Luận văn Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng nhằm phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm

Cũng giống như tiền gửi dân cư, hình thức huy động vốn bằng con đường tiền gửi doanh nghiệp trong năm 2001 tăng về số tuyệt đối nhưng giảm về số tương đối so với năm 2000, nguyên nhân chính là là do tổng nguồn vốn huy động trong năm 2001 đã tăng lên. Chính vì vậy, mặc dù tiền tỷ lệ tiền gửi doanh nghiệp năm 2001 so với cơ cấu huy động vốn giảm nhưng về số tuyệt đối thì tăng lên 89.823 triệu đồng (hay 30,785) so với năm 2000. Tuy nhiên trong năm 2002, hình thức huy động vốn bằng con đường tiền gửi doanh nghiệp lại tăng lên rất mạnh mẽ cả về số tuyệt đối và số tương đối, cụ thể: tăng 1.193.103 triệu đồng (hay 312,6%). Điều này chứng tỏ quy mô của nguồn vốn này trong tổng nguồn vốn ngày càng tăng lên, cho thấy các khách hàng là các doanh nghiệp hay các tổ chức kinh tế đã tham gia mở tài khoản và thực hiện giao dịch với ngân hàng nhiều hơn, họ đã thấy được tiện ích của việc thanh toán qua ngân hàng và ngày càng tin tưởng vào các dịch vụ mà ngân hàng công thương Hoàn Kiếm cung cấp, từ đó hình ảnh ngân hàng trong con mắt các nhà doanh nghiệp cũng ngày càng được cải thiện hơn.

 

doc95 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1092 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng nhằm phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o. Thực tế trên đang ngày càng thu hẹp ”khe hở” vốn đã rất nhỏ bé giữa lãi suất cho vay với chi phí đầu vào của các NHTM. Bởi vậy, việc xác định và kiểm soát khe hở lãi suất đang là vấn đề hết sức quan trọng bởi rủi ro lãi suất là hiện tượng rất phổ biến ở Việt Nam và chúng ta vẫn bị xếp vào nước có sức cạnh tranh kém. - Năm 2002 khi chỉ cách ngưỡng cửa hội nhập không xa, Việt Nam đã dựa thêm gần 500 dòng thuế vào diện cắt giảm theo hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Mở cửa và hội nhập đang tạo ra cơ hội và thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt Nam và những người bạn đồng hành với nó - các NHTM. Nhận thức rõ cơ hội và thách thức, bám sát sự chỉ đạo của NHNN, NHCT Việt Nam, cấp uỷ chính quyền địa phương, tranh thủ sự hợp tác giúp đỡ của bạn hàng, chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã nỗ lực phấn đấu vươn lên phát triển kinh doanh và đã đạt được: 3.1. Công tác huy động vốn Huy động vốn là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, là cơ sở tạo ra nguồn vốn để ngân hàng cho vay và thực hiện các nghiệp vụ khác. Đối với NHCT Hoàn Kiếm, huy động vốn giúp ngân hàng tăng tính chủ động trong kinh doanh đồng thời tạo nên sự độc lập tương đối với NHCT Việt Nam. Những năm trước đây, NHCT Hoàn Kiếm được NHNN TP Hà Nội giao cho nhiệm vụ huy động vốn là chủ yếu. Do vậy, khi tách thành một chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam thì công tác huy động vốn rất thuận lợi đối với ngân hàng. Với một số hình thức huy động vốn như: tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, tiền gửi thanh toán, phát hành kỳ phiếu ngân hàng, tiền vay các tổ chức kinh tế khác... Ngân hàng luôn có lượng vốn huy động dồi dào. Cụ thể tình hình huy động vốn của ngân hàng trong một số năm gần đây được thể hiện qua bảng sau: Bảng số 1: Hoạt động huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm Đơn vị: triệu đồng CHỉ TIÊU Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Nguồn vốn huy động 2.082.533 3.502.015 4.700.000 + TG dân cư 510.686 620.345 625.227 + TG DN 291.847 381.670 1.574.773 + Khác 1.280.000 2.500.000 2.500.000 (Nguồn: NHCT Hoàn Kiếm) Qua số liệu bảng ta thấy nguồn vốn huy động của ngân hàng có xu hướng tăng mạnh qua các năm: năm 2001 khối lượng vốn huy động tăng 1.419.482 triệu đồng so với năm 2000, tổng nguồn vốn năm 2002 là 4700 tỷ đồng, tăng 1.197.985 triệu đồng