Luận văn Giải quyết khiếu nại về bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị

LỜI CAM ĐOAN . i

LỜI CẢM ƠN.ii

MỤC LỤC.iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT .vi

MỞ ĐẦU . 1

1. Tính cấp thiết của đề tài . 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu . 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn. 6

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn . 6

7. Kết cấu của luận văn. 7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI. 8

1.1. Khái niệm, mục đích, vai trò của giải quyết khiếu nại. 8

1.1.1. Khái niệm về khiếu nại . 8

1.1.2. Khái niệm về giải quyết khiếu nại . 12

1.1.3. Mục đích, ý nghĩa của việc giải quyết khiếu nại . 16

1.2. Giải quyết khiếu nại về BHXH . 18

1.2.1. Khái niệm khiếu nại về BHXH. 18

1.2.2. Nguyên tắc giải quyết khiếu nại về BHXH . 19

1.2.3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại về BHXH . 20

1.2.4. Quy trình giải quyết khiếu nại về BHXH . 22

1.2.4.1. Hồ sơ giải quyết khiếu nại. 22

1.2.4.2. Trình tự giải quyết khiếu nại . 22

pdf85 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/03/2022 | Lượt xem: 351 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết khiếu nại về bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến và đơn vị được giao nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc, kiểm tra công tác giải quyết khiếu nại. Thứ sáu, công khai quyết định giải quyết khiếu nại Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai có trách nhiệm công khai quyết định giải quyết khiếu nại theo một trong các hình thức sau: công bố tại cuộc họp cơ quan, tổ chức nơi người bị khiếu nại công tác, niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức đã giải quyết khiếu nại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết, thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng gồm báo nói, báo hình, báo viết và báo điện tử. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình khiếu nại về BHXH và giải quyết khiếu nại về BHXH 1.3.1. Quy định của pháp luật và các chính sách về BHXH, BHYT Sự hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật về giải quyết khiếu nại và chính sách BHXH, BHYT là rất cần thiết, bởi vì hiệu quả của việc giải quyết khiếu nại phụ thuộc vào mức độ hoàn chỉnh của pháp luật. Cơ chế, chính sách, pháp luật 29 còn có những bất cập, chưa phù hợp thực tế, văn bản hướng dẫn thực hiện luật ban hành chậm và thiếu tính đồng bộ, dẫn đến gặp khó khăn trong thực hiện. Quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về chính sách BHXH, BHYT nói riêng vẫn còn bất cập, có một số chính sách chưa thực sự bao quát hết những trường hợp cụ thể, phức tạp của đời sống xã hội. Do đó khi thực hiện các chính sách về BHXH, BHYT, cơ quan BHXH thường gặp vướng mắc như việc thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT còn thiếu thống nhất và công bằng do việc ban hành các văn bản hướng dẫn không kịp thời gây nên những thắc mắc, bất bình trong nhân dân. 1.3.2. Bộ máy và cán bộ công chức làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại Tổ chức bộ máy giải quyết khiếu nại thể hiện ở việc bố trí, sắp xếp nhân sự, cơ cấu tổ chức, quy định trách nhiệm, phân công, phối hợp công tác trong hoạt động giải quyết khiếu nại. Hoạt động giải quyết khiếu nại về BHXH là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm, đòi hỏi phải có một bộ máy giải quyết và đội ngũ cán bộ công chức làm công tác giải quyết khiếu nại chuyên trách. