MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIAO QUYỀN SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT LÂU DÀI CHO NÔNG DÂN ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA 5
1.1. Quyền sử dụng đất và giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa 5
1.2. Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân - một chủ trương chính sách lớn của Đảng ta 23
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ GIAO QUYỀN SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT LÂU DÀI CHO NÔNG DÂN Ở TỈNH QUẢNG BÌNH TRONG NHỮNG NĂM QUA (KHẢO SÁT TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY) 36
2.1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội tác động đến việc giao quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân ở tỉnh Quảng Bình 36
2.2. Thực trạng về giao quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân ở Quảng Bình 45
Chương 3: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THỰC HIỆN GIAO QUYỀN SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT LÂU DÀI CHO NÔNG DÂN ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA Ở QUẢNG BÌNH 61
3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm thực hiện giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Quảng Bình 61
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Quảng Bình 74
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
103 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2891 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế, văn hóa giữa các vùng, đặc biệt là hướng nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hóa. Ngoài ra, đất đai nông nghiệp còn luôn bị giảm đi do sự gia tăng dân số nhanh, khiến cho bình quân diện tích đất đai ngày càng thấp. Nhu cầu chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất chuyên dụng (xây dựng, giao thông, thủy lợi...) và mở rộng khu dân cư nông thôn và đô thị cũng làm cho diện tích nông nghiệp ngày càng giảm.
Những vấn đề trên đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ, quy hoạch sử dụng đất hợp lý và động viên mọi thành phần kinh tế đầu tư theo chiều sâu để đất đai nông nghiệp càng phát huy được tác dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cao, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp trở thành hàng hóa.
2.2. Thực trạng về giao quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân ở Quảng Bình
2.2.1. Tình hình đất đai ở Quảng Bình
Do vị trí địa lý có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, Quảng Bình bị ảnh hưởng sâu sắc trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ để lại; tiếp đến là sự biến động về mặt tổ chức hành chính (nhập tỉnh 1976 và tách tỉnh tháng 7/1989) như phân tích ở mục 2.1 dẫn đến các quan hệ sử dụng đất diễn ra phức tạp, vì vậy quá trình sử dụng đất vào các mục đích khác nhau có nhiều biến động. Đặc biệt là việc điều tra, quy hoạch phân bổ đất nông - lâm nghiệp, do đó nó có tác động rất lớn đến việc thực hiện phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh nói chung và phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Theo số liệu niên giám thống kê của tỉnh đến năm 2000, tổng diện tích đất tự nhiên 805.186 ha hiện nay được phân bổ như sau:
- Đất nông nghiệp: 63.546 ha chiếm 7,45% diện tích đất tự nhiên. Trong đó: Đất lúa màu: 33.966 ha.
- Đất lâm nghiệp: 491.262 ha chiếm 59,38% diện tích đất tự nhiên.
- Đất chuyên dùng: 19.936 ha chiếm 2,03% diện tích đất tự nhiên.
- Đất ở: 4.145 ha chiếm 0,45% diện tích đất tự nhiên.
- Đất chưa sử dụng: 226.297 ha chiếm 30,6% diện tích đất tự nhiên.
Từ số liệu trên cho ta thấy, diện tích đất trồng lúa của tỉnh rất ít, bình quân về mật độ dân số 100 người /km2. Trong khi đó bình quân diện tích đất trồng lúa trên số dân nông thôn là 0,092 ha/người. Đất chưa sử dụng còn khá lớn, chiếm tới 30,6% diện tích đất tự nhiên, chủ yếu là đất bằng chiếm: 18.156 ha và đất đồi núi chưa sử dụng 146.386 ha. Cả hai loại đất này được phân bổ rải rác trên 7 huyện, thị của tỉnh. Nhìn chung cả hai loại đất này có thể khai thác để trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn và dài ngày. Đây là tài nguyên hết sức quý giá để khai thác nhằm sử dụng nâng cao đời sống nhân dân và bảo vệ môi trường sinh thái. Nhìn chung hầu hết quỹ đất đai đặc biệt là đất sản xuất nông - lâm nghiệp. Phần diện tích còn lại chưa được giao cho các chủ sử dụng, chủ yếu là đất trồng đồi trọc, đất đầm lầy, đất mặn ven biển. Khả năng khai hoang phục hóa còn có điều kiện, nếu có chính sách hợp lý và quy hoạch đất, có đầu tư có thể mở rộng đưa vào sản xuất nông lâm nghiệp.
