MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Lời cảm ơn 2
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung về xuất khẩu và xuất khẩu chè 3
1.1. Khái niệm và phân loại xuất khẩu chè 3
1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu và xuất khẩu chè 3
1.1.2. Phân loại hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu chè 4
1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu chè đối với phát triển kinh tế xã hội 6
1.2.1. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 6
1.2.2. Vai trò của xuất khẩu đối với các doanh nghiệp ngoại thương 7
1.2.3. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam 8
1.3. nghiên cứu thị trường chè . 9
1.3.1 swot model . 10
1.3.2 .pest model 11
1.3.3. five forces model . 11
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu chè của Việt nam sang thị trường Nga giai đoạn hiện nay 13
2.1. Tổng quan về sản xuất và xuất khẩu chè Việt Nam 13
2.1.1. Hoạt động sản xuất chè của Việt nam 13
2.1.2. Tình hình xuất khẩu chè của Việt Nam giai đoạn hiện nay 15
2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu chè Việt Nam 19
2.1.4. Thực trạng xuất khẩu chè Việt Nam giai đoạn 1991-2005 20
2.2. Thị trường Nga đối với chè Việt Nam 22
2.2.1. Các thủ tục và chấp nhận nhập khẩu chè tại thị trường LB Nga 22
2.2.2. Đặc điểm và tập quán tiêu dùng chè của LB Nga 25
2.2.3.Kế hoạch hoá và phân phối sản phẩm chè tại thị trường Liên bang Nga 27
2.2.4. Về hệ thóng phân phối chè nhập khẩu tại Nga 28
2.2.5. Tiếp cận và khuyến mãi chè tại Nga 28
2.2.6. Chiến lược và chính sách nhập khẩu 29
2.2.7. Các yếu tố ảnh hưởng tới biểu giá chè tại Nga 29
2.2.8. Rào cản thưong mại tại thị trường chè LB Nga 30
2.3.Đánh giá đối với sản phẩm chè Việt Nam xuất khâu sang thị trường Nga 30
2.3.1. Những thuận lợi 31
2.3.2. Những khó khăn 32
2.3.3. Những thời cơ và triển vọng 32
2.3.4.Những thách thức 32
Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu chè sang thị trường Nga tới năm 2010 34
3.1. Phương hướng xuất khẩu chè sang thị trường nga đến 2010 34
3.2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước 34
3.2.2. Các giải pháp từ phía Doanh nghiệp 36
Kết luận 38
Tài liệu tham khảo 39
Từ viết tắt và giảI nghĩa 40
Mục lục 41
54 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3376 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu chè Việt Nam sang thị trường Nga, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng chè rời.....Nếu như vậy chè việt nam nên đẩy mạnh xuất khẩu chè ở dạng gói .
T (technological): kĩ thuật và công nghệ: bao gồm nhiều yếu tố về cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế nước ta, tiến bộ kỹ thuật và khả năng ứng dụng kĩ thuật trong trồng và chế biến chè xuất khẩu của nước ta, chiến lược phát triển kĩ thuật...Nếu nước ta có nhiều giống chè tốt chịu được những bất lợi của thời tiết thì sản lượng chè sẽ được nâng cao, nếu khâu chế biến , bảo quan chu đáo với công nghệ hiện đại thì chất lượng chè việt nam sẽ tăng cường và xuất khẩu chè sang thị trường thế giới sẽ cạnh tranh tốt hơn các sản phẩm chè cùng loại của các nước khác.