so với năm 2001. Về số tương đối, nguồn vốn huy động năm 2001 tăng 68,16% so với năm 2000 và năm 2002 tăng 34,2% so với năm 2001. Kết cấu nguồn vốn huy động của NHCT Hoàn Kiếm được thể hiện qua bảng sau: Bảng số 2: Tỷ lệ các nguồn vốn huy động Đơn vị: % CHỉ TIÊU Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Nguồn vốn huy động 100 100 100 + TG dân cư 24,52 17,71 13,30 + TG DN 14,01 10,90 33,51 + Khác 61,47 71,39 53,19 (Nguồn: NHCT Hoàn Kiếm) Qua bảng trên ta có thể thấy, hình thức huy động vốn bằng con đường tiền gửi dân cư tăng về số tuyệt đối nhưng giảm về số tương đối. Cụ thể: trong năm 2001, tỷ lệ tiền gửi dân cư so với tổng nguồn vốn huy động đã giảm mạnh so với năm 2000, nhưng nếu xét riêng quy mô của nguồn vốn này thì đã có sự tăng lên đáng kể là 109.659 triệu đồng (hay 21,47%). Sang năm 2002 cũng vậy, tỷ lệ tiền gửi dân cư cũng giảm và nếu xét về quy mô thì năm nay nguồn tiền gửi chỉ tăng 4.882 triệu đồng (hay 0,79%). Vì vậy, nếu xét riêng về quy mô nguồn vốn tiết kiệm của dân cư thì ta thấy rằng nguồn này đã tăng dần qua ba năm, nguyên nhân chính là do tổng nguồn vốn huy động đã tăng mạnh qua các năm. Điều này cho thấy khả năng huy động vốn trong toàn 11 quỹ tiết kiệm của ngân hàng là rất tốt, mặc dù lãi suất của ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm có thấp hơn các ngân hàng khác trên cùng địa bàn nhưng vẫn thu hút được một lượng khách gửi tiền khá lớn, đặc biệt lại là tiền gửi của dân cư - những người gửi tiền chỉ với mục đích lợi nhuận. Có được điều đó cũng phải kể đến một lý do góp phần không nhỏ đó là chiến lược khách hàng mà ngân hàng đã áp dụng trong thời gian gần đây. Cũng giống như tiền gửi dân cư, hình thức huy động vốn bằng con đường tiền gửi doanh nghiệp trong năm 2001 tăng về số tuyệt đối nhưng giảm về số tương đối so với năm 2000, nguyên nhân chính là là do tổng nguồn vốn huy động trong năm 2001 đã tăng lên. Chính vì vậy, mặc dù tiền tỷ lệ tiền gửi doanh nghiệp năm 2001 so với cơ cấu huy động vốn giảm nhưng về số tuyệt đối thì tăng lên 89.823 triệu đồng (hay 30,785) so với năm 2000. Tuy nhiên trong năm 2002, hình thức huy động vốn bằng con đường tiền gửi doanh nghiệp lại tăng lên rất mạnh mẽ cả về số tuyệt đối và số tương đối, cụ thể: tăng 1.193.103 triệu đồng (hay 312,6%). Điều này chứng tỏ quy mô của nguồn vốn này trong tổng nguồn vốn ngày càng tăng lên, cho thấy các khách hàng là các doanh nghiệp hay các tổ chức kinh tế đã tham gia mở tài khoản và thực hiện giao dịch với ngân hàng nhiều hơn, họ đã thấy được tiện ích của việc thanh toán qua ngân hàng và ngày càng tin tưởng vào các dịch vụ mà ngân hàng công thương Hoàn Kiếm cung cấp, từ đó hình ảnh ngân hàng trong con mắt các nhà doanh nghiệp cũng ngày càng được cải thiện hơn. Qua đây, ta có thể thấy ngân hàng công thương Hoàn Kiếm đã nâng cao được uy tín của mình, sẽ là địa chỉ tin cậy cho các doanh nghiệp. Do đó ngân hàng phải tận dụng lợi thế này để thu hút những nguồn vốn cho kinh doanh bởi khách hàng là doanh nghiệp luôn có những nguồn vốn nhàn rỗi rất lớn, hơn nữa chi phí cho những nguồn vốn này tương đối thấp so với tiền gửi tiết kiệm bởi vì khách hàng gửi vào không vì mục đích sinh lợi mà vì mục đích thanh toán. Khách hàng là các doanh nghiệp luôn có nhu cầu lớn nhất về thanh toán và sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng, vì vậy nếu thu hút được nhiều nguồn tiền gửi loại này, một mặt giúp tăng vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mặt khác tăng lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu phí các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Cũng như các doanh nghiệp khác, ngân hàng cũng có những khoảng thời gian thiếu hụt tiền mặt tạm thời do phải đảm bảo khả năng thanh toán hay tài trợ cho các khoản tín dụng... ngân hàng phải sử dụng tiền vay trên thị