Trong thời gian Quảng Bình còn đang ở tỉnh Bình Trị Thiên cũ, do công việc rà soát, quy hoạch đất đai, quản lý sử dụng đất đai bị hạn chế nhiều mặt nên trong các năm từ 1985 - 1989 diện tích gieo trồng luôn luôn biến động. Năm 1985 tổng diện tích gieo trồng 84.060 ha, đến năm 1989 giảm xuống còn 77.830 ha, tỷ lệ giảm 7,5% trong đó cây lương thực giảm 6,5%, riêng lúa giảm 7,8% (từ 50.720 ha xuống 46.811 ha). Đối với đất lâm nghiệp, đó là quá trình biến động tài nguyên rừng trong vòng 50 năm từ 1943 đến 1992 diện tích rừng giảm 242.049 ha, bình quân mỗi năm giảm 4.840 ha tương đương rừng trồng tới một năm [44].
Ngoài ra, đất đai của Quảng Bình còn nhiều tiềm năng chưa khai thác được như đất bằng chưa sử dụng còn lớn: 18.156 ha; đất đồi núi chưa sử dụng chiếm: 142.705; đất chưa sử dụng khác: 62.936 ha.
Đến tháng 7/1989, Quảng Bình đã trở lại vị trí cũ cùng với việc xây dựng lại một đơn vị hành chính cấp tỉnh. Vì vậy, mọi công việc phải bắt đầu trở lại để bắt tay vào việc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Mà một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến phát triển nông nghiệp (khi còn là tỉnh chung) đó là sự biến động quá lớn về đất đai, nên tỉnh đã thực sự chú ý tới công tác rà soát, quy hoạch đất đai, quản lý và sử dụng có hiệu quả từ đất đai trong nông nghiệp. Bởi thế mạnh của tỉnh vẫn xác định là nông nghiệp là ngành sản xuất chính. Do vậy, các chủ trương chính sách phát triển nông nghiệp đã tác động không nhỏ đến quá trình tổ chức thực hiện để thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh phát triển một cách toàn diện. Một trong những chủ trương chính sách đó là giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa.
Đó là những vấn đề lớn mà tỉnh cần phải có sự quan tâm hơn nữa trong việc khai thác và sử dụng quyền lực đất đai để phát triển nông nghiệp hàng hóa.
2.2.2. Thực trạng về giao quyền sử dụng ruộng đất ở Quảng Bình
* Giai đoạn trước thời kỳ đổi mới đến 1993
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, cải cách ruộng đất dù có những sai lầm trong tổ chức thực hiện, nhưng nó đã làm được mục tiêu hết sức quan trọng mà cách mạng đã nêu cao: "Ruộng đất cho dân cày". Đó là cái mơ ước ngàn đời là có được trong tay một thửa ruộng mà trước đó người nông dân cho rằng chỉ vì thiếu nó mà cuộc sống đói nghèo. Nhưng cách mạng cũng còn cho họ mơ ước tới một chân trời xa hơn, cao hơn - đó là viễn cảnh của một lý tưởng xã hội mang đến hạnh phúc vĩnh viễn, mà bước đầu tiên để đi tới là một phương thức sản xuất tập thể.
