LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LY HÔN CÓ YẾU
TỐNƢỚC NGOÀI .7
1.1. Khái niệm về ly hôn, ly hôn có yếu tố nước ngoài .7
1.1.1. Khái niệm ly hôn .7
1.1.2. Khái niệm ly hôn có yếu tố nước ngoài.9
1.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn, ly hôn có yếu tố nước ngoài.13
1.2.1. Quan hệ nhân thân.13
1.2.2. Quan hệ tài sản .16
1.3. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.17
1.3.1. Các loại nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài .17
1.3.2. Mối quan hệ giữa các loại nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có
yếu tố nước ngoài.19
1.4. Nguyên tắc và phương pháp điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.20
1.4.1. Nguyên tắc điều chỉnh.20
1.4.2. Phương pháp điều chỉnh .21
Kết luận chƣơng 1 .25
CHƢƠNG 2THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ ĐIỀU ƢỚC
QUỐC TẾ MÀ VIỆT NAM KÝ KẾT VÀ THAM GIA VỀ VIỆC GIẢI
QUYẾT LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI.27
36 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 2972 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và hướng hoàn thiện pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là các quy định hiện hành của pháp luật Việt
Nam và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về ly hôn có yếu tố nước
ngoài, thực tiễn giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
6
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối của Đảng về Nhà
nước và pháp luật.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài cũng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành như lịch sử, thống kê, phân tích, tổng hợp, so
sánh, diễn giải, suy diễn logic v.vđể làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
6. Điểm mới của luận văn
So với những công trình nghiên cứu có liên quan trước đây, bên cạnh việc
làm rõ thêm những vấn đề lý luận, lịch sử mang tính cốt lõi đã được đề cập, luận
văn này tập trung đi sâu phân tích toàn diện hơn các quy định hiện hành của
pháp luật Việt Nam về ly hôn có yếu tố nước ngoài; làm rõ hơn được tính tương
thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về vấn đề ly hôn có yếu tố
nước ngoài, từ đó xác định những mặt tích cực cũng như những hạn chế trong
việc xây dựng các quy định của pháp luật Việt Nam và đề xuất phương hướng,
giải pháp hoàn thiện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương sau đây:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về ly hôn có yếu tố nước ngoài;
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết và tham gia về việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài;
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết ly hôn
có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam và phương hướng hoàn thiện pháp luật.
7
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm về ly hôn, ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, chế định ly hôn được
quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Điều 42 Bộ luật Dân sự Việt
Nam năm 2005 (BLDS 2005) quy định “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền
yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn” [5]. Khoản 1 Điều 39 của Bộ Luật Dân sự
năm 2015 quy định “Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ
chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi
con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ
và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình” [6].
Tuy nhiên, khái niệm ly hôn chỉ được quy định rõ tại Luật Hôn nhân và
gia đình. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình
hiện hành năm 2014 thì “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [32].
Xét về mặt xã hội, ly hôn chính là giải pháp giải quyết sự khủng khoảng
trong mối quan hệ vợ chồng. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng đồng thời
nó cũng là mặt không thể thiếu khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ còn là hình thức
vì tình cảm vợ chồng còn, hôn nhân không có tiếng nói chung. Trong quan hệ
8
hôn nhân, việc kết hôn giữa nam và nữ được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, hợp
pháp mà tình cảm và sự đồng cảm giữa hai bên là nguồn cội của sự tự nguyên.
Khi tình cảm không vợ chồng không còn, kết hợp với nhiều yếu tố khác khiến
cho quan hệ hôn nhân rạn nứt thì giải pháp hữu hiệu nhất và cũng là thông dụng
nhất mà các cặp vợ chồng hướng tới là ly hôn. Như vậy, pháp luật không có
quyền yêu cầu nam nữ phải kết hôn khi họ không tự nguyện và cũng không có
quyền từ chối khi họ có nhu cầu ly hôn. Việc ly hôn nhằm giải phóng cho vợ,
chồng khỏi cuộc sống chung đầy đau khổ hiện tại, giúp chồng thoát khỏi những
mâu thuẫn sâu sắc mà không thể giải quyết được.
