Việc giám sát việc giải quyết đơn thưkhiếu nại, tốcáo của công dân là
hoạt động chiếm nhiều thời gian và công sức của UBPLQH. Trong lĩnh vực
này các cơquan của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
đều làm nhiệm vụtiếp nhận đơn thưkhiếu nại, tốcáo của công dân thuộc lĩnh
vực mình phụtrách.
Trong 10 tháng đầu năm 2003, Thường trực UBPLQH dã tập trung
chỉ đạo công tác giám sát việc giải quyết đơn thưkhiếu nại, tốcáo của công
dân trong lĩnh vực tưpháp. Trong đó đã tập trung nghiên cứu phân loại, xửlý
các đơn thưkhiếu nại tốcáo của công dân do các đồng chí lãnh đạo Quốc hội
giao. Từ01/11/2002 đến 30/09/2003, UBPLQH đã tiếp nhận và chỉ đạo Vụ
Pháp luật nghiên cứu, phân loại xửlý 7.996 đơn, thưkhiếu nại, tốcáo và kiến
nghịcủa công dân trong lĩnh vực tưpháp (trong đó đơn gửi trực tiếp đến
UBPLQH là 3.878; do ban dân nguyện chuyển đến là 4.118) [37, tr. 7].
97 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2026 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảo chất lượng xét xử. Tỷ lệ giải
quyết các vụ án hành chính đã vượt chỉ tiêu xét xử đề ra. Công tác giải quyết,
xét xử các vụ án hành chính cấc Tòa án trong năm qua đã góp phần nâng cao
hiệu lực và hiệu quả của quản lý hành chính nhà nước. Như vậy, trong năm
2005, tỷ lệ các bản án quyết định của Tòa án bị hủy là 6,8% và bị sửa là 5,7%.
So với năm 2004, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy tăng 3,1%, bị sửa giảm
0,9% [34].
Qua nghiên cứu tình hình xét xử của ngành tòa án từ 2003 đến nay tác
giả nhận thấy rằng, các báo cáo của Chánh án TANDTC về kết quả thực hiện
các nhiệm vụ công tác của ngành còn quá chung chung, nhiều số liệu chưa
43
được phân tích đầy đủ, nhiều nội dung chưa được làm rõ trong báo cáo, chẳng
hạn, chưa phân tích để thấy rõ tình hình và kết quả xét xử ở mỗi cấp Tòa án:
trong lĩnh vực xét xử án hình sự chưa phân tích sự tăng, giảm của từng loại tội
phạm, của đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, về tình hình số người bị
tuyên phạt tù giam hoặc bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo, về số tiền được
tuyên thu hồi về cho nhà nước, nhất là đối với các vụ án kinh tế: các tội phạm
trộm cắp, giết người, ma túy... còn diễn biến phức tạp có chiều hướng gia tăng
về số lượng nhưng TANDTC chưa thông qua hoạt động xét xử để phân tích
các nguyên nhân gia tăng tội phạm, số lượng án dân sự và các khiếu kiện
hành chính ngày càng gia tăng. Theo báo cáo của Chánh án TANDTC thì năm
2005 số lượng án dân sự khiếu kiện hành chính tăng 3.560 vụ so với cùng kỳ
năm trước, nhưng trong báo cáo chưa phân tích làm rõ nguyên nhân của tình
trạng này, đồng thời việc chấp hành pháp luật trong việc thu thập chứng cứ,
lập hồ sơ vụ án không được đề cập trong báo cáo: tình trạng chậm phát hành
bản án và tình trạng án để quá thời hạn xét xử cũng chưa được nêu cụ thể và
đưa ra biện pháp khắc phục hữu hiệu. Chẳng hạn, trong bản thống kê kèm
theo trong báo cáo thì từ 01/01/2004 đến 31/08/2005 số lượng án hình sự dã
giải quyết là 58.601 vụ/ 95.455 bị cáo, còn lại 5.347 vụ/ 9.945 bị cáo nhưng
không nêu rõ có bao nhiêu vụ đã quá hạn mà chưa đưa ra xét xử, bao nhiêu bị
cáo đã bị giam quá hạn [40]. Chính vì không đi sâu phân tích các vụ án được
xét xử ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nên không đánh giá
được chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án các cấp. Do đó rất khó cho việc
đánh giá một cách toàn diện và đúng đắn tình hình và chất lượng giải quyết
các vụ án theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cũng như
tình hình và chất lượng giải quyết của từng loại án về hình sự, dân sự, hành
chính, lao động.