Mười lăm năm tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa nông thôn ở miền Bắc (1960 - 1975), rồi tiếp đến 5 năm ở cả nước (1976 - 1980) đã để lại một dấu ấn không phai mờ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng về sức chịu đựng và sự hy sinh của người nông dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Những hình ảnh đầy hào hứng phấn khởi của người nông dân đem tất cả những tư liệu sản xuất của mình trong đó có cả những cái mà cách mạng vừa mang đến cho họ là ruộng đất để tham gia hợp tác xã, vào sinh hoạt tập thể với những giá trị văn hóa mới: Thư viện, nhà văn hóa, loa phóng thanh,... và nhất là tiếng trống bắt nhịp thời gian cho cuộc sống cộng đồng. Rồi những hình ảnh những đoàn trai làng lên đường làm nghĩa vụ quân sự, những phụ nữ thay nam giới trong "Phong trào ba đảm đang" cày cấy dưới bom đạn quân thù. Ngay trong chiến tranh, Nhà nước đã đầu tư rất nhiều cho nông nghiệp, tạo ra một sự bao cấp với cả một nông thôn rộng lớn.
Như chúng ta vẫn còn những ký ức về một nông thôn bị mất dần sức sống không chỉ vì chiến tranh mà còn vì sự đánh mất một nguồn lực vốn tiềm tàng trong những làng xã Việt Nam tích tụ qua truyền thống trong sản xuất và đời sống xã hội. Vì vậy, khi chiến tranh căn bản đã kết thúc, kinh tế hợp tác xã đã trở nên tàn lụi, đẩy nền nông nghiệp Việt Nam vào một nguy cơ khủng hoảng cho đến cuối những năm 80, trước khi mở ra công cuộc đổi mới.
"Việc phân chia ruộng đất quê manh mún, tệ rong công phóng điểm, tình trạng phân phối lương thực và thu nhập bình quân, hợp tác xã và xã viên, giành quá nhiều khoản bao cấp cho xã hội, bao cấp quá giá và nạn chuyên quyền độc đoán, mất đoàn kết, mất dân chủ tham ô, lợi dụng của các bộ nhà nước đang làm cho nông dân xã viên thiếu phấn khởi gây trở ngại cho sản xuất phát triển" - đó là nhận định của Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khi nhìn nhận lại nguồn gốc dẫn đến sự suy thoái phong trào hợp tác hóa cho đến những năm 80. Sự suy thoái này cũng tác động đến thân phận người nông dân mà cho đến nay nó mới có cơ hội được đề cập tới trong những công trình nghiên cứu lịch sử kinh tế, tổng kết lý luận hay tái hiện trong nghiên cứu khoa học đối với nông nghiệp nông thôn.
Chỉ thị 100, ngày 13-1-1981, của Ban Bí thư được ra đời sau Hội nghị Trung ương 9 (khóa IV) thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động đã tạo ra một động lực mới kích thích người nông dân tận tâm sản xuất hơn. Nhưng nó chỉ có tác dụng trong một thời gian ngắn, vì nó mới chỉ xử lý vấn đề quản lý và phân phối dựa trên cơ sở thực hiện khoán đối với người lao động (thực hiện ba khoán) để xác định công điểm cho họ và trên cơ sở đó phân phối sản phẩm cho họ làm ra còn lại bao nhiêu đem lại cho hợp tác xã. Với hình thức này, mặc dù đã có sự cởi trói cho người nông dân, nhưng vì một số địa phương đã mắc phải sai lầm đó là khoán trắng toàn bộ cho nông dân, không thực hiện chủ trương ba khoán như nhà nước quy định, nên hộ nông dân vẫn còn để ruộng trắng, không phát huy được đất đai do thiếu vốn, không đầu tư vào ruộng đất được giao khoán. Quảng Bình được nằm trong tình hình này, chính vì thế chưa giải quyết được vấn đề cốt lõi nhất của nông nghiệp đó là vấn đề sử dụng ruộng đất.