trường liên ngân hàng hay vay từ ngân hàng nhà nước với lãi suất chiết khấu. Theo bảng trên ta có thể thấy, trong năm 2001 nguồn vốn huy động dưới các hình thức khác tăng cả về số tuyệt đối lẫn tương đối so với năm 2000. Cụ thể năm 2001 tăng 1.220.000 triệu đồng hay 95,31% và cũng chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng nguồn vốn huy động (chiếm 71,39%). Như vậy trong thời gian này mặc dù tiền gửi tiết kiệm dân cư và tiền gửi tiết kiệm doanh nhiệp tăng lên đáng kể nhưng ngân hàng vẫn phải sử dụng vốn vay của các tổ chức kinh tế khác để đáp ứng nhu cầu hoạt động của mình, điều đó cho thấy ngân hàng đang còn cần rất nhiều vốn để chuẩn bị cho một quá trình phát triển lâu dài. Và ta có thấy rằng nhược điểm của các nguồn vốn đi vay đó là chi phí rất lớn, nó sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng, làm cho ngân hàng luôn trong trạng thái bị động. Tuy nhiên sang năm 2002 ngân hàng đã khắc phục được nhược điểm đó, mặc dù tổng nguồn vốn huy động tăng mạnh nhưng quy mô huy động vốn bằng các hình thức khác không đổi cho thấy ngân hàng đã có được sự tự chủ trong hoạt động của mình, đã khẳng định được vị trí của mình trong ngành ngân hàng. Có thể nói, trong lúc việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn thì đây là kết quả rất đáng khích lệ. Có được kết quả này là vì ngay từ nguồn vốn còn dồi dào, chúng ta đã xác định nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế là rất lớn, vốn không bao giờ thừa cho một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam nên đã xây dựng chiến lược tăng trưởng vốn lâu dài. Ngoài ra sự tăng trưởng lớn về nguồn vốn không những là kết quả của phong cách phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo mà còn khẳng định về uy tín và vị thế của ngân hàng trên thương trường. Trong thời gian tới, thị trường sẽ còn chứng kiến nhiều cuộc cạnh tranh gay gắt hơn nữa, đòi hỏi ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm phải nỗ lực cao hơn thu hút mạnh mẽ nguồn tiền gửi của dân cư và doanh nghiệp, nhằm xây dựng cơ cấu nguồn vốn ổn định, đảm bảo vững chắc cho sự phát triển của các nghiệp vụ kinh doanh. 3.2. Tình hình sử dụng vốn 3.2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản, quan trọng của Ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, thông qua nghiệp vụ tài trợ, ngân hàng thương mại đã tạo tiền cho nền kinh tế, trợ giúp các tổ chức kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường hoạt động sản xuất lưu thông hàng hoá, giảm chi phí lưu thông tiền tệ, giúp ổn định và phát triển kinh tế. Như ta đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất, bởi vậy chất lượng tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ an toàn của vốn đầu tư và cũng là nhân tố quyết định đến thu nhập của ngân hàng, tạo hình ảnh đẹp, quan hệ tốt với khách hàng. Nếu chất lượng tín dụng kém thì hàm chứa trong đó là mối nguy cơ rủi ro tín dụng, và ngân hàng có thể bị dẫn đến tổn thất, phá sản. Đứng trước tình hình đó, ban giám đốc ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã luôn chú trọng đến nghiệp vụ tài trợ nhằm bảo đảm tăng trưởng tín dụng lành mạnh, vững chắc, cung cấp các khoản mục tín dụng có chất lượng cao, lựa chọn khách hàng có khả năng và có dự án khả thi để cho vay, hạn chế nợ quá hạn và nợ khó đòi tới mức thấp nhất có thể được, từ đó tăng thu cho ngân hàng nhằm tăng cường và ổn định vốn cho ngân hàng đáp ứng nhu cầu phát triển lành mạnh và hiệu quả. Bảng số 3 : Hoạt động tín dụng của ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Doanh số cho vay 1.690.106 1.916.500 1.875.620 Doanh số thu nợ 1.695.019 1.823.740 1.745.731 1.Tổng dư nợ 547.351 620.111 750.955 1.1. DN phân theo thời gian - Ngắn hạn 395.308 409.648 355.764 - Trung và dài hạn 152.043 210.463 395.191 1.2.DN phân