2.1.4. Thực trạng xuất khẩu chè việt nam sang thị trường nga từ 1991-2005
Xuất khẩu chè của việt nam vào thị trường nga đã dần phục hồi sau năm năm liên ltục suy giảm kể từ năm 1991.Từ năm 2000 đến nay, khối lượng chè việt nam xuất khẩu sang nga đã tăng nhanh và nga là thị trường xuất khẩu chè hàng đầu của việt nam ( sau iraq), năm 2001 khối lượng chè việt nam xuất khẩu sang nga đã đạt trên 4.700 tấn.Ngoài ra, hàng năm còn một khối lượng đáng kể chè cuả việt nam trên thực tế không được xuất thẳng vào thị trường nga mà phải thông qua nước thứ ba ( một số nước SNG được hưởng chính sách miễn thuế nhập khẩu của chính phủ nga) để tránh thuế nhập khẩu chè còn ở mức khá cao của nga.Tuy thế, chè việt nam còn chiếm thị phần rất nhỏ tại nga ( khoảng 2,4-3%) giá chè việt nam chỉ bằng khoảng 80% mức giá trung bình chè nhập khẩu vào nga.Diễn biến khối lượng và giá trị xuất khẩu chè việt nam vào nga từ 1991 đến 2005 cụ thể như sau :
Năm
KL chè vn sang Nga(tấn)
KNXK chè vn sang Nga(1000 usd)
Giá xk chè bình quân vn sang nga(usd/ tấn)
Thị phần (%)
Thị phần chè vn tạI nga
Thị phần nga trong tổng kl chè xk của vn
1991
3.991
4.988
1.250
5,2
49,9
1995
2.062
5.797
2.814
1,7
10,9
1996
974
2.809
2.884
0,8
4,7
1997
192
337
1.755
0,13
0,58
1998
787
1.365
1.734
0,57
2,4
1999
764
1.146
1.501
0,51
2,0
2000
1.785
2.033
1.140
1,2
3,2
2001
4.777
4.400
921
2,9
7,0
2002
3.622
3.639
1.004
2,2
4,8
2003
3.822
3.466
906
2,3
6,4
2004
7.469
6.828
914
4,5
7,5
2005
9.846
Nguồn: cục công nghệ thông tin và thống kê hảI quan
Tổng cục hảI quan việt nam
Trong thờI gian qua, chè việt nam xuất khẩu vào thị trường nga chủ yếu là loạI chè đen đóng túi dướI 3 kg.Từ sau năm 2000, các doanh ngiệp việt nam bắt đầu chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu chè đóng gói các loạI ( trọng lượng 50- 250 gram) sang thị trường nga đồng thờI các doanh nghiệp xuất khẩu chè việt nam đang đầu tư đổI mớI công nghệ gieo trồng và chế biến để tạo ra những sản phẩm chè chất lượng cao xuất khẩu sang nga.
2.2. THỊ TRƯỜNG NGA ĐỐI VỚI CHÈ VIỆT NAM
2.2.1. Tổng quan về nền kinh tế Nga
Địa lý, khí hậu và tài nguyên của Liên Bang Nga
Vị trí địa lý: Liên Bang Nga nằm ở Bắc Á (một phần phía Tây của Urals thuộc châu Âu), tiếp giác Bắc Băng Dương, giữa châu Âu và phía Bắc Thái Bình Dương. Nằm trên toạ độ 600 Bắc và 1000 Đông.
Lãnh thổ: Tổng diện tích 17.075.200 km2, trong đó 16.995.800 km2 là đất liền và 79.400 km2 là biển.
Đường biên giới: Tổng chiều dài đường biên giới 19.916 km ; tiếp giác với các nước: azarbaijan 284 km, Belarus 959 km, Trung Quốc (đông nam) 3.605 km, Kazakhstan 6.946 km, Hàn Quốc 19km, Latvia 217km, Lithuania (kaliningrad Oblast) 227km, Mongolia 3.484 km, Norway 167 km, Poland 206 km, Ukraine 1.576 km. Đường bờ biển dài 37.653 km.
Khí hậu: Dọc theo các thảo nguyên ở phía Nam qua vùng lục địa ẩm ướt thuộc Nga nằm ở Châu Âu, từ cận Bắc cực đến khí hậu Tundra ở cực Bắc; khí hậu mùa Đông đa dạng từ mát dọc theo bờ biển đen đến lạnh giá ở Siberia; khí hậu mùa hè đa dạng từ ấm ở thảo nguyên đến mát dọc theo bờ biểnBắc cực.
Địa hình: Đồng bằng bao la với những đồi thấp ở phía Tây của Urals; rừng thực vật lớn và lãnh nguyên ở Seberia; núi cao dọc vùng biên giới phía Bắc.
Tài nguyên thiên nhiên: Phong phú bao gồm các mỏ lớn nhỏ như dầu mỏ, khí ga thiên nhiên, than đá và nhiều khoáng chất khác, gỗ mộc…
Dân số, lao động, nhân dụng, dân tộc và tôn giáo:
Về dân số: Theo số liệu điều tra tháng 7 năm 2001, dân số của Liên Bang Nga là 145.470.197 người với cơ cấu như sau: Từ 0 đến 14 tuổi chiếm 17,41%, từ 15 đến 64 tuổi là 69,78% và trên 65 tuổi chiếm 12,81%.Tốc độ tăng dân số hàng năm là - 0,35% (theo số liệu 2001). Tỷ lệ di cư là 0,98 người/1.000 dân; tuổi thọ trung bình là 62,12 tuổi đối với nam, 72,83 tuổi đối với nữ. Tỷ lệ sinh sản là 1,27 trẻ/phụ nữ
Về lao động: Lực lượng lao động là 66 triệu người (1997)
Về dân tộc và ngôn ngữ: Gồm nhiều dân tộc, trong đó Nga chiếm 81,5%, Tatar 3,8%, Ucrainian 3%, Chuvash 1,2%, Bashkir 0,9%, Byelorussian 0,8%, Moldavian 0,7% và các dân tộc khác là 8,1%. Có nhiều ngôn ngữ trong đó tiếng Nga là quốc ngữ.
Về tôn giáo: Thiên Chúa giáo theo dòng cơ đốc giáo Nga chính thống, HỒi giáo, cá tôn giáo khác.