44
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
2.2.1. Hoạt động thực hiện giám sát của Quốc hội đối với hoạt động
xét xử của tòa án nhân dân thông qua các nội dung, hình thức giám sát
Thực trạng hoạt động thực hiện giám sát của Quốc hội đối với hoạt động
xét xử của TAND thời gian qua được phản ánh qua các nội dung, hình thức sau
đây.
2.2.1.1. Xem xét báo cáo công tác của Tòa án nhân dân
Theo Luật tổ chức Quốc hội, hàng năm Quốc hội xem xét báo cáo
công tác của TANDTC vào cuối kỳ họp mỗi năm. Trong thời gian qua Quốc
hội thực hiện khá tốt hình thức giám sát này. Cụ thể là: Trước khi Quốc hội
xem xét báo cáo công tác của TANDTC thì bản báo cáo này đã được được
UBPLQH thẩm tra rất kỹ.
Sau khi có phiên họp thẩm tra, những vấn đề nào chưa rõ hoặc còn
những vấn đề nào còn có quan điểm khác nhau thì thường TANDTC bổ sung
hoàn thiện thêm bản báo cáo trước khi trình Quốc hội.
Khi Quốc hội xem xét báo cáo công tác của TANDTC: đồng thời cũng
được nhận Báo cáo thẩm tra của UBPLQH.
Trên cơ sở báo cáo của TANDTC và báo cáo thẩm tra của UBPLQH,
Quốc hội tiến hành thảo luận về các vấn đề thuộc trách nhiệm của ngành
TAND, từ đó có những đánh giá nhận xét về tình hình thực hiện nhiệm vụ,
những ưu điểm khuyết điểm, hạn chế đồng thời ra nghị quyết về vấn đề này.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì UBTVQH cũng có thẩm quyền xét
báo cáo công tác của TANDTC khi thấy cần thiết. Tuy nhiên, trong thực tế thì
UBTVQH không thực hiện quyền này, vì Quốc hội đã xem xét hàng năm,
trong năm cũng không có nhiều biến động.
2.2.1.2. Xem xét chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp
45
Theo quy định hiện hành thì Quốc hội xem xét việc trả lời chất vấn
của Chánh án TANDTC tại kỳ họp: UBTVQH xem xét viêc trả lời chất vấn
của Chánh án TANDTC trong thời gian giữa hai kỳ họp.
Tùy thuộc vào tình hình mà tại từng kỳ họp Quốc hội, Quốc hội chất
vấn đối với Chánh án TANDTC về từng việc thực hiện nhiệm vụ của ngành
Tòa án. Việc Quốc hội chất vấn đối với Chánh án TANDTC trong thời gian
qua đã đem lại nhiều hiệu quả thiết thực: nhiều sai phạm, yếu kém của ngành
tòa án được khắc phục chấn chỉnh sửa đổi.
Về việc UBTVQH xem xét việc trả lời chất vấn của Chánh án TANDTC
trong thời gian giữa hai kỳ họp tuy luật có quy định nhưng trên thực tế chưa
bao giờ UBTVQH thực hiện.
2.2.1.3. Giám sát qua Đoàn giám sát và các thành viên
Thực trạng việc tổ chức các đoàn giám sát đã thực hiện các công việc
sau: xem xét tình hình khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt giam giữ, tạm giam,
công tác điều tra các vụ án hình sự và công tác thi hành án phạt tù. Tình hình
kết quả xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ án hình sự, dân sự.