Chính công cuộc đổi mới mở ra từ Đại hội VI (1986) với tinh thần "tự cởi trói" và thay đổi cách tư duy đã dẫn đến Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (5-4-1988) giao hẳn đất canh tác đã được tập thể hóa cho hộ xã viên trực tiếp sản xuất, kinh doanh, được làm chủ hoàn toàn số nông sản làm ra theo cơ chế kinh tế thị trường đã hình thành cùng với công cuộc đổi mới. Có ruộng đất trong tay, người nông dân thể hiện sự thần kỳ của họ trước tiên bằng những giọt mồ hôi rơi trên mảnh đất của mình. Chỉ sau một năm (1989): "Năng suất lúa tăng vọt lên 32,3 tạ/ha, sản lượng từ 15,1 triệu tấn năm 1987 tăng lên 18,9 triệu tấn và 1,4 triệu tấn đã được xuất khẩu" [45, tr. 27]. Cũng kể từ đó, các chỉ tiêu về năng suất, sản lượng không ngừng tăng. "Năm 1992 xuất khẩu 1,9 triệu; 1993: 1,7 triệu; 1994 tăng tới 2 triệu... Vào những năm 90, khi dân số nước ta vượt qua con số 70 triệu dân, sản lượng thóc tính theo đầu người (346kg vào năm 1992) đã cao hơn hẳn 1942 là 281 kg so với dân số không bằng 1/3 (21 triệu)" [45, tr. 27]. Đây là một khoảng cách thần kỳ trên nửa thế kỷ.
Như vậy, việc giao đất cho nông dân trực tiếp sử dụng cùng với những thay đổi đầu tiên của môi trường kinh tế mà Nghị quyết 10 đem lại theo hướng trên đã làm cho năng suất, sản lượng nông nghiệp có bước chuyển nhảy vọt để đưa nền nông nghiệp trở thành hàng hóa.
* Giai đoạn thực hiện việc Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
Luật đất đai 1993 được Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước ban hành đã thể chế hóa về mặt Nhà nước Nghị quyết 10. Thực hiện luật đất đai, Chính phủ ban hành Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành luật đất đai và là cơ sở pháp lý để thực hiện chủ trương của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VII về phát triển nông nghiệp nông thôn. Điều hết sức quan trọng nữa là phải cấp cho được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân.
Theo tinh thần của Nghị định 64/CP, tại thời điểm này đại đa số nông dân trong tỉnh đã được giao đất tại thực địa và sản xuất theo tinh thần của Nghị định 64/CP, nên đã tập trung vào một số nội dung chính:
Thứ nhất, xác định quỹ đất giao cho hộ gia đình và cá nhân:
Theo Điều 2 quy định: Đất nông nghiệp giao cho hộ gia đình cá nhân sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp bao gồm: Đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản. Các loại đất này bao gồm cả đất làm kinh tế gia đình trước đây hợp tác xã giao, đất vườn, đất thâm canh, đất trống đồi núi trọc, đất hoang hóa để xác định sản xuất nông nghiệp. Đối với những loại đất nông nghiệp không thể giao cho hộ gia đình cá nhân thì cho tổ chức hộ gia đình cá nhân thuê để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, sau khi xem xét tình hình thực tế của tỉnh, một số loại đất được tỉnh đồng ý không cho giao theo Nghị định 64/CP là:
- Đất mới khai hoang phục hóa.
- Đất giao theo chiến lược kinh tế vùng gò đồi (707 và 327).
- Đất đang có tranh chấp chưa được giải quyết.
- Đất đang có người nhận thầu (theo Nghị quyết 10 và Chỉ thị 100) chưa đến hạn trả).
- Đất không có hộ gia đình hoặc cá nhân nào nhận.
Tất cả những loại đất đó đều được giao cho ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý, không được đưa vào % quỹ công ích của địa phương.
Thứ ba, theo Điều 4 Nghị định 64/CP quy định: Thời hạn giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm cho gia đình và cá nhân sử dụng là 20 năm, trồng cây lâu năm là 50 năm.
Thứ tư, trong thời gian được Nhà nước giao đất, hộ gia đình cá nhân được thực hiện 5 quyền theo luật đất đai (quyền chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê, chuyển đổi). Quỹ công ích để dưới 5% đất nông nghiệp toàn xã, giao cho ủy ban nhân dân xã quản lý.