Hệ thống chính trị và lập chính sách của Liên Bang Nga
Tên nước: Tên quy ước dài: Liên Bang Nga
Tên dài theo tiếng Nga: Rossiyskaya Federatsiya
Tên ngắn theo tiếng nga: Rosiya
Kiểu chính quyền: Liên Bang
Thủ đô: Moscow
Phân chia đơn vị hành chính: 49 vùng, 21 nền cộng hoà, 10 khu vực tự trị, 6 krays (krays, singular-kray), 2 thành phố liên bang, và 1 vùng tự trị.
Các cơ quan hành pháp: Đứng đầu Nhà nước: Tổng thống Vladimir Vladimirovich PUTIN (thay quyền tổng thống từ 31 tháng 12 năm 1999, chính thức nhậm chức từ 7 tháng 5 năm 2000, được bầu lại nhiệm kỳ 2 vào năm 2004).
Nội các: Các bộ phận của chính phủ và chính phủ do thủ tướng và các phó thủ tướng, các bộ trưởng và những người đứng đầu điều hành, tất cả do tổng thống bổ nhiệm.
Bầu cử: Tổng thống được bầu do các cuộc bỏ phiếu của dân chúng theo nhiệm kỳ 4 năm, lần bầu cử gần đây nhất được tổ chức vào năm 2004.
Cơ quan lập pháp: Quốc hội Liên bang lưỡng viện hoặc Federalnoye Sobraniye bao gồm Hội đồng Liên bang hoặc Soviet Federatsii (178 ghế, tháng 7 năm 2000), các thành viên do các viên chức hành pháp đứng đầu bổ nhiệm vào mỗi đơn vị trong 89 đơn vị hành chính của Liên bang - vùng, kray, nền cộng hoà, vùng và khu vực tự trị, các thành phố Liên bang Moscoww và St. Petersburg; các thành viên làm vịêc theo nhiệm kỳ 4 năm và Viện Duma hoặc Gosudarstvennaya Duma (450 ghế, một nửa do đảng thắng cử bầu với ít nhất 55% số phiếu ủng hộ, nửa còn lại do các cử tri bầu ra; các thành viên đựơc bầu theo hình thức bỏ phiếu công khai trực tiếp làm việc theo nhiệm kỳ4 năm).
Hệ thống toà án: Toà án lập hiến, toà án tối cao, toà án địa phương, thẩm phán của tất cả các toà án đều do Toà án Liên bang bổ nhiệm trong lần tiến cử tổng thống.
Hội nhập quốc tế: APEC, ASEAN (thành viên đối thoại), BIS, BSEC, CBSS, CCC, CE, CERN (quan sát viên), CIS, EAPC, EBRD, ECE, ESCAP, G-8, IAEA, IBRD, ICAO,ICC, ECFTU, ICRM, IDA, IFC, IFRCS, IHO, ILO, IMF, IMO, Inmarsat, Intelsat, Interpol, IOC, IOM (quan sát viên), ISO, ITu, LAIA, MINURSo, MONUC, NAM (khách mời), NSG, OAS (quan sát viên), OPCW, OSCE, PCA, PFP, UN, Toà án an ninh Liên Hợp Quốc, UNAMSIN, UNCTAD, UNESCO, UNHCR, UNIDO, UNIKOM, UNITAR, UNMEE, UNMIBH, UNMIK, UNMOT, UNOMIG, UNTAET, UNTSO, UPU, WFTU, WHO, WIPO, WMO, WTO, WtrO (quan sát viên), Z.
. Bối cảnh chung về kinh tế của Liên Bang Nga
Khái qúat: Một thập kỷ sau sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết, Nga vẫn đang nỗ lực thiết lập nền kinh tế thị trường hiện đại và đạt mức tăng trưởng kinh tế cao. Trong khi những đối tác ở Đông Âu đã có thể vượt qua suy thoái trong vòng ba đến năm năm kể từ khi cải tổ thị trường, nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng âm trong vòng năm năm. Cho đến năm 1997, kinh tế nước này đã phục hồi đôi chút nhưng thâm hụt ngân sách trầm trọng và môi trường kinh doanhnghèo nàn đã khiến kinh tế Nga một lần nữa chịu tác động của cuộc khủng hoảng năm 1998. Kết quả là đồng Rúp liên tục phá giá, Chính phủ khủng hoảng, nợ và mức sống của người dân suy sụp nghiêm trọng.
Năm 1999 và 2000 kinh tế đã khởi sắc, do lợi thế cạnh tranh từ đồng Rúp mất giá và giá dầu tăng vọt. Cùng với những nỗ lực của chính phủ trong việc đẩy mạnh tiến trình cải tổ cơ cấu, lòng tin của doanh nghiệp và người tiêu dùng đã tăng. Tuy nhiên, vẫn còn đó những vấn đề vướng mắc như nước Nga phụ thuộc chủ yếu vào việc xuất khảu hàng hoá, đặc biệt là dầu lửa, khí gas, kim loại, gỗ chiếm tới 80% kim ngạch xuất khẩu, khiến cho nền kinh tế càng dễ chịu tác động của thế giới.