Tình hình thi hành án dân sự. Tình hình thực hiện Chương trình cải cách tư
pháp ở địa phương…
Trên thực tế trong 10 tháng đầu năm 2003, UBPLQH đã tổ chức ba
Đoàn giám sát tại 9 tỉnh phía Bắc, Tây Nguyên và phía Nam. Mỗi đoàn giám
sát do một số đồng chí Phó chủ nhiệm làm Trưởng đoàn và một số thành viên
ủy ban tham gia. Các đoàn giám sát đã trực tiếp làm việc với các cơ quan
công an, Tòa án, Viện kiểm sát, Sở Tư pháp, Hải quan và một số Ban quản lý
trại giam thuộc Bộ Công an về tình hình chấp hành pháp luật trong hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trong thời gian năm 2002 và 3 tháng đầu
năm 2003 [37, tr. 6].
46
Từ đầu năm 2004 đến nay, UBPLQH đã tổ chức 6 đoàn giám sát tại
các Tòa phúc thẩm TANDTC và Viện phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối
cao tại Hà Nội, Thành phố Hồ chí Minh và thành phố Đà Nẵng và 13 thành phố
trực thuộc Trung ương ở cả ba miền của đất nước. Mỗi đoàn giám sát do một số
đồng chí Phó chủ nhiệm làm Trưởng đoàn và một số thành viên ủy ban tham
gia. Các đoàn giám sát đã trực tiếp làm việc với lãnh đạo đảng, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ quan công an Tòa án, Viện kiểm sát [39,
tr. 6].
Từ đầu năm 2005 đến nay, UBPLQH đã tổ chức nhiều đoàn giám sát
tại các cơ quan tư pháp của các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương ở cả ba
miền của đất nước và tại Viện kiểm sát quân sự Ttrung ương, Tòa án Quân sự
Trung ương, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng, cơ quan tư pháp Quân khu I
và Quân khu III. Mỗi đoàn giám sát sát do một số đồng chí Phó chủ nhiệm
làm Trưởng đoàn và một số thành viên ủy ban tham gia. Các đoàn giám sát đã
trực tiếp làm việc với đại diện, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, các cơ quan Công an, Quốc phòng, Tòa án, Viện kiểm sát … Đồng thời,
cũng đã tiến hành làm việc và tìm hiểu về tình hình tổ chức, hoạt động của
một số cơ quan tư pháp cấp huyện [41].
Qua giám sát, ủy ban đã kiến nghị với các cơ quan tư pháp trung ương
phải thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn và có biện pháp
cụ thể nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, truy tố xét xử, thi hành án, đặc
biệt cần khắc phục ngay tình trạng nhiều vụ án dân sự bị hủy, sửa và để quá
thời hạn xét xử, nhiều bản án, quyết định về dân sự bị Hội đồng xét xử cấp
trên hủy để xét xử lại, tồn đọng trong thi hành án dân sự và giải quyết đơn thư
khiếu nại về thi hành án dân sự:
Ngoài ra, UBPLQH còn tham gia Đoàn của UBTVQH và một số ủy
ban khác đi giám sát tại một số địa phương về hoạt động của TAND, Viện
kiểm sát nhân dân… trong việc bắt, giam, giữ, xét xử và thi hành án phạt tù
47
tại một số địa phương, khi tham gia các Đoàn giám sát của UBTVQH thì
UBPLQH luôn được giao chuẩn bị kế hoạch, nội dung và dự thảo các báo cáo
về kết quả hoạt động giám sát. Trong thực tế UBPLQH còn cử các thành viên
đến các cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh những vấn đề mà, ủy
ban quan tâm. Đây là vấn đề đặt ra đối với việc giám sát đối với các vụ án cụ
thể khi vướng mắc vấn đề gì mà, ủy ban quan tâm thì yêu cầu đại diện các cơ
quan, tổ chức hữu quan báo cáo làm rõ hơn để xem xét, xác minh.
2.2.1.4. Giám sát thực hiện việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
của công dân
Việc giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân là
hoạt động chiếm nhiều thời gian và công sức của UBPLQH. Trong lĩnh vực
này các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
đều làm nhiệm vụ tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc lĩnh
vực mình phụ trách.