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại còn hạn chế về cả chất lượng và số lượng. Đa số cán bộ làm công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại là kiêm nhiệm và không được đào tạo đúng chuyên ngành, nên giải thích, hướng dẫn cho người dân nhiều khi còn chưa thỏa đáng, dẫn đến phát sinh đơn thư khiếu nại. Do đó, việc tổ chức một bộ phận chuyên trách tiếp nhận và tham mưu trực tiếp giải quyết khiếu nại về BHXH là yêu cầu cấp thiết. Cùng với đó là xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong giải quyết khiếu nại để nâng cao hiệu quả của việc giải quyết khiếu nại về BHXH. Trong hoạt động giải quyết khiếu nại, yếu tố nhân sự thể hiện ở hai nhóm là: lãnh đạo và cán bộ, công chức trực làm công tác tiếp dân, tham mưu 30 giải quyết khiếu nại. Mỗi nhóm yếu tố này đều có ảnh hưởng nhất định đến toàn bộ quá trình giải quyết khiếu nại. Thứ nhất, nhận thức, trách nhiệm, phẩm chất, năng lực của người lãnh đạo ảnh hưởng lớn đến công tác giải quyết khiếu nại. Người lãnh đạo đảm nhận vai trò và trách nhiệm về chất lượng các công việc do họ trực tiếp quản lý và điều hành, trong đó có hoạt động giải quyết khiếu nại. Trong một cơ quan, tổ chức, phong cách lãnh đạo của người đứng đầu có ảnh hưởng đến thái độ, hành vi, không khí làm việc của cán bộ nhân viên, mà cụ thể ở đây là cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân. Đây là đội ngũ tiếp xúc trực tiếp với người dân và có sự ảnh hưởng lớn đến thái độ của người dân đi khiếu kiện. Thứ hai, phẩm chất, năng lực của cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại ảnh hưởng trực tiếp, quan trọng nhất đến chất lượng và hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại. Đây là yếu tố quan trọng vì cán bộ, công chức là người tiếp xúc trực tiếp, tiếp nhận, giải quyết nhu cầu của người dân. 1.3.3. Điều kiện kinh tế xã hội và trình độ dân trí Điều kiện kinh tế xã hội và trình độ dân trí đã tác động không nhỏ đến công tác giải quyết chế độ BHXH và khiếu nại, giải quyết khiếu nại về BHXH. Phong tục, tập quán tại mỗi địa phương là những thói quen hình thành từ lâu đời, trở thành một nét văn hóa của địa phương nhưng cũng có thể trở thành những rào cản của địa phương trong thực thi các công việc hành chính, trong đó có công tác giải quyết khiếu nại về BHXH. Trình độ pháp luật của cán bộ, công chức ở mỗi địa phương là khả năng nhận thức, hiểu biết và thái độ ứng xử của họ trước các quy định của pháp luật và các tình huống pháp luật. Nhìn chung, khi cán bộ, công chức có kiến thức pháp luật vững vàng, có tâm trong sáng thì sẽ giải quyết các tình huống 31 pháp luật một cách chính xác. Ngược lại, nếu cán bộ, công chức chưa nắm vững pháp luật tất yếu sẽ giải quyết tùy tiện hoặc không dám giải quyết công việc, nhất là công tác giải quyết khiếu nại khiến cho sự việc kéo dài, không được giải quyết dứt điểm hoặc làm phát sinh thêm những khiếu kiện không đáng có. Đời sống khó khăn và dân trí thấp làm cho một bộ phận người dân có những đòi hỏi, yêu cầu không chính đáng hoặc vượt quá khuôn khổ quy định của pháp luật. Khi người dân hiểu và tôn trọng pháp luật thì sẽ giảm bớt các khiếu nại không đáng có, hoặc khi khiếu nại đã được giải quyết thì họ sẽ nghiêm túc chấp hành giúp cho việc giải quyết khiếu nại được hoàn thành. Công tác giải quyết khiếu nại còn gặp nhiều khó khăn do có nhiều trường hợp đương sự thiếu hiểu biết, đó là chưa kể những trường hợp lợi dụng quyền công dân khiếu nại nhiều lần, khiếu nại vượt cấp. Một số trường hợp nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị một vài cá nhân có động cơ không tốt xúi giục và cùng với yếu tố lợi ích cá nhân trực tiếp liên quan đến việc hưởng chế độ chính sách BHXH, BHYT, mặc dù vụ việc đã được giải quyết đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân nhưng bộ phận này luôn tìm mọi kẽ hở để lách luật, tìm đủ lý do để yêu cầu cơ quan hành chính giải quyết các đòi hỏi của họ. Khi những đòi hỏi không được giải quyết theo ý muốn họ quay ra vận động, lôi kéo, xúi giục người khác cùng khiếu kiện. 1.3.4. Yếu tố ứng dụng công nghệ thông tin Ứng dụng CNTT trong các hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói chung và trong hoạt động giải quyết khiếu nại về BHXH nói riêng là một xu hướng tất yếu, bởi vì hiện nay nhà nước ta đang hướng tới xây dựng một chính phủ hiện đại và hiệu quả, là một trong những điểm trọng tâm trong quá 32 trình xã hội hóa thông tin, phát triển dân chủ và củng cố bộ máy chính quyền các cấp. Tuy nhiên, trên thực tế việc triển khai ứng dụng CNTT trong nội bộ cơ quan Nhà nước còn nhiều hạn chế, chưa khai thác hết chức năng, công suất của hệ thống đã được đầu tư, khi tỷ lệ các văn bản, tài liệu trao đổi giữa các cơ quan hoàn toàn dưới dạng điện tử còn thấp. Chính điều này cũng góp phần ảnh hưởng đến hoạt động của công tác tiếp nhận đơn thư và giải quyết khiếu nại. Việc quản lý hoạt động của các đoàn thanh tra, kiểm tra cũng như quản lý việc giải quyết đơn thư tốn nhiều thời gian và chưa khoa học. Đồng thời, việc tra cứu hồ sơ, dữ liệu liên quan để giải quyết đơn thư khiếu nại nếu không ứng dụng CNTT sẽ tốn kém nhiều thời gian và cho kết quả rất hạn chế. Vì vậy, việc nghiên cứu ứng dụng CNTT, xây dựng phần mềm trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại là hết sức cần thiết nhằm nâng cao tính hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động giải quyết khiếu nại. 33 Tiểu kết chương 1 Mục đích quan trọng nhất của công tác giải quyết khiếu nại là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật ghi nhận. Mục đích quan trọng nữa của công tác giải quyết khiếu nại là hiện thực hóa các chính sách, đường lối của lãnh đạo Đảng và Nhà nước chỉ đạo trong công tác giải quyết khiếu nại. Trong phần trình bày những vấn đề lý luận về giải quyết khiếu nại, luận văn đã xác định được khái niệm về khiếu nại và chỉ ra vai trò của việc giải quyết khiếu nại thuộc lĩnh vực BHXH. Đối với giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của cấp nào thì việc quy định và giới hạn thẩm quyền giải quyết khiếu nại là đặc điểm để nhận dạng và phân biệt giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của các chủ thể giải quyết khiếu nại. Để bảo đảm việc ra quyết định giải quyết khiếu nại, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại nói chung, lĩnh vực BHXH nói riêng, việc giải quyết khiếu nại phải tuân theo các quy định của thủ tục hành chính giải quyết khiếu nại được pháp luật quy định. 34 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ 2.1. Những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến tình hình khiếu nại của công dân về BHXH trên địa bàn tỉnh Quảng Trị và nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại trong lĩnh vực BHXH 2.1.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến giải quyết khiếu nại về BHXH 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên Quảng Trị là một tỉnh ven biển thuộc vùng cực Bắc Trung Bộ Việt Nam, nằm trên tọa độ địa lý từ 16018 đến 17010 vĩ độ Bắc, 106032 đến 107034 kinh độ Đông, Quảng Trị có tổng diện tích tự nhiên 4.739,82 km2 với 3/4 diện tích là đồi núi, có 10 đơn vị hành chính: 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện với 141 xã, phường thị trấn. Đông Hà là thành phố tỉnh lỵ Quảng Trị, phía Bắc giáp huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, phía Nam giáp huyện Phong Điền và A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Savanakhet và Salavan, nước CHDCND Lào. Tỉnh Quảng Trị có khu phi quân sự vĩ tuyến 17, là giới tuyến chia cắt miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và miền Nam Việt Nam Cộng hòa, do đó cũng là một chiến trường ác liệt nhất trong suốt 20 năm của cuộc Chiến tranh Việt Nam giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975. Địa hình Quảng Trị rất phức tạp và bị chia cắt mạnh bởi mạng lưới nhiều sông, suối, đồi núi, bãi cát, cồn cát, xen kẽ nhau và được chia ra thành 3 vùng chính: Vùng núi phía Tây của tỉnh