Liên Bang Nga là nước có quy mô GDP vào loại trung bình khá của thế giới. Tuy diện tích rộng, dân số đông và là nước có nền công nghiệp hoá trên 100 năm qua nhưng đến năm 2001 GDP của Liên Bang Nga mới chỉ đạt 309.951 tỷ USD (nhỏ hơn GDP Hàn Quốc: 422.167 tỷ USD). Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm của Nga tuy cao hơn mức trung bình của thế giới trong 5 năm qua nhưng chưa ổn định (năm 1998 đạt -4,9%, năm 1999 đạt 5,4%, năm 2000 đạt 9,0%, năm 2001 đạt 5%). Tuy nhiên, theo một số chuyên gia kinh tế thì tỷ lệ tăng GDP thực tế của Nga thấp hơn mức thống kê chính thức nêu trên. Mức GDP tính theo đầu người của Nga dựa trên sức mua hàng chỉ đạt khoảng 1.700 USD/người (năm 2000).
Liên Bang Nga là nước có nền công nghiệp khá phát triển và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP (năm 2001 dịch vụ chiếm 55,9%, công nghiệp chiếm 37,3%, nông nghiệp chỉ chiếm 6,8%).
Về đặc điểm phát triển các ngành kinh tế của Liên Bang Nga; công nghiệp của Nga chủ yếu phát triển các ngành sau: Lĩnh vực mạnh nhất là các ngành khai khoáng và hầm mỏ sản xuất than đá, dầu, gas, hoá chất và kim loại; tất cả các loại máy móc từ máy cán đến máy bay tầm xa và tàu vũ trụ; đóng tàu; các thiết bị giao thông đường bộ và đường ray; các thiết bị giao thông liên lạc; máy móc công nghiệp, máy cày và các thiết bị xây dựng; thiết bị truyền phát điện, cụng cụ y tế và khoa học; hàng tiêu dùng, hàng dệt may, thực phẩm, hàng thủ công. Tỷ lệ tăng trưởng sản xuất hàng công nghiệp năm 2000 đạt 8,8%.
Phát triển sản xuất nông sản chủ lực: nông nghiệp phát triển chậm, có quy mô không lớn và chủ yếu là lúa mì, mía đường, hạt hướng dương, rau quả, thịt bò, sữa.
Ngành ngoại thương của Liên Bang Nga tuy có lịch sử lâu đời nhưng phát triển chưa mạnh, quy mô chưa lớn chưa tương xứng với tiềm năng.
Về tình hình kinh tế Nga 5 năm qua
Sau một thập kỷ bị suy thoái kinh tế, từ sau năm 1999, kinh tế Nga đã phục hồi tăng trưởng khá nhanh. Nếu như năm 1998 do khủng hoảng tài chính tiền tệ tốc độ tăng GDP của Nga là -4,9% thì sau năm 1999, GDP của Ng đã tăng liên tục trong suốt 5 năm qua (1999 - 2003). Tốc độ tăng trưởng GDP của Nga đã tăng ở mức cao: 6,4%, 9%, 5%, 4,7%, và 7,3% trong các năm tương ứng: 1999, 2000, 2001, 2002, 2003. Đầu t phát triển của Nga cũng tăng liên tục ở mức 11%, 11,9%, 4,9%, 3,7% và 7% trong 5 năm 1999 - 2003.
Năm 2004 kinh tế Nga tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng GDP ước đạt 6,7% và triển vọng năm 2005 đạt mức 6,2%.