Trong 10 tháng đầu năm 2003, Thường trực UBPLQH dã tập trung
chỉ đạo công tác giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công
dân trong lĩnh vực tư pháp. Trong đó đã tập trung nghiên cứu phân loại, xử lý
các đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân do các đồng chí lãnh đạo Quốc hội
giao. Từ 01/11/2002 đến 30/09/2003, UBPLQH đã tiếp nhận và chỉ đạo Vụ
Pháp luật nghiên cứu, phân loại xử lý 7.996 đơn, thư khiếu nại, tố cáo và kiến
nghị của công dân trong lĩnh vực tư pháp (trong đó đơn gửi trực tiếp đến
UBPLQH là 3.878; do ban dân nguyện chuyển đến là 4.118) [37, tr. 7].
Qua công tác phân loại và xử lý đơn thư, khiếu nại, tố cáo của công dân
và kiến nghị đến UBPLQH, chúng ta thấy rằng số lượng đơn thư gửi đến
UBPLQH nhiều. Trong đó đơn thư phần lớn khiếu nại các bản án, quyết định
về hình sự, dân sự. Nhiều đơn, thư khiếu nại được gửi liên tục và kéo dài, gửi
48
vượt cấp, gửi đến cơ quan đảng và nhà nước hoặc đã có cơ quan có thẩm quyền
giải quyết cuối cùng nhưng đương sự không nhất trí vẫn khiếu nại gay gắt.
Từ đầu năm 2004 đến nay, Thường trực UBPLQH đã tập trung chỉ
đạo công tác giám sát việc giải quyết và xử lý đơn thư khiếu nại tố cáo của
công dân trong lĩnh vực tư pháp. Trong đó tập trung nghiên cứu, xử lý các
đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân theo yêu cầu của các đồng chí lãnh
đạo Quốc hội. Từ 01/01/2004 đến 15/ 09/ 2004, Ủy ban đã tiếp nhận và chỉ
đạo Vụ pháp luật nghiên cứu, phân loại, xử lý 6.339 đơn, thư khiếu nại, tố cáo
và kiến nghị của công dân trong lĩnh vực tư pháp [39, tr. 8].
Những biểu hiện trên đây cho thấy rằng, việc xử lý đơn, thư khiếu nại,
tố cáo của công dân và kiến nghị đến các Ủy ban của Quốc hội chủ yếu ở hai
lĩnh vực án hình sự và dân sự, chiếm tỷ lệ gần 80%. Trong tổng số đơn thư thì
phần lớn có nội dung khiếu nại đối với các cơ quan tư pháp, nhiều đơn thư
khiếu nại các bản án, quyết định của TAND. Nhiều đơn thư khiếu nại gửi
vượt cấp, gửi đến các cơ quan không có thẩm quyền giải quyết và gửi đến
nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Đồng thời, Ủy ban cũng đã nhận
được nhiều phiếu chuyển đơn do các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội chuyển đến yêu cầu xem xét, giải quyết.
Từ 01/01/2005 đến 30/09/2005, Ủy ban đã chỉ đạo Vụ Pháp luật tiếp
nhận và nghiên cứu, phân loại, xử lý 5.538 đơn, thư khiếu nại, tố cáo và kiến
nghị của công dân trong lĩnh vực tư pháp.
Qua công tác phân loại xử lý đơn thư, khiếu nại tố cáo của công dân
và kiến nghị gửi tới Ủy ban cho thấy, số lượng đơn, thư gửi tới Ủy ban tập
trung chủ yếu ở hai lĩnh vực dân sự tỷ lệ 47,5% hình sự 33%. Trong số đơn,
thư đó thì nhiều đơn, thư khiếu nại vượt cấp, gửi đến các cơ quan không có
thẩm quyền giải quyết và gửi đến nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, Ủy ban cũng nhận được nhiều phiếu chuyển đơn do các cơ quan
49
Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển đến yêu cầu xem xét,
giải quyết, nhưng theo quy định của pháp luật thì UBPLQH không có thẩm
quyền giải quyết. Thông qua việc xem xét, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo của UBPLQH chuyển đến, TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã
kháng nghị để giải quyết lại một số bản án của TAND các cấp theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm [28, tr. 8].