theo TPKT - Quốc doanh 334.569 393.750 518.192 - Ngoài quốc doanh 212.782 226.361 232.763 1.3. DN phân theo loại tiền - VNĐ 449.681 475.170 640.398 - Ngoại tệ 97.670 144.941 110.557 2. Đầu tư khác 24.995 17.930 152.332 3. Nợ quá hạn 31.398 17.430 12.490 (Nguồn: NHCT Hoàn Kiếm) Qua bảng ta thấy rằng, trong năm 2001 doanh số cho vay của ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã tăng lên 226.394 triệu đồng (hay tăng 13,4%) so với năm 2000, cho thấy khả năng đáp ứng nhu cầu của ngân hàng cho nền kinh tế ngày càng lớn, số dự án khả thi được vay vốn nhiều hơn, thu hút được khối lượng khách hàng đông đảo hơn. Tuy nhiên sang năm 2002, doanh số cho vay đã giảm đi 40.880 triệu đồng (hay giảm 2,13%) nguyên nhân là do ngân hàng đi sâu vào chất lượng các khoản cho vay, thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng, lựa chọn, sàng lọc khách hàng, cho vay trung dài hạn tăng lên. Doanh số thu nợ của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm trong các năm luôn đạt mức cao so với doanh số cho vay trong năm đó. Tỷ lệ doanh số thu nợ so với doanh số cho vay trong năm 2000 đạt 100,3%, năm 2001 đạt 95,16%, năm 2002 đạt 93,07%. Doanh số thu nợ trong năm 2001 tăng 7,59% so với năm 2000, nhưng sang năm 2002 doanh số thu nợ giảm 4,277%, sở dĩ doanh số thu nợ trong năm giảm là do năm 2002 ngân hàng đã gia tăng quy mô cho vay trung và dài hạn, giảm doanh số cho vay, cho vay ngắn hạn giảm. Một chỉ tiêu quan trọng khác để đánh giá hoạt động tín dụng của ngân hàng đó là tổng dư nợ tín dụng cuối các năm. Qua bảng ta thấy dư nợ tín dụng đã tăng dần qua các năm: năm 2001 tăng 72.760 triệu đồng (hay tăng 13,3%), năm 2002 tăng 130.844 triệu đồng (tức tăng 21,1%). Như vậy, trong năm Chi nhánh đã không phát sinh nợ quá hạn, vốn tín dụng được đầu tư an toàn, hiệu quả cho các ngành kinh tế trọng điểm như: Than, Điện, Lương thực, Dầu khí, Lắp máy, Xây dựng... ở đây chúng ta đặt ra câu hỏi: Trong khi dư nợ cho vay của các chi nhánh khác tăng lên rất nhanh, có nơi đạt tới 2.000 tỷ thì mức dư nợ của ngân hàng là cao hay thấp? Rõ ràng bài toán về tăng trưởng dư nợ chứa đựng rất nhiều biến số và kinh doanh an toàn, hiệu quả là mục tiêu trên hết mà ngân hàng phải vươn tới. Biểu đồ về dư nợ tín dụng theo thời gian Qua biểu đồ ta thấy, trong các năm 2000, 2001 phần lớn vốn tín dụng của ngân hàng được đầu tư ngắn hạn, tỷ trọng của tổng đầu tư ngắn hạn chiếm mức cao so với tổng dư nợ, năm 2000 chiếm 72,22% trong tổng dư nợ, năm 2001 chiếm 66,06%. Nhưng sang năm 2002, tình hình đã thay đổi hẳn, cho vay trung và dài hạn đã tăng 39.427 triệu đồng so với cho vay ngắn hạn, chiếm 52,625% trong tổng dư nợ. Điều này cho thấy ngân hàng đang chuyển dịch cơ cấu cho vay, phát triển cho vay trung - dài hạn nhiều hơn các năm trước. Biểu đồ về dư nợ tín dụng theo thành phần kinh tế Nếu phân loại các dự án cho vay theo thành phần kinh tế thì theo biểu đồ trên cho thấy, hoạt động cho vay đối với các thành phần kinh tế quốc doanh luôn chiếm đa số trong tổng dư nợ tín dụng. Năm 2000, dư nợ tín dụng kinh tế quốc doanh chiếm 61,13%, năm 2001 chiếm 63,5%, năm 2002 chiếm 69%. Như vậy năm 2002 dư nợ tín dụng ngoài quốc doanh đã tăng lên nhưng vẫn còn rất thấp, nguyên nhân do các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không đủ điều kiện để được vay vốn tại Chi nhánh. Hiện nay Chi nhánh chỉ tập trung chủ yếu vào các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Như vậy, trong các năm qua NHCT Hoàn Kiếm tuy đã tập trung, chú trọng đầu tư vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nhưng hiện nay các khu vực kinh tế này thường không đáp ứng đủ các điều kiện đảm bảo tiền vay của ngân hàng, chẳng hạn như: điều kiện về tài sản thế chấp còn hạn chế, báo cáo tài chính chưa trung thực... Nên mặc dù nằm trong khu vực đông đúc các