Để thực hiện Nghị định 64 của Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh đã mở hội nghị cốt cán quán triệt những nội dung cơ bản của Nghị định, đồng thời thành lập ban chỉ đạo thực hiện Nghị định 64/CP của tỉnh. Đến cuối 1993 ban chỉ đạo của tỉnh mới hoàn thành tất cả các văn bản hướng dẫn việc thực hiện Nghị định 64/CP. Do xác định được tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược của Nghị định 64/CP, Ban chấp hành Tỉnh ủy và Hội đồng nhân dân tỉnh đã kịp thời ra các nghị quyết về việc sớm hoàn thành công tác giao đất theo nghị định 64/CP. Thực hiện chủ trương này ngày 2-4-1994 ủy ban nhân dân tỉnh đã ra Chỉ thị số 03/CT-UB chủ trương triển khai Nghị định 64/CP trên địa bàn toàn tỉnh.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản về Luật đất đai 1993 và Nghị định 64/CP đối với việc giao quyền sử dụng đất của tỉnh vẫn gặp một số khó khăn: Do điều kiện mới tái lập tỉnh (7/1989), nhiều địa phương các tài liệu và số liệu về đất không đồng bộ, cũ và thiếu, hầu hết các địa phương không thực hiện đầy đủ công tác chỉnh lý biến động đất đai, do vậy không nắm chắc được quỹ đất. Đây là một khó khăn rất lớn đối với việc cấp đất và giao đất.
Trong quá trình bắt tay vào việc thực hiện Nghị định 64/CP thì Nghị định 02/CP ngày 15-1-1994 cũng được ban hành về việc "giao đất lâm nghiệp cho tổ chức hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp". Đây cũng là một nghị định hướng dẫn việc thi hành luật đất đai và cũng là cơ sở pháp lý để thực hiện chủ trương của Nghị quyết Trung ương 5 về phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Theo tinh thần của Nghị định 02/CP về việc xác lập quỹ đất lâm nghiệp được quy định ở Điều 1: "Đất lâm nghiệp được Nhà nước giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài" được thể hiện:
- Đất có rừng tự nhiên, đất đang có rừng trồng.
- Đất chưa có rừng được quy hoạch để gây trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ thảm thực vật.
Đối với đất rừng tự nhiên lại được phân định thành ba loại:
+ Rừng phòng hộ được sử dụng chủ yếu bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, điều hòa khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
+ Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn ghen thực vật, động vật rừng nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh phục vụ nghĩ ngợi du lịch.
+ Rừng sản xuất được sử dụng chủ yếu để sản xuất kinh doanh gỗ các lâm sản khác, đặc sản rừng và kết hợp phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái.
Còn đất chưa có rừng là đất trống đồi trọc được xác định vào việc gây trồng rừng. Đối với loại đất này đến nay vẫn chưa có những cơ sở khoa học thuyết phục để chuẩn hóa đó là đất nông nghiệp hoặc đất lâm nghiệp. Đối với loại đất này có rất nhiều chính sách tác động vào nó, do đó khó đánh giá được kết quả cụ thể của việc thực hiện Nghị định 02/CP. ở tỉnh Quảng Bình có Quyết định 707/QĐ-UB, ở Trung ương có chương trình 327 với tiêu chí chung là phủ xanh đất trống đồi trọc.
Theo tinh thần của Nghị định 02/CP thì ngành lâm nghiệp mà trực tiếp là chi cục kiểm lâm chịu trách nhiệm. Đối với ngành địa chính là cơ quan phối hợp chịu trách nhiệm về việc lập hồ sơ trình cấp có thẩm quyền giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất cho các chủ sử dụng (hiện nay là Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16-11-1999 của Chính phủ) chủ yếu là giao toàn bộ công tác này cho cơ sở địa chính cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp.
Như đã trình bày trên, việc giao quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân ở Quảng Bình được tiến hành liên tục từ đầu năm 1994 và đến nay đã cơ bản hoàn thành. (theo báo cáo tổng kết việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị số 10/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13-4-2000 của Sở Địa chính Quảng Bình).
Thực hiện hai nghị định trên, toàn tỉnh tính đến 5/1995 đã giao được 87,08% diện tích và 90,88% số hộ. Đến tháng 5/1998 đã giao được 97,2% diện tích và 97% số hộ. Việc giao đất tương đối nhanh.