Qua thực tiễn, công tác theo dõi, đôn đốc việc xem xét, giải quyết đơn
thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tư pháp trong thời gian qua chưa được
Ủy ban quan tâm thường xuyên. Tỷ lệ văn bản trả lời của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo còn thấp so với số công văn
mà ủy ban chuyển đi. Việc thông báo kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của
các cơ quan tư pháp gửi đến các Ủy ban không được thực hiện đứng đắn kịp
thời, Nhiều văn bản trả lời còn chung chung, chưa cụ thể mà những vấn đề mà
công dân khiếu nại, có trường hợp đã hẹn trả lời nhưng sau đó bỏ qua, nhiều
trường hợp đã trả lời nhưng không thông báo đến UBPLQH nên khi công dân
tiếp tục khiếu nại thì Ủy ban lại chuyển đơn cho họ.
Theo thống kê kết quả hoạt động giám sát việc giải quyết các vụ án cá
biệt tại báo cáo của UBPLQH trình UBTVQH năm 2003 thì thấy Thường trực
UBPLQH đã chỉ đạo việc nghiên cứu một số vụ án cụ thể do lãnh đạo Quốc
hội giao như vụ bà Phùng Thị Tý ở quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng
khiếu nại quá trình giải quyết vụ án vay mượn tiền ở Chi nhánh Ngân hàng
quận Hồng Bàng - thành phố Hải Phòng và khiếu nại việc thi hành bản án số 12
về việc giải quyết tranh chấp này: vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà của người
nước ngoài (người pháp gốc việt) tại số nhà 181 Cách mạng tháng Tám, quận 3,
Thành phố Hồ Chí Minh; vụ án Nguyễn Duy Huân, phạm tội lừa đảo, chiếm
đoạt tài sản XHCN ở Tuyên Quang và một số vụ khác… [39].
50
Năm 2004, Ủy ban đã tổ chức giám sát đối với một số vụ án cụ thể do
UBTVQH giao, như giám sát việc giải quyết vụ án dân sự nhà đất 15 A phố
Thuốc Bắc - Hà Nội: vụ án Nguyễn Duy Huân phạm tội lừa đảo, chiếm đoạt
tài sản xảy ra tại huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang; vụ án kiện đòi tài sản là
con trâu ở huyện Văn Chấn, tỉnh Yên bái …
Đối với vụ án dân sự về nhà đất ở 15 A phố Thuốc Bắc, quận Hoàn
Kiếm thành phố Hà Nội, Ủy ban đã có báo cáo trình UBTVQH về kết quả
giám sát việc giải quyết vụ án. UBTVQH đã có kết luận là trong việc giải
quyết vụ án này có những sai sót, khuyết điểm, việc thu nhập và đánh giá chứng
cứ còn chưa đầy đủ, toàn diện, Qua đó yêu cầu TANDTC, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao xem xét lại vụ án. Thực hiện kết luận trên TANDTC, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã thống nhất kháng nghị để giải quyết vụ án và Chánh án
TANDTC đã ra quyết định kháng nghị để xét xử vụ án này theo trình tự tái
thẩm.
Đối với vụ án Nguyễn Duy Huân, phạm tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản
XHCN ở Tuyên Quang: trên cơ sở giám sát của Ủy ban, ngày 8/7/2004 và
ngày 20/7/2004 TANDTC đã báo cáo UBTVQH về vụ án này. Báo cáo của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng, sự phối hợp giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình điều tra vụ án là thiếu chặt chẽ, công tác kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang còn
những thiếu sót nhất định.
Về việc giải quyết vụ án tranh chấp con trâu giữa ông Sa Văn Khạng
và ông Hoàng Văn Viên ở xã Sơn Lương huyện Văn Chấn, tỉnh Yên bái.