Về mặt pháp lý, quan hệ vợ chồng được phát sinhkể từ khi vợ, chồng được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hônvà chỉ
chấm dứt khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án công nhận
về việc ly hôn. Trên thực tế, có nhiều cặp vợ chồng không còn tỉnh cảm với
nhau, không sống cùng nhau, độc lập về kinh tế cũng như các hoạt động cá nhân
khác nhưng không có Quyết định hoặc bản án của Tòa án công nhận về việc ly
hôn giữa hai vợ chồng thì về mặt pháp lý quan hệ giữa hai người vẫn là quan hệ
vợ chồng, vẫn bị ràng buộc với nhau bởi các quy định của pháp luật liên quan
đến quan hệ giữa vợ và chồng.
Trên cơ sở đó có thể hiểu một cách tổng quát nhất ly hôn là chấm dứt
quan hệ hôn nhân do Tòa án quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả
hai vợ chồng, hủy bỏ trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm của hôn nhân và các
ràng buộc dân sự khác. Tòa án là cơ quan duy nhất có trách nhiệm ra phán
quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng. Phán quyết ly hôn của Tòa án
được thể hiện dưới hai hình thức: bản án hoặc quyết định. Nếu hai bên vợ chồng
thuận tình ly hôn thỏa thuận với nhau giải quyết được tất cả các nội dung quan
9
hệ vợ chồng khi ly hôn thì Tòa án công nhận ra phán quyết dưới hình thức Quyết
định. Nếu vợ chồng có mâu thuẫn, tranh chấp thì Tòa án ra phán quyết dưới
dạng bản án ly hôn.
1.1.2. Khái niệm ly hôn có yếu tố nước ngoài
Luật Hôn nhân và Gia đình đã dành nhiều điều luật để quy định về vấn đề ly
hôn có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, cho đến nay, trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ
sung Luật hôn nhân và Gia đình cũng như các văn bản pháp luật khác vẫn chưa có
quy định rõ ràng, định nghĩa cụ thể thế nào là “Ly hôn có yếu tố nước ngoài”.
Tại Khoản 2 Điều 663 của Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định về khái
niệm quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
- Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
- Các bên tham gia đều là công dân Viêṭ Nam , pháp nhân Việt Nam nhưng
viêc̣ xác lập, thay đổi, thực hiện hoăc̣ chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài;
- Các bên tham gia đều là công dân Viêṭ Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng
đối tượng của quan hê ̣dân sự đó ở nước ngoài [6].
Quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung và quan hệ ly hôn có yếu tố nước
ngoài nói riêng thuộc phạm trù quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoàinên có thể
áp dung toàn bộ quy định của Bộ Luật Dân sự về vấn đề quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài để kết hợp với luật chuyên ngành để giải quyết quan hệ ly hôn có
yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, việc xây dựng được khái niệm ly hôn có yếu tố
nước ngoài một cách đầy đủ, toàn diện và chuẩn mực trong đạo luật chuyên
ngành là cần thiết.
Với tinh thần đó, Khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
đã quy định rõ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài như sau:
10
“Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân
và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là
công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan
hệ đó ở nước ngoài.” [32]
Mặt khác, ly hôn theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm
2015 được xem là một vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Điều 464 Bộ luật này có quy định rõ thế nào là một vụ việc dân sự. Theo đó, “Vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự thuộc một trong các trường
hợp sau đây: a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ
chức nước ngoài; b) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt
Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra
tại nước ngoài; c) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam
nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài”. [8]
Với hai quy định nêu trên ta thấy, tại Điều 464 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015
không quy định chủ thể trong vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là “người Việt Nam
định cư nước ngoài” nhưng tại Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 lại quy định
chủ thể này. Lý giải cho vấn đề này ta có thể hiểu, Điều 464 Bộ luật tố tụng Dân sự
(BLTTDS) 2015 là văn bản luật hình thức áp dụng chung có các quan hệ có yếu tố
nước ngoài. Khi có sự kiện pháp lý xảy ra trên thực tế thì cần áp dụng luật chuyên
ngành, trên sơ sở luật chung để giải quyết một vấn đề cụ thể. Mặt khác, chủ thể theo
quy định tại Điều 464 BLTTDS 2015 đã bao hàm cả “người Việt Nam định cư ở nước
ngoài”. Như vậy, có thể thấy rằng, liên quan đến vấn đề “có yếu tố nước ngoài”
trong các quy định nêu trên của các văn bản pháp luật Việt Nam đã có sự thống
nhất với nhau.