Việc tổ chức triển khai giao đất tương đối nhanh do có sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy và chính quyền địa phương. Sau khi có Chỉ thị 10 CT/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tổng cục địa chính, Thường vụ tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh đã tập trung giải quyết những khâu ách tắc trong việc giao đất và cấp giấy. Nên Thường vụ Tỉnh ủy cũng đã có Nghị quyết số 10 ngày 28/02/1999 về một số vấn đề về nông nghiệp nông thôn, Nghị quyết ghi rõ: Nhà nước cần hỗ trợ vốn cho miền núi, vùng cao, nơi khó khăn lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và năm 2001 giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp.
Chính nhờ những biện pháp tích cực đó, đến năm 2000 diện tích đất nông nghiệp giao theo tinh thần Nghị định 64/CP đạt được 39.667,77 ha và số hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 99.590 hộ/101.989 hộ đạt 89,4%. Diện tích được cấp giấy 31.954 ha; đạt 80,4% diện tích, nếu tính diện tích đã giao cho UBND xã quản lý 2.110,77 ha đạt 85,1%. Đối với đất lâm nghiệp diện tích giao và cấp giấy là: 46.719,83 ha đạt 8,7%. Trong đó tổng số hộ và tổ chức nhận đất 7.513 trong đó: Tổ chức 66; hộ: 7.447 và cấp được 1.613 giấy.
Sau khi giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Quảng bình đã đạt được hiệu quả kinh tế:
- Người nông dân có quyền pháp lý được Nhà nước công nhận, gắn bó với ruộng đất nên yên tâm đầu tư, thâm canh cải tạo tốt hơn. Do vậy, hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tăng rõ rệt. Nếu như năng suất lúa trước năm 1990 chỉ đạt bình quân mỗi năm 113.000 tấn thì đến năm 1995 đạt 148.566 tấn và đến năm 1999 là 203.309 tấn [44, tr. 38]. Đạt được kết quả trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng là việc giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định, lâu dài đã tạo động lực mạnh mẽ kích thích hộ gia đình chủ động sản xuất, đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là các giống lúa mới, lúa thuần, lúa lai, ngô lai phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh.
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; nhất là một số diện tích trồng cây lương thực, thực phẩm ở các vùng đất bị nhiễm mặn, phèn chua, khô hạn năng suất thấp đã chuyển đổi cây trồng khác. Chỉ tính riêng diện tích lúa 10 đã chuyển đổi được gần 50% giảm từ 8.000 ha xuống còn 4.000 ha. Một số diện tích khác chuyển sang nuôi trồng hải sản như: Tôm, cua... đã làm tăng hiệu quả kinh tế trên diện tích canh tác, cụ thể là diện tích lúa bị mất trắng đã giảm hẳn từ 8.043 năm 1990 xuống còn 2.085 ha năm 1999.
- Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Do được giao đất ổn định lâu dài, nhiều hộ tính toán hiệu quả kinh tế, không trực tiếp làm ruộng mà cho thuê ruộng đất, chuyển sang kinh doanh các ngành nghề khác như dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời nó là quá trình tích tụ tập trung ruộng đất, hình thành nên các hộ làm kinh tế trang trại. Hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 2.488 ha làm trang trại. Chủ yếu là trang trại phủ xanh đất trống đồi trọc, kết hợp với mô hình V.A.C.R đã tạo ra điều kiện về nhu cầu di dân rất lớn đối với tỉnh Quảng Bình. Việc di dân này cũng tạo được cho việc đất không có chủ trở thành có chủ. Đời sống của dân di cư đến nay đã được ổn định hơn trước. Mặt khác đối với đất lâm nghiệp đã được xác định được chủ thể quản lý đối với rừng và đất trống đồi trọc mà Nghị định 64/CP và Nghị định 02/CP đã được minh chứng điều đó.