có 47 xã, thị trấn chiếm 65,8% diện tích tự nhiên; Vùng bãi cát, cồn cát ở ven biển phía Đông kéo dài dọc theo chiều dài của tỉnh có 14 xã và chiếm 7,5% diện tích tự nhiên; Vùng đồng 35 bằng và trung du có 79 xã và chiếm 26,7% tổng diện tích tự nhiên (trong đó riêng vùng đồng bằng là 11,5%). Quảng Trị nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới tương đối điển hình, được coi là vùng có khí hậu khá khắc nghiệt, chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam khô nóng thổi mạnh từ tháng 3 đến tháng 9 gây nên hạn hán, từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc kèm theo mưa dễ gây nên lũ lụt. 2.1.1.2. Tình hình kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng tác động đến việc giải quyết khiếu nại về BHXH Sau 30 năm đổi mới, tỉnh Quảng Trị đã từng bước phát triển về mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Kinh tế của tỉnh trong những năm qua có sự chuyển dịch tích cực, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt kết quả khá, lạm phát được kiểm soát, môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, sản xuất nông nghiệp tốt, an sinh xã hội được quan tâm thực hiện và đạt được những kết quả nhất định. Thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016 - 2020, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi mới, tỉnh Quảng Trị vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Tại Quảng Trị, trong những năm qua giá một số nông sản xuống thấp, làm cho một bộ phận dân cư gặp khó khăn; tình hình thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp; môi trường biển tuy đã phục hồi nhưng ảnh hưởng vẫn còn nặng nề; thu ngân sách, thu hút đầu tư còn nhiều khó khăn; môi trường kinh doanh tuy có cải thiện, nhưng số doanh nghiệp thành lập mới chưa nhiều; doanh nghiệp tại Quảng Trị chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nên gặp nhiều rủi ro trong cuộc cạnh tranh hiện nay. Dân số trung bình của tỉnh là 625.044 người (theo số liệu thống kê năm 2018), thuộc loại dân số thấp so với các tỉnh, thành khác trong cả nước. Dân cư phân bố không đồng đều giữa các vùng lãnh thổ, có 176.700 người là đồng bào 36 dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 28,27% so với dân số toàn tỉnh, sống tập trung chủ yếu ở hai huyện Đa Krông, Hướng Hoá và một số xã thuộc các huyện Gio Linh, huyện Vĩnh Linh, huyện Cam Lộ, với trình độ dân trí thấp, nhận thức của bộ phận người dân về chính sách, pháp luật về BHXH và pháp luật về khiếu nại còn nhiều hạn chế nên đây cũng được xác định là một đặc điểm có liên quan đến công tác giải quyết khiếu nại về BHXH của địa phương. Mật độ dân số bình quân của tỉnh là 131 người/km2. Dân số của tỉnh phân bố không đồng đều giữa các đơn vị hành chính, mật độ dân số cao nhất là thành phố Đông Hà 1.212 người/km2; trong khi đó đơn vị có mật độ thấp nhất là huyện Đa Krông 31 người/km2; huyện Hướng Hóa 70 người/km2. Về tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) năm 2018 (GSS2010) đạt 19.501,5 tỷ đồng, tăng 7,12% so với năm 2017 (Năm 2016 tăng 6,35%, Năm 2017 tăng 7,02%); đã khẳng định tính kịp thời và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành, các địa phương. Trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ước tính đạt 3.927,7 tỷ đồng, tăng 5,56%, đóng góp 1,14 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp - xây dựng ước tính đạt 4.623 tỷ đồng, tăng 9,14%, đóng góp 2,13 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ ước tính đạt 10.186,6 tỷ đồng, tăng 6,77%, đóng góp 3,55 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước tính đạt 764,2 tỷ đồng, tăng 8,01%, đóng góp 0,3 điểm phần trăm. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,56%, khu vực này năm 2018 cây lâu năm, chăn nuôi và thủy sản gặp một số khó khăn nên sản lượng tăng chậm; tuy nhiên, cây hàng năm sản lượng lương thực có hạt đạt 28,98 vạn tấn, tăng 12,59% cao nhất từ trước đến nay; ngành lâm nghiệp sản lượng gỗ khai thác đạt 850 nghìn m3, tăng 22,10%...đã làm cho khu vực này tăng khá cao. 37 Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,14%. Ngành công nghiệp tăng 9,88%, đóng góp 1,24% thấp hơn nhiều so với năm 2017; nguyên nhân chủ yếu là do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp 8,10% (Năm 2017 tăng 15,50%). Năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo gặp khó khăn; một số doanh nghiệp sản xuất cầm chừng do thiếu nguyên liệu; một số doanh nghiệp sản xuất đã gần hết công suất nên tốc độ tăng chậm lại; một số doanh nghiệp khó khăn về thị trường tiêu thụ sản phẩm; Hơn nữa, năm nay số dự án sản xuất công nghiệp hoàn thành đi vào hoạt động không nhiều, quy mô nhỏ nên tốc độ tăng thấp. Ngành xây dựng tăng 8,26%, đóng góp 0,88 điểm phần trăm (Năm 2017 tăng 6,80%); nguyên nhân chủ yếu là do vốn đầu tư thực hiện tăng khá. Tình hình đầu tư trên địa bàn tỉnh còn nhiều khó khăn do tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ của Chính phủ; nguồn vốn ngân sách tỉnh hạn hẹp, năng lực của doanh nghiệp và hộ dân cư còn hạn chếnhưng các cấp, các ngành đã có nhiều nổ lực trong thu hút vốn đầu tư, khai thác có hiệu quả các nguồn vốn, xã hội hóa trong đầu tưđặc biệt năm nay, kế hoạch phân bổ vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước tỉnh quản lý tăng gần 56% so với năm 2017 nên vốn đầu tư phát triển thực hiện năm 2018 tăng khá. Khu vực dịch vụ tăng 6,77%. Năm 2018 kinh tế phát triển khá, sức mua của người dân tăng lên nên một số ngành dịch vụ kinh doanh có tỷ trọng giá trị tăng thêm lớn có tốc độ tăng trưởng khá như: bán buôn, bán lẻ tăng 7,04%; thông tin truyền thông tăng 8,07%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,67%; hoạt động hành chính và dịch vụ hổ trợ tăng 8,24%...Tuy nhiên, các ngành dịch vụ không kinh doanh như: quản lý nhà nước chỉ tăng 6,59%, giáo dục đào tạo tăng 6,04%do biên chế ổn định, tiết kiệm chi thường xuyên...làm cho khu vực này tăng thấp hơn năm 2017 (Năm 2017 tăng 7,01%). Quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước tính đạt 27.503,1 tỷ đồng. Về cơ cấu kinh tế: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ 38 trọng 20,68%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 24,15%; khu vực dịch vụ chiếm 51,25%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 3,92% (Cơ cấu tương ứng của năm 2017 là: 20,77%; 24,11%; 51,23%; 3,89%). GRDP bình quân đầu người năm 2018 theo giá hiện hành ước tính đạt 43,60 triệu đồng, tăng 8,7% so với năm 2017. Tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được củng cố và tăng cường. Nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương được triển khai kịp thời, đảm bảo đúng kế hoạch. Lực lượng vũ trang đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị, văn hóa quan trọng, các ngày lễ, Tết trên địa bàn. Tình hình phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Trị trong những năm qua có nhiều biến động và thách thức. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy có tăng nhưng không được như kỳ vọng. Xuất phát điểm của nền kinh tế còn thấp, cơ cấu kinh tế còn lạc hậu, kinh tế tuy có sự tăng trưởng khá nhưng không vững chắc, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn rất hạn chế. Thu ngân sách mới đảm bảo được 1/3 mức chi ngân sách và phải nhờ trung ương hỗ trợ 2/3. Đời sống của một bộ phận khá lớn người dân còn khó khăn, nhất là dân cư vùng nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng. Chính các yếu tố trên đã tác động không nhỏ đến công tác giải quyết chế độ BHXH và khiếu nại, giải quyết khiếu nại về BHXH. Đời sống khó khăn và dân trí thấp làm cho một bộ phận người dân có những đòi hỏi, yêu cầu