11
Theo đó, ta có thể hiểu “Ly hôn có yếu tố nước ngoài là việc chấm dứt
quan hệ vợ chồng giữa vợ và chồng mà ít nhất một trong hai bên là người nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; hoặc giữa công dân Việt Nam với
nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân theo pháp luật
nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài; hoặc tài sản liên quan đến việc ly hôn ở
nước ngoài”.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 có quy định về vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài như sau: “ 1. Việc ly
hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với
nhau thường trú ở Việt Nam được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam theo quy định của Luật này. 2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam
không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được
giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ
không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam. 3. Việc
giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật
của nước nơi có bất động sản đó.” [32].
Như vậy, khi giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài thì Tòa án không
những chỉ áp dụng pháp luật của Việt Nam mà còn phải chú ý tới pháp luật nước
ngoài. Vấn đề lựa chọn pháp luật để áp dụng trong ly hôn có yếu tố nước ngoài
cũng là một điều khá trọng. Nếu lựa chọn không đúng thì bản án hoặc Quyết
định có thể bị hủy. Đặc biệt là pháp luật cùa nước nơi thường trú chung của vợ
chồng hay là pháp luật nơi có bất động sản của vợ chồng.
Từ các cơ sở trên ta có thể thấy quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài có
một trong các yếu tố sau:
- Yếu tố chủ thể:
12
Quan hệ ly hôn được coi là có yếu tố nước ngoài khi có ít nhất một trong các
bên chủ thể tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam quy định người nước ngoài là người không có quốc tịch
Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch.
- Yếu tố làm chấm dứt quan hệ hôn nhân:
Bao gồm căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân. Đó
chính là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều kiện để xác định
việc ly hôn có yếu tố nước ngoài hay không trong trường hợp này là sự kiện
pháp lý đó phải theo pháp luật nước ngoài hoặc xảy ra ở nước ngoài.
Đối với những quan hệ này, yếu tố chủ thể không được đặt ra. Nghĩa là,
trong trường hợp các bên chủ thể tham gia đều là công dân Việt Nam, nhưng nếu
sự kiện pháp lý là chấm dứt quan hệ hôn nhân xảy ra ở nước ngoài hoặc theo
pháp luật nước ngoài thì quan hệ đó là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
- Yếu tố vị trí của tài sản liên quan đến quan hệ ly hôn:
Trong trường hợp này, không cần xét đến hai yếu tố trên, nếu tài sản liên
quan đến quan hệ ly hôn không nằm trên lãnh thổ Việt Nam mà ở nước ngoài, thì
quan hệ đó cũng được coi là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Bên cạnh đó, một quan hệ ly hôn khi không xét đến cả ba yếu tố trên nhưng
nếu quan hệ ly hôn chấm dứt bằng một bản án, quyết định ly hôn của Toà án hoặc cơ
quan khác có thẩm quyền của nước ngoài thì đó cũng là một trong những dấu hiệu
xác định quan hệ ly hôn đó là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài.
Như vậy, để xác định một quan lệ ly hôn có yếu tố nước ngoài cần xét đến
một trong các yếu tố trên, nếu đáp ứng điều kiện đối với ít nhất một yếu tố để
quan hệ ly hôn đó trở thành quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài thì không cần
xét đến các yếu tố còn lại.
13
1.2. Hậu quả pháp lý của ly hôn, ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài
Nếu kết hôn là cơ sở pháp lý để hình thành các quan hệ nhân thân và tài
sản giữa vợ và chồng thì ly hôn chính là cơ sở pháp lý để làm thay đổi hay chấm
dứt các quan hệ đó.
Luật Hôn nhân và Gia đình không có những điều khoản cụ thể, riêng biệt
quy định về quan hệ nhân thân, tài sản đối với trường hợp ly hôn có yếu tố nước
ngoài. Việc giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài phải áp dụng các quy định
pháp luật chung về điều kiện, căn cứ ly hôn.