Bảng: Một số chỉ tiêu tổng hợp về kinh tế Liên Bang Nga trong 12 năm qua (1992 - 2003)
Năm
Chỉ tiêu
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng DS
134
131
129
130
132
130
132
132
132
131
130
-
+ Nam
+ Nữ
62
72
59
72
58
71
58
72
60
72
59
71
61
71
60
72
60
72
59
72
58
72
-
-
Tăng trưởng GDP
-14.5
-8.7
-12.7
-4.2
-3.6
1.4
-5.3
6.4
10.0
5.1
4.7
7.3
Tăng trưởng SP
-18.8
-14.6
-20.6
-3,0
-3.5
1.9
-6.6
11.0
11.9
4.9
3.7
7.0
Tăng trưởng SP
-9,0
-4.0
-12.0
-8.0
-5.1
0.1
12.3
2.4
3.0
11.0
20
1.5
Tốc độ tăng chỉ tiêu dùng
2650
940
320
131
22
11
85
37
21
19
15
12
Tốc độ tăng thu nhập của dân cư
-41
14.0
-8.0
-13.0
5.0
2.5
-13,9
-15.1
9.0
8.5
8.8
14.5
Tỷ trọng thu ngân sách trong GDP (%)
16.6
14.5
14.1
13.7
12.5
12.7
11.1
13.5
16.0
17.6
19.3
19.4
Tỷ trọng chi ngân sách trong GDP(%)
27.7
15.9
18.1
16.6
15.6
20.2
17.2
14.9
14.4
15.0
17.9
17.8
Các cân thu chi ngân sách
-11.1
-1.4
-4.0
-2.9
-3.1
-7.5
-6.1
-1.4
1.6
2.6
1.4
1.6
(Nguồn: Thời báo kinh tế Nga)
Qua bảng số liệu tổng hợp về các chỉ số kinh tế cơ bản của Nga trong hơn một thập kỷ qua cho thấy: Tốc độ tăng dân số tự nhiên của Nga gần bằng 0%; từ sau năm 1999 đến nay kinh tế Nga tăng trưởng khá cao ở cả khu vực nông và công nghiệp, trong đó giá trị tổng sản phẩm công nghiệp tăng hơn giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp; Thu nhập của dân cư tăng trung bình khoảng 10%/năm trong 5 năm qua (1993 - 2000); Tỷ trọng thu và chi ngân sách chiếm dưới 20% GDP và từ sau năm 1999 đã có thặng dư thu - chi ngân sách. Nga đã khắc phục được tình trạng thâm hụt thu - chi ngân sách keo dài trong suốt thập kỷ 90. Năm 2004 với thu ngân sách tăng thêm 2,743 tỷ Rup chiếm 17,9% GDP (tương đương 86 tỷ USD); chi ngân sách tăng thêm 2,659 tỷ Rup chiếm 17,4% (tương đương 87,6 tỷ USD).
Về đầu tư nước ngoài tại Nga trong các năm 1997 - 2000, đã thu hút được lượng vốn FDI 4,9 tỷ USD năm 199, năm 1998 là 2,8 tỷ USD, năm 1999 là 4,3 tỷ USD và năm 2000 là 4,4 tỷ USD; xu hướng suy giảm nhưng không nhiều. Sau năm 2001 FDI của Nga có xu hướng hồi phục và lại tăng dần, năm 2001 Nga thu thú đựơc FDI từ các nước công nghiệp phat triển đạt 3,98 tỷ USD, từ các nước đang phát triển 2,4 tỷ USD; năm 2002 thu hút được 2,4 tỷ USD; năm 2002 thu hút được 4 tỷ USD từ các nước phát triển và 2,6 tỷ USD từ các nước đang phát triển,nâng tổng FDI năm 2001 lên 6,38 tỷ USD và năm 2002 lên 6,6 tỷ USD. Năm 2004 ước tính FDI tại Nga sẽ tăng 1,5 tỷ USD so với năm 2002 và năm 2005 - 2007, FDI tại Nga sẽ tiếp tục tăng đạt mức 9-9,5 tỷ USD vào năm 2007.
Như vậy, tổng FDI của Nga trong giai đoạn 1991-1/2004 đã đạt 25,7 tỷ USD (Trung Quốc riêng năm 2003 đã thu hút FDI được 57 tỷ USD).
Hạ tầng cơ sở thông tin liên lạc của và giao thông vận tải cho hoạt động xuất nhập khẩu của Liên Bang Nga
Hạ tầng cơ sở thông tin liên lạc của Liên Bang Nga hiện đang ở mức trung bình của thế giới. Đến năm 2000, cả nước có trên 32 triệu chiếc máy điện thoại cố đinh, 2,5 triệu điện thoại di động, 61,6 triệu chiếc đài phát thanh, 7,306 triệu máy thu hình, có 35 nhà cung cấp dịch vụ Internet và tổng số người sử dụng dịch vụ này là 9,2 triệu người.
Hạ tầng giao thông vận tải hàng hoá của Liên Bang Nga phát triển và đồng bộ với hệ thống đường sắt dài 149.000 km, đường cao tốc là 952.000 km, đường sông dài 95.900 km (tổng đường sử dụng với mục đích thông thương). Nga là nước đứng đầu thế giới về phát triển hệ thống đường ống, với hệ thống đường ống dẫn dầu thô là 48.000 km; sản phẩm dầu khí là 15.000 km, khí gas tự nhiên là 140.000 km (số liệu năm 1998).
Cảng và hải cảng; Arkhangel'sk, Astrakhan, Kaliningrad, Kazan Khabarovsk, Moscow, Murmansk, Nakhodka, Nevelsk, Novorossisk Petropavlovsk, Kamchatskiy, Saint Petersburg, Rostov, Sochi, Tuapse, Vladivostok, Volgograd, Vostochnyy, Vyborg.