doanh nghiệp và hộ kinh doanh nhỏ nhưng vốn tín dụng của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm lại chủ yếu đầu tư vào khu vực kinh tế quốc doanh, ngân hàng vẫn chưa dám mạo hiểm mở rộng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh do những nguyên nhân hạn chế của họ, và bởi rủi ro trong tín dụng đối với thành phần kinh tế này còn rất cao, cao hơn nhiều so với thành phần kinh tế Nhà nước. Số liệu thống kê kinh tế cho thấy: chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa cao. Sự tăng trưởng kinh tế năm 2002 chủ yếu vẫn do tăng trưởng vốn đầu tư và tăng thêm lao động đem lại. Các nhân tố khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động và hiệu quả còn hạn chế. Hơn nữa, cho tới nay các doanh nghiệp Việt Nam vẫn tồn tại trong sự bảo trợ cao của chính phủ và khoảng cách về năng lực cạnh tranh giữa Việt Nam và các nước trong khu vực, đặc biệt với Trung Quốc vẫn ngày càng lớn. Mặt khác, sự tăng trưởng tín dụng còn phụ thuộc vào khả năng quản lý của đội ngũ cán bộ cũng như khả nănh tư vấn, đánh giá về mức độ kiểm soát rủi ro của các kiểm soát viên cho Ban lãnh đạo ngân hàng. Căn cứ vào những nhận định trên cho thấy hoạt động tín dụng của chi nhánh đã phát triển đúng hướng, phù hợp chủ trương của NHCT Việt Nam. 3.2.2. Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm trong thời gian vừa qua Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Trước tiên, chất lượng tín dụng của NHCT Hoàn Kiếm thể hiện qua khối lượng tín dụng, dư nợ tín dụng mà ngân hàng cung cấp. Như trên đã phân tích ta thấy khối lượng tín dụng của Chi nhánh trong năm 2002 đã giảm xuống là do nguyên nhân ngân hàng đang chuyển hướng đi sâu vào nâng cao chất lượng các khoản vay, sàng lọc khách hàng. Mặc dù khối lượng tín dụng giảm nhưng Chi nhánh cũng đã đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn và các tổ chức có nhu cầu vay vốn. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ quá hạn là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng các khoản tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Bảng số 4 : Tỷ lệ nợ quá hạn tại NHCT Hoàn Kiếm. CHỉ TIÊU Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng dư nợ cho vay (triệu đồng) 547.351 620.111 750.955 Nợ quá hạn (triệu đồng) 31.395 17.430 12.490 Tỷ lệ nợ quá hạn (%) 5,74 2,81 1,66 (Nguồn: NHCT Hoàn Kiếm) Qua bảng trên ta thấy các chỉ tiêu rủi ro tín dụng của ngân hàng đã giảm đáng kể từ năm 2000 đến năm 2002. Trong hai năm qua Chi nhánh không những không phát sinh nợ quá hạn mà còn thu hồi được đáng kể các khoản nợ quá hạn từ các năm trước, cụ thể: trong năm 2001, nợ quá hạn đã giảm 13.965 triệu đồng (tức 44,5%), năm 2002 giảm 4.940 triệu đồng (tức 28,34%) nguyên nhân là do ngân hàng bán tài sản đảm bảo và bù đắp bằng quỹ rủi ro. Điều này đồng nghĩa với việc chất lượng các khoản cho vay của NHCT Hoàn Kiếm trong ba năm gần đây đã tôt lên rất nhiều, tạo điều kiện cho ngân hàng có khả năng thanh toán và có thể tăng thu nhập. Nhìn chung, để đánh giá chất lượng tín dụng, người ta thường sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau nhưng để đánh giá một cách chính xác và tổng thể nhất thì các chỉ tiêu trên là chỉ tiêu cơ bản hay được ngân hàng sử dụng trong phân tích tình hình kinh doanh. II. Thực trạng hoạt động cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. 1. Quy trình thẩm định cho vay và nguyên tắc vay vốn. * Về nguyên tắc vay vốn: Khách hàng vay vốn của ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm phải đảm bảo các nguyên tắc sau: - Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện theo quy định của Chính phủ và của thống đốc NHNN. * Về hồ sơ vay vốn. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi cho ngân hàng cho vay các tài liệu sau: - Giấy đề nghị vay vốn. - Tài liệu về năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự, trách nhiệm dân sự của khách hàng, gồm: + Đối với pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân: Quyết định thành lập, giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề (nếu có), giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp (nếu có), điều lệ hoạt động (nếu có); quyết định bổ nhiệm người điều hành, kế toán trưởng. (áp dụng đối với khách hàng vay vốn lần đầu tại ngân hàng hoặc khách hàng có sự thay đổi năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự, trách nhiệm dân sự trong quá trình vay vốn) + Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, cá nhân: đăng ký kinh doanh (đối với những trường hợp pháp luật có quy định phải đăng ký kinh doanh); hợp đồng hợp tác (đối với tổ hợp tác); chứng minh nhân dân; sổ hộ khẩu; giấy phép hành nghề (nếu có). - Tài liệu báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống,, khả năng tài chính của khách hàng và của người bảo lãnh (nếu có) gồm: + Bảng cân đối tài sản, báo cáo kết quả kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính của một số năm gần nhất... đối với khách hàng là pháp nhân. + Các tài liệu để thuyết trình khả năng tài chính đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân. - Dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh và các tài liệu khác liên quan. - Các tài liệu chứng minh tính hợp pháp và giá trị các tài sản đảm bảo nợ vay. Khách hàng vay vốn chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính pháp lý và tính chính xác của các thông tin và tài liệu gửi cho NHCT. * Quy trình thẩm định cho vay Bước 1: Thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng vay vốn. Kết thúc bước này cán bộ tín dụng phải rút ra được nhận xét về tư cách pháp lý, người đại diện hợp pháp của khách hàng. Bước 2: Thẩm định khả năng tài chính của khách hàng. Đây là khâu quan trọng trong quá trình thẩm định tín dụng, liên quan trực tiếp đến khả năng báo cáo tài chính như: báo cáo tài chính, bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo chi tiết bổ sung, báo cáo tồn kho hàng hoá, báo cáo kiểm toán nội bộ, báo cáo kiểm toán của doanh nghiệp kiểm toán độc lập. Bước 3: Thẩm định dự án đề nghị vay vốn của khách hàng, bao gồm: - Giấy đề nghị cho dự án, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ, bản sao hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc báo giá phiếu nhập kho, các chứng từ, chứng từ thanh toán. - Xác định khả năng thực hiện dự án, nhu cầu vay và khả năng trả nợ. Kết thúc bước thẩm định này phải rút ra nhận xét và đưa ra đề xuất đối với nhu cầu vay vốn của khách hàng. Cán bộ thẩm định phải tóm tắt lại toàn bộ những nội dung chính về nhu cầu vay vốn, các chính sách chế độ của Nhà nước có liên quan. Phần lớn đề xuất nói rõ đồng ý hay không đồng ý cho vay, mức cho vay, thời hạn cho vay và biện pháp đảm bảo tiền vay cũng như các đề xuất khác có liên quan. - Thẩm định, tái thẩm định dự án vay vốn trung dài hạn: + Xém xét hồ sơ có đầy đủ những giấy tờ cần thiết như: Quyết định đầu tư hoặc cho phép đầu tư hoặc giấy phép đầu tư của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, luận chứng kinh tế kỹ thuật và phê duyệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. + Tình hình tài chính của dự án trong đó xác định tổng mức đầu tư cho vay, thời hạn vay, trả nợ, kế hoạch trả nợ. + Phân tích hiệu quả kinh tế, xã hội của dự án. + Phân tích tính khả thi của dự án: khả năng trả nợ, thị trường tiêu thụ, yếu tố đầu vào, tổ chức quản lý sản xuất và lao động. + Đánh giá và kết luận: Có thể đầu tư cho dự án hay không? Tại sao? Đề xuất loại hình tín dụng cơ cấu và mục đích khoản vay, các biện pháp quản lý, kiểm tra và phòng ngừa rủi ro. Bước 4: Thẩm định tài sản đảm bảo vay nợ. Thẩm định là khâu quan trọng nhất để giúp