không chính đáng hoặc vượt quá khuôn khổ quy định của pháp luật, gây áp lực đối với cơ quan BHXH. 2.1.2. Tình hình khiếu nại của công dân tại cơ quan BHXH tỉnh Quảng Trị Hiện nay tình hình khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân về chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh Quảng Trị vẫn còn diễn biến 39 khá phức tạp. Tổng hợp tình hình tiếp công dân trong 5 năm qua (từ năm 2014 đến năm 2018) BHXH tỉnh Quảng Trị đã tiếp 470 lượt công dân, tiếp nhận 130 đơn thư. Trong đó, đơn thư có nội dung khiếu nại chiếm đa số, chiếm tỉ lệ là 93,1% với 121 đơn thư, đơn thư tố cáo là 9 đơn, chiếm tỉ lệ là 6,9%. Nội dung khiếu nại của công dân chủ yếu tập trung: Khiếu nại về việc giải quyết hưởng chế độ BHXH chưa thỏa đáng, việc cắt trợ cấp mất sức lao động, tính thời gian công tác để hưởng chế độ BHXH; hưởng trợ cấp hàng tháng theo Quyết định số 613/QĐ-TTg ngày 06/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ, truy đóng BHXH, điều chỉnh lương hưu, mức hưởng BHYT, thanh toán BHYT trong trường hợp tai nạn giao thông và trường hợp cấp cứu, đối tượng khai man hồ sơ để hưởng chế độ BHXH, giả mạo chữ ký lập giấy ủy quyền nhận trợ cấp tuất một lần không đúng quy định; đơn vị sử dụng lao động vi phạm pháp luật về BHXH. Công tác giải quyết khiếu nại về BHXH trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có những đặc điểm sau: Thứ nhất, về công tác tiếp dân: Tiếp công dân là hoạt động quan trọng trong giải quyết khiếu nại. Hoạt động tiếp công dân và xử lý đơn thư nhằm tiếp nhận và phân loại các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan việc thực hiện chế độ chính sách BHXH, từ đó phát hiện ra những sơ hở, yếu kém để có các biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời. Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác này, BHXH Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy định về tiếp công dân trong đó xác định rõ mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác tiếp công dân, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan BHXH, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan BHXH các cấp trong việc trực tiếp tiếp công dân, tổ chức công tác tiếp công dân cũng như bố trí cán bộ, đầu 40 tư cơ sở vật chất, trang bị cần thiết cho trụ sở tiếp công dân. Thời gian qua công tác tiếp công dân đã đạt được những kết quả nhất định giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. Nhìn chung, công tác tiếp công dân tại cơ quan BHXH ngày càng được quan tâm, chú trọng và đã có những chuyển biến tích cực, thực hiện tốt công tác tiếp dân thường xuyên, định kỳ và đột xuất của lãnh đạo, do vậy đảm bảo tính chính xác, khách quan cho các kết quả giải quyết. Thông qua tiếp công dân đã giúp cho cơ quan BHXH xem xét giải quyết hoặc đôn đốc chỉ đạo giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền, đồng thời kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm. Mặt khác, qua công tác tiếp công dân đã giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thấy được những thiếu sót, sai lầm, yếu kém trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và sửa đổi, bổ sung những chính sách pháp luật không còn phù hợp, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Thứ hai, về công tác giải quyết đơn thư khiếu nại: Giải quyết đơn thư khiếu nại là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, làm tốt công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân trong tình hình hiện nay là một nhiệm vụ trọng tâm của Ngành cũng như của đơn vị, góp phần củng cố được niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, bảo đảm được công bằng xã hội, xây dựng được một bộ máy công chức viên chức của ngành BHXH trong sạch, thực sự là công bộc của dân. Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại cũng là một biện pháp hữu hiệu để đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, góp phần ổn định chính trị xã hội. Trong giải quyết khiếu nại cùng với công tác tiếp dân, công tác tiếp nhận và xử lý đơn thư là một khâu nghiệp vụ đầu tiên của công tác giải quyết khiếu nại. Việc tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại đã có nhiều đổi mới, dần 41 khắc phục tình trạng đơn thư chuyển lòng vòng, xử lý chậm, vi phạm trong quá trình xử lý. Thực tiễn cho thấy, quá trình tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại của BHXH tỉnh Quảng Trị đã được thực hiện theo đúng trình tự quy định, những đơn thư khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết đã được thụ lý giải quyết, đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền thì có văn bản trả lời và hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật. Nhìn chung các vụ việc khiếu nại đều được xem xét giải quyết đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nhiều vụ việc do lịch sử để lại như việc cắt trợ cấp mất sức lao động theo Quyết định số 60/HĐBT ngày 01/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng, việc tính thời gian công tác trước năm 1995 để hưởng BHXH do nhiều văn bản ban hành qua nhiều thời kỳ với nội dung không thống nhất về cách tính và mức hưởng. Đặc biệt là quy định về thời gian công tác với cán bộ xã, phường, giáo viên mầm non, mẫu giáo. Mặt khác đa số người lao động khiếu nại nhưng thiếu hồ sơ gốc của cá nhân, chủ yếu được lập bằng các giấy xác nhận nên rất khó khăn cho việc xem xét giải quyết khiếu nại. Thời gian qua công tác giải quyết đơn thư khiếu nại đã đạt được những kết quả nhất định, đơn thư được tiếp nhận và giải quyết dứt điểm, có hiệu quả, không có đơn thư tồn đọng, không có khiếu kiện đông người. Thông qua công tác giải quyết đơn thư khiếu nại cơ quan BHXH đã thực hiện được việc tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật liên quan đến nội dung khiếu nại của đương sự, kịp thời giải quyết những khiếu kiện của công dân và đảm bảo cho người lao động được hưởng quyền lợi BHXH, BHYT theo đúng quy định của pháp luật; tạo cho người lao động có niềm tin đối với chế độ chính sách BHXH mà Nhà nước đã đề ra. 2.1.3. Nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại về BHXH trên địa bàn tỉnh Quảng Trị 42 Khiếu nại nói chung và khiếu nại về BHXH nói riêng phát sinh do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu sau: Một là, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều bất cập, nhiều điểm còn chưa phù hợp với thực tiễn, lại thường xuyên thay đổi, sửa đổi, bổ sung gây ra khó khăn trong quá trình thực hiện, trong đó có chế độ, chính sách về BHXH, BHYT. Luật BHXH từ khi ra đời cho đến nay bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế. Sau khi Luật BHXH được ban hành, Chính phủ và các Bộ, Ngành đã tập trung xây dựng một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện về nhiều nội dung khác nhau như: quy định về chế độ BHXH bắt buộc đối với người lao động, quy định về việc điều kiện nghỉ hưu, quy định về tính thời gian công tác... Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn thực hiện chưa thực sự đồng bộ, chưa chặt chẽ, cụ thể, như với quy định “Mức lương làm căn cứ đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động” đối với người lao động thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhưng nhiều chủ sử dụng lao động đã tìm cách lách Luật bằng việc ghi mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH thấp hơn nhiều so với mức lương thực tế, khoản thu nhập chênh lệch được đưa vào các loại phụ cấp khác. Hiện tượng khá phổ biến trong doanh nghiệp đang tồn tại 3 loại lương: một chỉ để tham gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_giai_quyet_khieu_nai_ve_bao_hiem_xa_hoi_tren_dia_ba.pdf
Tài liệu liên quan