Đội tàu buôn: Tổng cộng có 878 tàu (1000 GTR hoặc hơn) tổng trọng lượng là 4.314.485 GTR/5.344.958 DWT. Số lượng tàu theo loại là: chở xà lan, chở hàng trọng tải lớn 20, chở hàng 543, chở dầu và hoá dầu 4, hàng hoá kết hợp 21, kết hợp dầu và quặng 7, chở container 31, chở hàng đa phương thức 1, chở khách 35 , kết hợp khách và hàng 3, chở dầu 164, chở hàng đông lạnh 24, cuộn lên/ cuộn xuống 17, chở khách tuyến đướng ngắn 7.
Số lượng sân bay: Theo số liệu năm 2000, Liên Bang Nga có 2.743 sân bay.
Nhận định chung về hiện trạng và triển vọng kinh tế Liên Bang Nga
Đánh giá khái quát về kinh tế Liên Bang Nga: Hiện nay, nền kinh tế Nga đang tăng trưởng nhanh, GDP tăng cao, dự trữ ngoại hối tăng và thặng dư thương mại. Theo đánh giá gần đây, mức lạm phát vừa phải, tiền tệ ổn định, cải cách thúê tiến triển tốt và bước đầu có kết quả lạc quan, khung luật pháp đang được hoàn thiện. Những hậu quả của cuộc khung rhoảng năm 1998 đang mờ nhạt dần và kinh tế đang có dấu hiệu phục hồi nhanh ở nhiều khu vực. Các thành tựu kinh tế làm nổi bật lên vị thế và khả năng của chính quyền Tổng thống Putin và mở đường cho cuộc cải cách trong tương lai. Đến năm 2001, Nga đã có dấu hiệu tăng trưởng kinh tế trong năm thứ ba liên tiếp. GDP năm 2000 ở mức khoảng 251 tỷ USD, theo ước tính chính thức, GDP năm 2001 tăng 3 đến 4% và được ổn định trong các năm 2002 đến 2004. Những con số này lạc quan hơn nhiều so với tăng trưởng kinh tế của những năm 1990. Mặc dù giá dầu cao là nguyên nhân quan trọng, nhưng nền kinh tế phát triển hơn là nhân tố chủ yếu quyết định tăng trưởng GDP. Sản lượng của công nghiệp tăng mạnh là 9% năm 2000 so với 8.1% năm 1999. Tuy nhiên tăng trưởng GDP trên đầu người hiện nay mới chỉ đạt ở mức 1.707 USD, thấp hơn mức có thể đạt được của một với dân trí cao và tài nguyên phong phú như Liên Bang Nga.
Các nhà làm luật đặc biệt quan tâm đến những rủi ro của nền kinh tế, đáng kể nhất là tình trạng lạm phát. Đến giữa năm 2001, lạm phát ở mức 23,7% hàng năm, cao hơn nhiều so với chỉ tiêu phấn đấu của nước này là 14% và tiếp tục ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của đồng Rup. Sự phá giá kinh khủng của đồng Rup vào năm 1998 đã nâng đỡ khả năng cạnh tranh cho các nhà sản xuất Nga.
Ước tính tổng đầu tư nước ngoài ở Nga hiện nay khoảng 32 tỷ USD. Mxy là nước đầu tư lớn nhất tại Nga, sau đó Đức, tuy nhiên đầu tư của Mỹ chỉ khoảng 7 tỷ USD, tương đương với mức đầu tư tại Costa Rica. Nhưng vẫn còn những dấu hiệu lạc quan sẽ gia tăng đầu tư. Nhiều công ty của Mỹ với mục tiêu dài hạn tại Nga đang bắt đầu quay trở lại và có kế hoạch mở rộng hoạt động. Vào nửa đầu năm 2001 những tập đoàn lớn của Mỹ như General Motors và Ford đã đầu tư trực tiếp lớn vào Nga. Tỷ giá tín dụng của GoR tăng lên vào tháng 7 năm 2001, lên đến mức khiêm tốn nhất của trước cuộc khủng hoảng 1998. Standard and Poor đã đưa khoản nợ dài hạn của Nga "B-" lên thành "B", và nợ ngắn hạn từ "C" lên "B". S và P có những quyết định này dựa trên sự gia tăng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Nga. Tuy nhiên, sự yếu kém của hệ thống ngân hàng Nga trực tiếp ảnh hưởng mạnh đến sự tăng trưởng thương mại, đặc biệt với những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những người gửi tiền tiềm năng vẫn luôn nghi ngờ ngân hàng, và rõ ràng thiếu cả sự quan tâm lẫn hiểu biết những khoản cho vay nhỏ của các ngân hàng.
Sức mua hàng của người tiêu dùng càng gia tăng, sau khi thu nhập cá nhân giảm 30% do hậu quả cuộc khủng hoảng năm 1998. Việc sử dụng phương thức hàng đổi hàng đã từng chiếm khoảng 70 đến 80% tổng số giao dịch của Nga, đã giảm mạnh do hệ thống tiền tệ có khả năng thanh khoản trở lại.