1.2.1. Quan hệ nhân thân
Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng là những quyền liên quan đến lợi ích
tinh thần gắn liền với nhân thân của vợ chồng trong quan hệ vợ chồng, không có
nội dung kinh tế, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho
người khác.Quyền nhân thân giữa vợ và chồng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, quyền nhân thân giữa vợ và chồng phát sinh trên cơ sở kết hôn,
gắn liền với quan hệ vợ chồng trong suốt thời kì hôn nhân. Các quyền và nghĩa
vụ này chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Tức là, quan hệ nhân thân giữa
vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân sẽ được bắt đầu bằng việc đăng ký kết hôn.
Theo đó, vợ và chồng sẽ có thêm các quyền về hôn nhân gia đình theo quy định
của pháp luật. Còn sau khi quyết định, bản án của Tòa án giải quyết ly hôn có
hiệu lực hoặc khi một trong hai bên bị tuyên bố là đã chết thì quan hệ nhân thân
giữa vợ và chồng chấm dứt.
Thứ hai, quyền nhân thân là quyền gắn liền với cá nhân và không thể là
đối tượng chuyển dịch cho người khác, quyền này có tính độc lập, cá biệt hoá cá
nhân này với cá nhân khác, không thể trộn lẫn. Vì vậy, quyền nhân thân của vợ
chồng không thể chuyển giao cho người khác, không thể do người khác thực
hiện thay mà chỉ phụ thuộc giữa vợ chồng.
14
Thứ ba, các quyền nhân thân giữa vợ và chồng được pháp luật thừa nhận
và bảo vệ. Quyền nhân thân của cá nhân được quy định cụ thể tại BLDS và được
cụ thể hóa tại Luật HNGĐ với chủ thể cụ thể là vợ chồng. Quyền nhân thân của
vợ chồng được pháp luật quy định trong các quy phạm pháp luật nên có thể thấy
quyền này đã được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Thứ tư, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng thể hiện mỗi liên hệ tình cảm
giữa vợ và chồng.Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tình
nghĩa vợ chồng:"1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng,
quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc
trong gia đình.2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ
chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập,
tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng
khác."Nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, quan tâm, chăm sóc nhau được điều
chỉnh bằng các nguyên tắc đạo đức, truyền thống và theo phong tục, tập quán của
người Việt Nam rồi sau đó được nâng dần lên thành luật. Vi phạm những quy tắc
đạo đức chỉ bị xã hội lên án, vi phạm các quy tắc pháp luật sẽ bị xử phạt theo
quy định.Về nghĩa vụ chung sống, có thể hiểu rằng hôn nhân trước hết là cuộc
sống chung giữa người đàn ông và người phụ nữ: chung nhà, chung bàn ăn và
chung chăn gối. Tất nhiên, vợ và chồng không nhất thiết phải ở chung, ăn chung,
ngủ chung một cách liên tục, thường xuyên trong suốt thời kỳ hôn nhân; song, ít
nhất giữa họ luôn phải có mối liên hệ sâu đậm về phương diện sinh hoạt vật chất
và thân xác. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận một cách rõ ràng
nghĩa vụ chung sống; tuy nhiên, không thể nói rằng mục đích của hôn nhân đã
đạt được một khi hai bên kết hôn không thực sự chung sống với nhau. Việc
không chung sống liên tục trong một thời gian dài có thể dẫn đến những khó
15
khăn trong việc duy trì cơ sở đạo lý và cơ sở thực tế của quy tắc suy đoán con
chung của vợ chồng.
Thứ năm, các quyền và nghĩa vụ nhân thân thể hiện tính dân chủ, bình
đẳng giữa vợ, chồng:Vợ,chồng có quyền bình đẳng trong việc lựa chọn chỗ ở,
nơi cư trú theo Điều 20 Luật hôn nhân và gia đình 2014: "Việc lựa chọn nơi cư
trú của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập
quán, địa giới hành chính."Vợ,chồng có quyền bình đẳng trong việc lựa chọn tín
ngưỡng: Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín cho nhau. Ngoài ra, vợ chồng còn có quyền bình đẳng trong việc
lựa chọn việc làm, tham gia vào công tác xã hội theo quy định tại Điều 23 Luật
hôn nhân và gia đình: "Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau
chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ;
tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội."Vậy quan hệ pháp luật
hôn nhân và gia đình chủ yếu là các quan hệ nhân thân mang tính chất lâu dài,
bền vững được nhà nước quy định cụ thể, chặt chẽ và phù hợp trong Luật hôn
nhân và gia đình 2014.