Theo sự chỉ đạo của đồng chí Chủ tịch Quốc hội, Thường trực UBPLQH đã
có nhiều cuộc họp thảo luận và thấy trong nội dung báo cáo của đồng chí
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của đồng chí Chánh án
51
TANDTC có nhiều nội dung chưa rõ và còn nhiều mâu thuẫn nên đã trình và
được Đồng chí Chủ tịch Quốc hội đồng ý cho tiến hành giám sát:
Ủy ban cũng đã chỉ đạo việc nghiên cứu một số đơn khiếu nại về việc
giải quyết các vụ án cụ thể khác do lãnh đạo Quốc hội giao như đơn của một
số chuyên gia lâm nghiệp nhật bản tại Việt Nam kêu oan cho một số đồng
nghiệp đã bị khởi tố "sử dụng không đúng lợi nhuận tài chính", đơn của ông
Nguyễn Khắc Đương ở Hưng Yên khiếu nại bản án phúc thẩm dân sự số 25
ngày 24/7/2001, Công văn số 2602/TĐ-DS Ngày 31/10/2003 của TANDTC
trả lời khiếu nại của ông là không đúng sự thực [39].
Năm 2005, UBPLQH đã tiến hành giám sát đối với một số vụ án cụ
thể do UBTVQH giao:
Giám sát vụ lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN và tài sản
công dân xẩy ra tại thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định mà người bị kết tội
là ông Phạm văn Cường - cán bộ phòng tổ chức lao động - tiền lương thuộc
Ủy ban nhân dân thành phố Nam Định. UBPLQH đã có báo cáo kết quả giám
sát gửi UBTVQH và ông Pham Văn Cường đã được Hội đồng thẩm phán
TANDTC tuyên bố không phạm tội:
Giám sát vụ án dân sự "tranh chấp quyền sử dụng đất ở huyện Từ
Liêm thành phố Hà Nội" theo bản án dân sự phúc thẩm số 100/DSPT ngày
29/5/1997 của TAND thành phố Hà Nội. Ủy ban đã có báo cáo kết quả giám
sát số 1.108 ngày 23/6/2005 gửi UBTVQH. Tại phiên họp tháng 8 năm 2005,
UBTVQH đã giao cho một đồng chí Phó chủ tịch Quốc hội chủ trì cuộc họp
lãnh đạo các cơ quan hữu quan để có kết luận cuối cùng [41].
Hiện nay việc tiến hành giám sát việc giải quyết các vụ án cá biệt
trong UBPLQH và Vụ Pháp luật là bộ phận tham mưu giúp việc cũng còn hai
ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, Quốc hội là cơ quan đại biểu
của nhân dân thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của đất
52
nước, nhưng Quốc hội cũng có trách nhiệm phải quan tâm đến tâm tư nguyện
vọng của nhân dân, Vì vậy, khi người dân thấy mình bị oan ức thì họ có
quyền khiếu nại tới các cơ quan nhà nước và tới Quốc hội, nếu không xem
xét, bàn biện pháp giải quyết thì có lỗi với dân. Ngược lại, ý kiến thứ hai cho
rằng, việc UBPLQH xem xét việc giải quyết các vụ án cá biệt làm thay các cơ
quan tư pháp, không đúng thẩm quyền, vì theo quy định của pháp luật hiện
hành thì Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, do
đó các khiếu nại, tố cáo của dân về vụ án vẫn phải giao cho Tòa án giải quyết
và Quốc hội, các cơ quan Quốc hội giám sát việc đó.
Tuy nhiên, những năm qua, UBPLQH vẫn tiến hành giám sát những
vụ án cá biệt mà những vụ án này phần lớn đều do các đồng chí lãnh đạo
Quốc hội khi nhận được các đơn thư khiếu nại của công dân thấy rằng vụ việc
quá bức xúc nên yêu cầu UBPLQH có trách nhiệm xem xét. Mặc dù hoạt
động giám sát việc giải quyết các vụ án cá biệt của UBPLQH không tiến hành
được nhiều, nhưng hiệu quả của việc giám sát đã có hiệu quả tích cực trong
việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân đồng thời cũng góp phần
quan trọng và kịp thời vào việc kiến nghị các cơ quan tư pháp khắc phục
những sai sót trong hoạt động của mình.