Đánh giá về các lĩnh vực tăng trưởng chủ yếu: Công nghiệp dầu khí gas được coi là ngành đi đầu cả về quy mô thị trường và tiềm năng tăng trưởng không chỉ đơn giản bởi giá dầu tiếp tục cao mà còn vì các nguồn tài chính mới, như các dự án đầu tư phương tây và các dự án về đường dẫn dầu tăng lên. Viễn thông có doanh số lớn thứ hai về triển vọng đầu tư, Nga có nhu cầu mạnh để hiện đại hoá cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc, và ngành này đang mở thông qua tư hữu hoá, gia tăng cạnh tranh và thu hút đầu tư nước ngoài. Nhu cầu của người tiêu dùng về máy tính và công nghệ có liên quan ngày càng lớn. Tuy nhiên thu nhập dành cho người tiêu dùng ngày càng thấp, vì thế phần cứng máy tính sẽ chỉ giới hạn ở những người tiêu dùng là doanh nghiệp. Nếu thu nhập tiếp tục tăng, nhu cầu về các sản phẩm tiêu dùng có thể tăng mạnh, mặc dù cạnh tranh của Châu Âu và các nguồn khác rất mạnh.
Có thể có sự gia tăng doanh số bán lớn trong những khu vực như thiết bị hầm mỏ và xây dựng, thiết bị tự động, máy bay, thiết bị nông nghiệp và chế biến thức ăn những nành này bị ảnh hưởng do khó khăn về tài chính từ các tổ chức tín dụng xuất khẩu của Nga và trong một số trường hợp, cả những hàng rào điều tiết của Chính phủ.
Thực hiện cải cách và tăng trưởng kinh tế hợp lý, Nga có khả năng trở thành một thị trường cho thiết bị công nghiệp và các dịch vụ cơ khí của Mỹ vì những mặt hàng này cần thiết để nâng cấp công nghiệp và nông nghiệp của Nga. Trong thời gian các ngành như nhôm, thép, thiết bị giao thông, chế biến thực phẩm và lâm sản có thể có dòng tiền hiệu quả và có triển vọng cho thương mại và đầu tư, trong dài hạn, nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của Mỹ như thiết bị nông nghiệp và công nghệ chế biến thực phẩm, đặc biệt khi các vấn đề ruộng đất đã được giải quyết. Về ngắn hạn, có nhu cầu về thực phẩm bao gồm thịt gia cầm, thịt đông lạnh, và thịt đã qua chế biến, cá, cạc mặt hàng hải sản, hoa quả tươi và thức ăn cho vật nuôi. Người ta hy vọng rằng với tiến trình xây dựng chương trình hỗ trợ lương thực của Mỹ ở Nga, những mặt hàng sau và nông sản sẽ có tiềm năng xuất khẩu tốt: lúa mỳ, bột mỳ, đậu nành, đồ ăn và bánh đậu nành, các hạt thức ăn gia súc và hạt giống.
Đánh giá về thực trạng và triển vọng tài chính và ngân sách của Liên Bang Nga: Nga đang thặng dư khoảng 280 tỷ Rup (9,6 tỷ USD) trong tổng ngân sách năm 2000 là 1,93 tỷ Rup (40 tỷ USD). Các nhà sản xuất dầu mỏ của Nga mang lại nguồn thuế lớn, và giá dầu thế giới cao cho phép các công ty này có được lợi nhuận khổng lồ và thường trả thuế cao. Ước tính nguồn thu ngân sách Nhà nước đạt mức 49,7 tỷ USD vào năm 2002, 54,86 tỷ USD vào năm 2003 và khoảng 86 tỷ USD vào năm 2004.
Khoảng 14 tỷ USD tương đương 35% ngân sách năm 2001 được phân bổ để trả khoảng 144 tỷ USD nợ nước ngoài, trong đó gồm cả 48 tỷ USD Nga nợ Câu lạc Paris.
2.2.2. Các thủ tục và chấp nhận nhập khẩu chè tạI thị trường LB Nga
Về quản trị nhập khẩu chè:
LB Nga áp dụnh hệ thống pháp lý để quản lý nhập khẩu chè gồm q+ Luật Liên bang (được thông qua tháng 1/1999 )
+ Luật về các biện pháp bảo vệ lợI ích của liên bang Nga trong hoạt độnh ngoại thương (được Lưỡng viện thông qua 14/4/1998 ).
+ Luật về “Điều hành Nhà nước về hoạt động ngoại thương”
+ Luật Liên bang về ngân hàng và hoạt động của ngân hàng (được thông qua năm 1996 ).