1.2.1.1. Quan hệ giữa vợ và chồng sau ly hôn:
Cũng như các trường hợp ly hôn không có yếu tố nước ngoài, việc ly hôn
sẽ được coi là căn cứ làm chấm dứt quan hệ vợ chồng. Việc chấm dứt này có thể
xuất phát từ yêu cầu ly hôn đơn phương hoặc do cả hai bên yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn và phải được Toà án công nhận bằng bản án ly hôn hoặc quyết
định công nhận sự thuận tình ly hôn của các đương sự. Sau khi bản án hoặc
quyết định của Toà án có hiệu lực thì quan hệ vợ chồng sẽ chính thức chấm dứt.
1.2.1.2. Quan hệ giữa cha, mẹ và con cái sau ly hôn:
16
Ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ chồng nhưng không làm chấm dứt quan
hệ giữa cha, mẹ và con chung. Việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái là quyền lợi
đồng thời là nghĩa vụ của cha mẹ trước và sau khi ly hôn. Tuy nhiên, sau khi ly
hôn sẽ làm phát sinh một vài vấn đề trong quan hệ giữa cha mẹ và con chung. Ví
dụ như sau khi ly hôn, đương nhiên con cái không thể chung sống được với cả
cha lẫn mẹ. Do vậy, việc giao con chưa thành niên cho một trong hai người nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục là điều cần thiết. Khi quyết định giao con chưa thành
niên cho ai (trong hai vợ chồng) nuôi dưỡng Toà án phải xem xét đến hoàn cảnh
thực tế của mỗi bên, nhằm đảm bảo lợi ích về mọi mặt cho đứa trẻ. Bên cạnh vấn
đề giao con cho ai nuôi thì việc cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn, thay đổi nuôi con
sau ly hôn cũng là những vấn đề mới phát sinh trong quan hệ cha mẹ, con cái
sau khi ly hôn nói chung và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.
1.2.2. Quan hệ tài sản
Cũng giống như quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng cũng
sẽ chấm dứt kể từ sau khi bản án hay quyết định của Toà án về việc ly hôn có
hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, việc chia tài sản sau ly hôn là vấn đề hết sức phức
tạp, từ việc chia tài sản chung của vợ chồng đến việc xác định tài sản riêng của
các bên trong thời kỳ hôn nhânĐặc biệt, việc giải quyết quan hệ tài sản trong
ly hôn có yếu tố nước ngoài còn gặp khó khăn hơn nữa bởi việc xác định khối tài
sản khi tài sản đó ở nước ngoài, việc lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài
trong trường hợp tài sản là bất động sản ở nước ngoài. Do đó, khi giải quyết vấn
đề tài sản trong ly hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam phải kết
hợp việc vận dụng các văn bản pháp luật trong nước, điều ước quốc tế, tập quán
quốc tế, đôi khi cả pháp luật nước ngoài.
17
Đối với trường hợp ly hôn có liên quan đến tài sản là bất động sản ở nước
ngoài thì việc giải quyết vấn đề tài sản tuân theo pháp luật nơi có tài sản. Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014 không có những điều khoản cụ thể và riêng biệt
về quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản đối với trường hợp ly hôn có yếu tố nước
ngoài. Vì vậy, thông thường khi giải quyết vấn đề này, Thẩm phán sẽ áp dụng
pháp luật chung về điều kiện, căn cứ ly hôn. Ví dụ thẩm quyền giải quyết vụ việc
ly hôn có yếu tố nước ngoài thuộc Tòa án Việt Nam sẽ áp dụng Luật HNGĐ Việt
Nam, BLDS Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan để giải quyết các vấn
đề hậu quả pháp lý của việc ly hôn nói chung, bao gồm quan nhân thân và quan
hệ tài sản giữa vợ và chồng.
1.3. Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài
1.3.1. Các loại nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
Nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài gồm hai
loại là nguồn pháp luật quốc gia và nguồn pháp luật quốc tế. Trong đó, nguồn
pháp luật quốc gia giữ vai trò chủ yếu.
1.3.1.1. Nguồn pháp luật quốc gia
Nguồn pháp luật quốc gia bao gồm tất cả các quy định của pháp luật quốc
gia liên quan đến vấn đề điều chỉnh pháp lý quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài nói chung và quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.