Khó khăn và phức tạp trong công tác giám sát việc giải quyết đơn thư
khiếu nại tố cáo của công dân nói chung, giám sát việc giải quyết các vụ án cá
biệt nói riêng mà các đại biểu Quốc hội là thành viên UBPLQH cũng như các
chuyên viên phục vụ UBPLQH còn đang tranh luận khá gay gắt đó là: Việc
ủy ban pháp luật tiến hành giám sát các vụ án cá biệt có đúng chức năng,
nhiệm vụ không: cách thức tiến hành giám sát các vụ án cá biệt trên thực tế có
phù hợp với quy định pháp luật không (mượn hồ sơ vụ án để nghiên cứu, nêu
những vấn đề mà Ủy ban cho rằng có những sai sót, tổ chức đi nghiên cứu,
khảo sát để làm sáng tỏ vấn đề, yêu cầu các cơ quan báo cáo các vấn đề mà
Ủy ban quan tâm...). Trên thực tế, việc khiếu nại rất bức xúc kéo dài nhiều
53
năm, qua nghiên cứu thấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật, nhưng Ủy ban rất
khó khăn trong việc tìm ra các tiêu chí làm căn cứ để quyết định giám sát việc
giải quyết một vụ án cụ thể. Có ý kiến cho rằng, làm như vậy là chồng chéo
với các chức năng của cơ quan tư pháp và trong số hàng ngàn đơn gửi đến ủy
ban pháp luật thì việc giám sát được tiến hành như thế nào để đảm bảo không
vi phạm các quy định của pháp luật, vừa đảm bảo công bằng cho người dân.
Theo quy định của pháp luật thì UBPLQH không phải là cấp trên của TANDTC.
Theo đại biểu Quốc hội Nguyễn Đình Lộc trả lời Vietnamnet ngày
15/01/05 thì cho rằng:
Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì "nó" phải là cấp dừng. Đây
là Hiến pháp quy định. Nếu chúng ta lật lại, chắc gì đã chính xác so với
phán xử của Tòa án. Ông cho rằng, tư pháp là hoàn toàn độc lập, Tòa
án tối cao là cấp sử cao nhất. có thể phán quyết của họ không phải
lúc nào cũng đúng nhưng là đại diện cho công lý cấp cao nhất... [46].
Nhưng theo đại biểu Quốc hội Lê Văn Cuông Phó Trưởng đoàn đại
biểu Quốc hội Thanh hóa trả lời Vietnamnet ngày 18/12/05:
Qua giám sát một số vụ án oan sai, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội có ý kiến nhưng Tòa án báo là Hội đồng giám đốc thẩm đã biểu
quyết! Mặc dù anh Tòa án bảo thủ, quyết như thế nhưng không có
cơ chế vẫn phải chịu! Nói đi nói lại như thế mà không được thì phải
có cơ quan trên nữa quyết vấn đề này. Người ta muốn có Tòa Hiến
pháp, bây giờ phải có tổ chức này mới có thể giám sát, phủ nhận
quyền lực bất hợp pháp. Tôi nói thẳng, đó là những trường hợp
quyền lực bất hợp pháp, vì anh được giao quyền lực đó nhưng anh
làm sai! nếu không sửa coi như Quốc hội, cơ quan quyền lực cao
nhất cũng bất lực! Muốn thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao
54
nhất, phải thành lập tổ chức cao hơn để khi anh có kiến nghị, có cơ
quan quyền lực xem xét [47].