+ Luật thống nhất thuế quan mớI (có hiệu lực từ 1/1/2001 )
+ Luật sửa đổI về chứng nhận sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của Nga ( có hiệu lực từ 31/7/1998 )
+ Luật HảI quan LB Nga
+ Luật bảo hộ quyền sở hữư trí tuệ ( có hiệu lực từ 1992 )
+ Luật thuế doanh nghiệp
Hệ thống pháp luật nêu trên của LB Nga đã tạo lập khung khổ pháp lý cho các hoạt động giao dịch thương mại , thủ tục nhập khẩu , thanh toán , thuế và các biện pháp phi thuế để quản lý hoạt động nhập khẩu hàng hoá nói chung , mặt hàng chè nói riêng.
Các cơ quan hành chính điều hành và quản lý nhập khẩu chè gồm : Bộ phát triển Kinh tế và Thương mại Nga , Bộ Nông nghiệp , Tổng cục Hải quan Nga, Uỷ ban tiêu chuẩn quốc gia Nga.
Hệ thống chấp nhận nhập khẩu :
LB Nga áp dụng hệ thống “ Giấy bảo đảm “ và “ Giấy chứng nhận tiêu chuẩn “ do Uỷ ban tiêu chuẩn quốc gia Nga và Bộ Nông nghiệp Nga cấp để làm thủ tục thông qua nhằm kiểm soát nhập khẩu chè vào thị trường Nga .
LB Nga cũng chấp thuận nhập khẩu chè theo khu vực gửi hàng , nhập khẩu chè qua nước thứ ba và chấp thuận thanh toán liên quan đến các phương thức thanh toán đặc biệt như : hàng đổi hàng , thanh toán ứng trước , thuê mua (Leasing) ,ký phiếu.
* Các quy định của LB Nga về thủ tục nhập khẩu chè
quy định về nhãn mác bao bì : Các lô hàng chè vận chuyển tới Nga phải được ghi nhãn mác bằng tiếng Nga, được đóng gói theo khối lượng thể tích hoặc trọng lượng bằng bìa các tông và hộp gỗ thưa , hoặc hàng rời chở container tuỳ theo hợp đồng ngoại thương giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu ( chè đóng bao trọng lượng 60 kg , chè đóng gói dướI 3 kg , chè phải đóng bằng màng mỏng trong chân không hoặc bằng túi giấy nến vớI trọng lượng từ 50-250 kg)
Bao bì bên ngoài phảI có mác của ngườI gửI hàng, mác của cảng và cần được đánh số theo đúng phiếu đóng gói, tên hợp đồng ngoạI thương cũng như phảI được ghi trên bao bì bên ngoài lô hàng.
Bao bì sản phẩm chè (bao bì bên trong) phảI có nhãn sinh thái , xuất xứ chè, chủng loạI chè , dạng sản phẩm chè theo hệ thống tiêu chuẩn qui định của Uỷ ban tiêu chuẩn quốc gia Nga
Qui định về trị giá và thanh toán: Nhà xuât khẩu chè cần ghi giá bằng đồng usd vớI giá CIF một cảng lớn hoặc giá CIF moscow ( các cảng và hảI cảng lớn của nga có thể tham khảo trên các trang webs).Tất cả các giao dịch thương mạI bằng ngoạI tệ mạnh tiến hành vớI các công ty hoặc tổ chức của nga phảI được tiến hành qua các ngân hàng thương mạI được phép của chính phủ.
Qui định về hoá đơn thương mạI : hoá đơn thương mạI phảI bao gồm các nộI dung sau:1. nước xuất xứ;2 dạng sản phẩm đóng gói; 3 mác và số lượng bao bì; 4 trọng lượng bao bì(tịnh ,bao bì, tổng trọng lượng); 5 số lượng và mô tả hàng hoá ; 6 giá đơn vị và tổng giá trị chuyến hàng; 7 giá bán cho ngườI mua; 8 địa diểm xuất phát cuốI cùng của nước xuất khẩu ra ngoài và cảng của nga; 9 vân đơn; 10 phiếu đóng gói; 11 phiếu hàng; 12 giấy chứng nhận bảo hiểm.
Nhà xuất khẩu phảI cung cấp ít nhất bảy copy hoá đơn thương mạI khi làm thủ tục hảI quan( tương ứng vớI số bản qui định trong hợp đồng, qui định cũng cần phảI phù hợp); trong đó vận đơn cần ít nhất ba bản copy. phiếu đóng gói cần sáu bản copy .phiếu hàng : mỗI kiện, bao hang phảI có 4 bản copy.
Giấy chứng nhân tiêu chuẩn : bắt buộc các nhà xuất khẩu chè khi đưa hàng vào thị trường nga phảI có giấy chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng và an toàn , vệ sinh thực phâm, đủ tiêu chuẩn do Uỷ ban tiêu chuẩn quốc gia qui định.Trong đó, giấy chứng nhận vệ sinh thực phẩm của chè do cơ quan có thẩm quyền của nước xuất xứ cấp ,giấy chứng nhận chè an
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KQ670.doc