Nguồn pháp luật quốc gia ở mỗi nước có thể là nguồn thành văn nếu thuộc hệ
thống Civil Law cũng có thể là nguồn không thành văn nếu thuộc hệ thống
Common Law hoặc có thể gồm cả nguồn thành văn và không thành văn.
Các quy định nói trên ở Việt Nam được quy định chủ yếu trong các văn
bản pháp luật sau đây:
18
- Hiến pháp. Quyền của công dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói
chung và hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng bao gồm cả lĩnh vực
ly hôn có yếu tố nước ngoài là một trong những quyền cơ bản được Hiến pháp
khẳng định. Đó là nhân quyền – quyền tối cao của công dân được Nhà nước và
pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Do vậy,trong các bảnHiến pháp của Việt Nam: Hiến
pháp năm 1946; Hiến pháp năm 1960; Hiến pháp năm 1980; Hiến pháp năm
1992, đặc biệt là bản Hiến pháp năm 2013 đều quy định rất rõ quyền này.
Đây là những quy định có tính nguyên tắc và trên tinh thần của các quy
định này, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã ban hành các bộ Luật,
đạo luật và một hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành dưới luật nhằm điều chỉnh
lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói chung và hôn nhân gia đình có yếu tố nước
ngoài nói riêng, bao gồm cả lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài,
- Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 1995, Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm
2005, Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi
hành đều có những quy định liên quan đến vấn đề hôn nhân gia đình nói chung
và vấn đề ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng.
- Luật Hôn nhân và Gia đình. Đây là đạo luật chuyên ngành điều chỉnh
quan hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có quan hệ ly hôn và ly hôn có yếu tố
nước ngoài. Trước khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chúng đã từng có
các đạo luật hôn nhân và gia đình sau đây: Luật Hôn nhân và Gia đình năm
1959, Pháp lệnh về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài năm 1993, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000. Đi kèm theo từng đạo luật là hệ thống các văn bản hướng
dẫn thi hành cụ thể.
1.3.1.2. Nguồn pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài
19
a. Điều ước quốc tế
Về mặt lý luận, nguồn quốc tế điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình,
trong đó có quan hệ ly hôn và ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng là các Điều
ước quốc tế toàn cầu, Điều ước quốc tế khu vực và Điều ước quốc tế song
phương. Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay mới chỉ có các Điều ước quốc tế
khu vực và song phương giữa các quốc gia có quy định về vấn đề ly hôn có yếu
tố nước ngoài. Song các Điều ước quốc tế loại này không điều chỉnh cụ thể mà
chỉ quy định nguyên tắc chọn pháp luật để áp dụng khi giải quyết vấn đề ly hôn
có yếu tố nước ngoài. Ví dụ như Công ước La Haye về tư pháp quốc tế năm
1902, công ước Bustamante năm 1928 và nhiều Điều ước quốc tế song phương
về tương trợ tư pháp.
b. Tập quán quốc tế
Về mặt lý luận, tập quán quốc tế cũng là nguồn pháp luật điều chỉnh quan
hệ hôn nhân và gia đình, trong đó có quan hệ ly hôn và ly hôn có yếu tố nước
ngoài. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nào hệ thống hóa hay tổng hợp
được các tập quán quốc tế cụ thể đã và đang được áp dụng khi giải quyết vấn đề
này trên thực tế. Nó chủ yếu được vận dụng với tính chất tập quán quốc gia trong
khuôn khổ loại nguồn quốc gia và do từng quốc gia tự xác định.
1.3.2. Mối quan hệ giữa các loại nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn
có yếu tố nước ngoài
Như đã trình bày ở Mục 1.3.1, nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn
có yếu tố nước ngoài gồm hai loại là nguồn pháp luật quốc gia và nguồn pháp
luật quốc tế. Trong đó, nguồn pháp luật quốc gia giữ vai trò chủ yếu. Hai loại
nguồn này tác động qua lại và bổ sung cho nhau trong việc điều chỉnh quan hệ ly
hôn có yếu tố nước ngoài.
20
Theo thông lệ và nguyên tắc xử lý mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia
với các Điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viêntrong lĩnh vực dân sự nói
chung và trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng, nếu cùng một vấn
đề mà quy định của Điều ướ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050008269_2677_2002960.pdf