Nhìn chung, hoạt động giám sát của UBPLQH đối với một số vụ án cụ
thể đã đạt được kết quả thiết thực. Nhiều kiến nghị của Ủy ban đã được UBTVQH
tán thành, các cơ quan có trách nhiệm và thẩm quyền đã thực hiện kết luận
của UBTVQH tổ chức xét xử lại vụ án, khắc phục hậu quả, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
2.2.1.5. Giám sát việc giải quyết vụ án
Công tác giám sát việc giải quyết vụ án được Quốc hội và các Ủy ban
của Quốc hội thường xuyên quan tâm, có cách làm thiết thực và có bước tiến
mới. Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2003; 2004; 2005 của ngành
TAND, và báo cáo thẩm tra các báo cáo công tác của Chánh án TANDTC của
UBPLQH năm 2003; 2004; 2005; chúng ta thấy rằng:
Năm 2003, Tòa án đã có nhiều cố gắng giải quyết được một số lượng
án rất lớn (181.399 trong tổng số 206.691 đã thụ lý đạt tỷ lệ 89%) gồm các
loại án hình sự dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính, lao động và
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Các Tòa án các cấp đã tổ chức 1300 phiên tòa
xét xử lưu động tại nơi xảy ra vụ án góp phần giáo dục và nâng cao ý thức
pháp luật và tinh thần đấu tranh phòng, chống tội phạm trong nhân dân. Tuy
nhiên, về lĩnh vực hình sự vẫn còn 1.957 người bị kết án đã có hiệu lực pháp
luật nhưng Tòa án chưa ra quyết định thi hành án: tình trạng tòa án ra quyết
định hoãn, tạm đình chỉ thi hành án hình sự chưa đúng pháp luật đã làm giảm
tác dụng giáo dục, răn đe của hình phạt, gây bức xúc trong quần chúng nhân
dân; Tòa án các cấp còn để quá hạn tam giam 345 người (chiếm 77% tổng số
người bị tạm giam quá hạn), cao hơn số người để để quá hạn tạm giam thuộc
trách nhiệm của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát các cấp [32].
55
Năm 2004, TAND và Tòa án Quân sự các cấp đã có nhiều cố gắng
giải quyết được một số lớn các vụ án, cụ thể là toàn ngành Tòa án đã giải
quyết theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm được 194.652 vụ án
trong tổng số 217.605 vụ án đã thụ lý chiếm tỷ lệ 89,45%.Trong quá trình giải
quyết các loại án các tòa án các cấp đã tổ chức 2000 phiên tòa xét xử lưu
động tại nơi xảy ra vụ án góp phần giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật và tinh
thần đấu tranh phòng, chống tội phạm trong nhân dân. Trong công tác giải quyết
các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, hành chính, lao động và tuyên
bố phá sản doanh nghiệp, Tòa án các cấp đã chú trọng đến công tác hòa giải
theo quy định của pháp luật và đã ra quyết định công nhận hòa giải thành
được 20% số vụ án đã giải quyết. Tòa án các cấp đã đổi mới một bước thủ tục
xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự và theo tinh thần cải cách tư pháp. Tôi cho rằng, việc hòa giải trong
các vụ án dân sự, hành chính, cũng như việc tăng cường tranh luận tại phiên tòa
là một yêu cầu quan trọng trong cải cách tư pháp, đồng thời trước tình hình tranh
chấp dân sự, kinh tế, lao động, hành chính ngày càng nhiều thì việc đẩy mạnh
công tác hòa giải để hạn chế việc đưa ra xét xử có ý nghĩa thiết thực trong
việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án, giảm bớt khiếu nại trong lĩnh
vực tư pháp.
Các bản án, quyết định bị sửa chiếm 5,1%, bị hủy chiếm 1,2% trong
tổng số các vụ án mà tòa án các cấp đã giải quyết, xét xử (khoảng hơn 8500 bản
án, quyết định bị sửa và khoảng hơn 2000 bản án, quyết định bị hủy, mà phần
lớn các bản án, quyết định bị sửa và hủy là bản án, quyết định về dân sự có đến
20% án dân sự được giải quyết thông qua việc hòa giải thành, vậy có thể nói tỷ
lệ án dân sự bị hủy, bị sửa cao hơn nhiều trong số các vụ đã giải quyết [33].
Qua giám sát tư pháp ở một số địa phương cho thấy, chất lượng xét xử
của Tòa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay.pdf