần đó như: khu công nghiệp Sài Đồng B, công ty may 10, công ty may Đức Giang, công ty kim khí Thăng Long…giải quyết việc làm cho 168 lao động. Trong đó có 110 lao động nữ, 58 lao động nam.
Với các xã có dự án xây dựng khu công nghiệp, hướng giải quyết việc làm cho lao động thuộc hộ bị thu hồi đất là làm công nhân trong khu công nghiệp. 60% lao động làm công nhân; 30% số hộ chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi như sản xuất rau an toàn ở Đặng Xá, Lệ Chi; vùng trồng hoa, cây giống, cây cảnh ở Trung Mầu; vùng chăn nuôi bò sữa ở Trung Mầu, Phù Đổng; chăn nuôi bò thịt ở Lệ Chi; chăn nuôi lợn nạc ở Yên Thường, Ninh Hiệp, Trung Mầu, Dương Xá, Đặng Xá, Phú Thị; vùng nuôi trồng thuỷ sản ở Yên Thường, Phú Thị, Lệ Chi…10% số hộ chuyển sang kinh doanh nhà trọ và buôn bán nhỏ.
Hình 4. Số lượng việc làm mới theo xã.
III. Hiệu quả của tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp.
Hiệu quả của tạo việc làm là tạo ra chỗ việc làm mới cho người lao động có thể xét trên nhiều góc độ: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả tinh thần. Xét hiệu quả kinh tế của tạo việc làm thường dựa vào số chỗ việc làm mới được tạo ra trong tổng số chi phí bỏ ra để tạo việc làm, chi phí bình quân tạo một chỗ việc làm mới.
Chi phí bình quân tạo một chỗ làm việc hay còn gọi là mức đầu tư cho một chỗ làm việc là chỉ tiêu phản ánh số lượng tiền vốn đầu tư để tạo một chỗ làm việc mới. Chi phí tạo một chỗ làm việc mới = Tổng số vốn đầu tư/ tổng số lao động được thu hút hay tổng số chỗ làm việc mới được tạo ra. Theo chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất huyện Gia Lâm, kinh phí đào tạo bao gồm kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là 1.500.000 đồng/người/khoá ( 1 khoá học = 5 tháng) và từ nguồn học viên đóng 40.000 đồng/người/tháng nghĩa là 200.000 đồng/người/khoá. Chi phí bình quân để tạo ra một chỗ làm việc mới là 1.700.000 đồng/người. Nếu xét theo chi phí đào tạo như trên thì đầu tư tạo việc làm qua chương trình vốn vay quỹ hỗ trợ quốc gia hỗ trợ việc làm có hiệu quả. Vì với chi phí vốn vay thấp nhưng tạo ra được nhiều chỗ việc làm. Tuy nhiên, với cách quản lý vốn đào tạo như hiện nay là nhà nước rót vốn cho cơ sở đào tạo, ngoài việc trả kinh phí cho giảng viên, nông dân dự khoá đào tạo được hỗ trợ tiền ăn ở khi học thì thực tế nhiều khóa học do kinh phí hạn hẹp nên học ít khai nhiều, ít có thông tin phản hồi giữa người học nghề với cơ sở đào tạo nghề để đánh giá hiệu quả. Dưới đây là một số hiệu quả đạt được và những hạn chế trong vấn đề tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất của huyện Gia Lâm:
1.Hiệu quả đạt được.
Gia Lâm là một huyện ngoại thành có tốc độ phát triển kinh tế tương đối cao của thành phố. Trong những năm gần đây, huyện đã được thành phố quan tâm tạo mọi điều kiện trong phát triển kinh tế thương mại, dịch vụ như: xây dựng hệ thống đường giao thông, xây dựng các khu vui chơi, giải trí, xây dựng siêu thị, tu bổ lại các chợ….nên đời sống tinh thần và vật chất của người dân không ngừng nâng cao. Mặc dù việc thu hồi đất nông nghiệp đã làm cho một bộ phận lớn nông dân không có việc làm, đời sống gặp khó khăn. Song nhờ sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và người nông dân, đã giải quyết việc làm cho nhiều hộ nông dân bị mất đất canh tác. Điều này đã đem lại một số hiệu quả sau:
Thứ nhất, tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp là tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho họ. Như thực tế hiện nay, 1 sào ruộng người dân cấy 2 vụ lúa, chăm sóc tốt mỗi năm cũng chỉ thu được 1,6 triệu đồng. Nhưng sau khi bị thu hồi đất, người dân được đền bù một khoản tiền lớn, bằng 40 năm trồng lúa. Còn đối với những người có việc làm mới, thu nhập cũng tăng lên đáng kể. Công nhân may lương tháng 1,2 triệu đồng/người/tháng; công nhân cơ khí là 1,6 triệu đồng/người/tháng. Với những hộ kinh doanh, buôn bán thu nhập bình quân 3 triệu đồng/tháng tăng 40% so với trước khi thu hồi đất. Xu hướng thu nhập từ hoạt động nông nghiệp giảm dần, thu nhập từ hoạt động phi nông nghiệp tăng lên, bình quân 37,45 triệu đồng/hộ/năm. Từ đó, người dân có điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giảm dần sự cách biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa nam và nữ, giữa thành thị và nông thôn, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo.