ngân hàng đưa ra quyết định đầu tư một cách chuẩn xác. Quá trình thẩm định đòi hỏi phải có sự hiểu biết và vận dụng một cách toàn diện các kiến thức về kinh tế, chính trị xã hội của khu vực và thế giới. Tuy nhiên vẫn có những doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhiều khi làm giấy tờ giả mạo, báo cáo không chính xác gây nên khó khăn cho cán bộ Ngân hàng trong công tác thẩm định đánh giá. Tình hình thế chấp bảo đảm khoản vay tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm như sau: Theo quy chế tín dụng thì bất cứ mọi khoản vay nào của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều phải có tài sản thế chấp đảm bảo cho khoản vay, giúp Ngân hàng có thể thu hồi vốn khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Tuy nhiên điều kiện này lại là vướng mắc chính của doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi muốn tiếp cận với tín dụng Ngân hàng. Trong các năm qua, doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm chủ yếu đảm bảo khoản vay bằng hình thức cầm cố, thế chấp tài sản như: đất đai, nhà cửa, phương tiện, dây chuyền sản xuất... Tuy nhiên một số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới được thành lập với quy mô nhỏ, khả năng tài chính hạn hẹp mà muốn vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp. Đó là khó khăn chính ngăn cản các doanh nghiệp này đến với tín dụng ngân hàng. Tài sản thế chấp của doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay là đất đai mà chủ doanh nghiệp được quyền sở hữu, nhưng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu nhà nói chung chưa thống nhất, nên các doanh nghiệp này khó đáp ứng được nhu cầu tài sản đảm bảo cho khoản vay của ngân hàng. Điều này còn khó khăn hơn đối với các doanh nghiệp mà văn phòng hoặc cửa hàng đi thuê trong khi toàn bộ vốn tự có của doanh nghiệp đã được đầu tư cho kinh doanh, do đó có những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn hợp pháp và có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng lại không vay được vốn do không có tài sản thế chấp. Tín dụng ngân hàng có những ưu điểm hơn đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng trên thị trường tài chính không chính thức. Nhưng đi kèm với nó là những điều kiện cứng nhắc mà ít doanh nghiệp nào đáp ứng được. Do đó trong những năm qua, mặc dù doanh số cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tăng lên nhưng mức độ của nó tăng chưa tương xứng với tốc độ tăng lên của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 2. Về doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Thực tế cho thấy trong những năm qua, NHCT Hoàn Kiếm đã có chính sách tín dụng hợp lý trên cơ sở đa dạng hoá nguồn vốn vào những danh mục đầu tư khác nhau. Thể hiện rõ nhất thông qua việc ngân hàng đã từng bước mở rộng hoạt động tín dụng của mình đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trên địa bàn hoạt động của ngân hàng có rất nhiều các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, vì vậy đây là những đối tượng khách hàng tiềm năng hứa hẹn mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng ở hiện tại cũng như trong tương lai nếu ngân hàng có sự khai thác, đầu tư một cách thích đáng vào khu vực này cũng như việc quản lý tốt các khoản dư nợ cho vay. Trong ba năm trở lại đây, NHCT Hoàn Kiếm đã cung cấp một khối lượng tín dụng rất lớn cho nền kinh tế, bao gồm cả khu vực kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, chứng tỏ tính hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng, chính sách tín dụng của ngân hàng đã phát huy tác dụng. Để hiểu rõ hơn ta nghiên cứu bảng sau, ta có thể so sánh được doanh số cho vay, doanh số thu nợ, doanh số dư nợ đối với KTNQQ so với tổng doanh số ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2311.doc
Tài liệu liên quan