Thứ hai là góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng tỷ trọng ngành công nghiệp- xây dựng cơ bản, dịch vụ; giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp: công nghiệp-xây dựng cơ bản là 55,3%; thương mại-dịch vụ là 26,33%; nông nghiệp là 18,37%. Tốc độ phát triển kinh tế của huyện bình quân 14%/năm. Trong đó, công nghiệp-xây dựng cơ bản tăng 17%/năm; thương mại-dịch vụ tăng 15%/năm; nông nghiệp tăng 3,5-4%/năm.
Thứ ba, về mặt tinh thần: Có việc làm người nông dân cảm thấy vui vẻ, thoải mái, bớt lo âu, có niềm tin đối với xã hội.
Thứ tư là góp phần xoá đói, giảm nghèo và giảm tệ nạn xã hội. Trên địa bàn huyện, số hộ nghèo giảm 626 hộ, số hộ cận nghèo giảm 661 hộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 2,3%; không có điểm, tụ điểm mại dâm công cộng; số người nghiện ma tuý giảm 74 người.
Thứ năm, thay đổi bộ mặt nông thôn. Với thu nhập cao hơn từ công việc mới và số tiền được đền bù, những ngôi nhà cao tầng mọc lên ngày càng nhiều tại các thôn, xã thay thế cho những ngôi nhà ngói, nhà tranh. Điện đã về tận các hộ gia đình, đường làng, ngõ xóm được mở rộng, làm mới; 100% đường liên thôn, xã được bê tông hoá; trạm y tế xã, trường học trên địa bàn cũng được sửa sang, xây mới, trang bị nhiều máy móc, đồ dùng phục vụ cho việc giảng dạy. Các sản phẩm công nghiệp, những tiện nghi mà người nông dân mơ ước đã thâm nhập vào mỗi gia đình như xe máy, tivi, tủ lạnh, nồi cơm điện, quạt điện, máy điều hoà nhiệt độ… Họ được tiếp cận với tri thức mới, văn hoá mới, hiện đại hơn, tiến bộ hơn. Nông thôn ngày nay đã mang một diện mạo khác hẳn vài chục năm trước. Phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đồng nghĩa với việc làm cho cuộc sống của người nông dân tốt hơn, nâng cao hơn. Muốn vậy phải tạo việc làm cho họ. Chứ không phải lấy đất xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị rồi để mặc hàng vạn nông dân tự tìm lối ra.
2.Hạn chế.
2.1. Số lượng việc làm tạo ra còn ít, chất lượng việc làm chưa cao.
Số lượng việc làm mới tạo ra mới chỉ đạt 63,96% so với nhu cầu cần giải quyết việc làm. Trong đó, 76.95% là công việc đòi hỏi trình độ lao động phổ thông, chỉ có 2,47% cần trình độ cao đẳng, đại học. Thực trạng này xảy ra là do những nguyên nhân sau đây:
Một là, công tác đào tạo nghề còn nhiều bất cập.
Mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu, nhưng thực tế cho thấy việc triển khai nhiệm vụ dạy nghề cho nông dân ở khu vực bị thu hồi đất những năm qua vẫn còn nhiều bất cập.
- Ngành nghề đào tạo chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu của người học nghề. Chỉ tiêu đào tạo những nghề phù hợp với lao động nữ ít hơn so với những nghề dành cho lao động nam, trong khi nhu cầu giải quyết việc làm của lao động nữ lại khá cao.
- Các trung tâm dạy nghề vẫn bị động trong việc tìm kiếm thông tin cần thiết để điều chỉnh những nội dung giảng dạy cho phù hợp với nhu cầu của nhiều đối tượng sử dụng lao động khác nhau. Trang thiết bị của trường dạy nghề thì lạc hậu, giáo viên cần đào tạo lại.
- Trong số lao động được học nghề thì do nhiều nguyên nhân khác nhau nên học viên nghỉ học, bỏ tiết gây khó khăn cho các cơ sở dạy nghề trong việc quản lý lớp. Một trong những nguyên nhân khiến nông dân không mặn mà với chuyện học nghề là họ chưa quen với những việc cần phải suy nghĩ, học các kiến thức mới.
- Vẫn còn tình trạng học viên sau khi tốt nghiệp các khoá đào tạo nhưng trình độ tay nghề không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động nên không có việc làm hoặc việc làm không đúng nghề được đào tạo, thu nhập thấp. Điều này được lý giải là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở dạy nghề với nhà tuyển dụng. Các doanh nghiệp chưa quan tâm đầu t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111186.doc