- Khi ruộng đất được giao hết cho chủ sử dụng, không còn đất vô chủ, nhờ vậy, quỹ đất xa, đất xấu không giao được lâu dài, quỹ đất công ích được đấu thầu sử dụng triệt để. Việc giao đất cũng có tác dụng rất lớn đến việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch; vì những khẩu đẻ sau thời điểm giao đất, không có tiêu chuẩn được giao đất (đối với người sinh con thứ 3), nên trong những năm qua tỷ lệ tăng dân số của Quảng Bình giảm rõ rệt. Từ năm 1990 - 1995, bình quân mỗi năm tỷ lệ suất sinh giảm 0,37%0, từ 1996 - 2000 mỗi năm giảm 2,11%0. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số do đó cũng giảm với tốc độ nhanh, từ 25,19%0 năm 1990 xuống 23,9%0 năm 1995. Mặt khác, đất được giao ổn định và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên trách nhiệm của người sử dụng đất được nâng lên, đặc biệt là các hiện tượng tiêu cực trong sử dụng đất được giảm đi trong việc tranh chấp đất đai, tranh chấp ranh giới, giảm đi rõ rệt.
- Trên cơ sở được giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người sử dụng được thực hiện 5 quyền theo luật đất đai, Quảng Bình đã thực hiện giao đất trên cơ sở nguyên trạng khoán 10 để lại, có gần, có xa, có xấu, có tốt. Vì vậy, xuất hiện tình trạng ruộng đất bị manh mún, nhiều hộ có từ 10-15 thửa, có mảnh ruộng chỉ vài chục mét vuông. Do hậu quả của quá trình manh mún, phân tán ruộng đất đã làm cho việc đầu tư thâm canh, xây dựng các vùng chuyên canh, vùng sản xuất giống gặp nhiều khó khăn. Việc quy hoạch giao thông, thủy lợi xử lý các trường hợp khi có thiên tai và xây dựng các công trình điểm, giải phóng mặt bằng... liên quan nhiều đến hộ sử dụng đất gây khó khăn phức tạp. Từ thực tế đó một số địa phương trong toàn tỉnh đã chủ động và tạo điều kiện cho nhau trong quá trình chuyển đổi ruộng đất. Như các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh, vì vậy ở hai huyện này làm rất tốt công tác giao quyền sử dụng ruộng đất. Tính đến nay hai huyện đã giao gần 99% số đất nông nghiệp.
Sau khi luật đất đai 1993 ra đời, ngày 15/01/1994, Chính phủ ban hành nghị định 02/CP về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Do đó, giao đất lâm nghiệp ở thời kỳ này có thuận lợi lớn là Luật đất đai ra đời, chính sách giao đất hoàn thiện, kinh tế hộ và phát triển kinh tế nhiều thành phần được khẳng định và khuyến khích. Đất lâm nghiệp được giao ổn định, lâu dài cho các chủ thể trong các thành phần kinh tế, trong xã hội; nghĩa vụ và quyền lợi của chủ rừng được quy định cụ thể và được pháp luật bảo hộ, nông dân yên tâm đầu tư lao động và tiền vốn để bảo vệ, trồng rừng về lợi ích gia đình và xã hội. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp nên nông dân đã tích cực tham gia phương án giao đất, đo đạc, cắm mốc, lập sơ đồ và hồ sơ địa chính cho từng hộ gia đình cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp, đặc biệt là cấp xã, thôn đã tổ chức thực hiện trực tiếp, có tính chất quyết định trong giao đất lâm nghiệp trên địa bàn xã, trên các khâu tuyên truyền giáo dục, chính sách đối với dân, mặt khác đã giải quyết những vướng mắc về đất đai như: tranh chấp, tình trạng manh mún trong sử dụng đất lâm nghiệp tại địa phương, bảo vệ thành quả lao động của các hộ gia đình nhận theo Quyết định 184 trước kia, bảo đảm sự đoàn kết, ổn định về chính trị trong nông thôn miền núi. Đồng thời góp phần thúc đẩy kinh tế gia đình phát triển, tạo hình thành phát triển trang trại, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo ở nông thôn miền núi, vùng cao. Điều quan trọng nhất là các chủ rừng đã bắt đầu có tư duy kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa.
Như vậy, từ sau khi có Luật đất đai, cùng với Nghị định 64/CP và Nghị định 02/CP kết hợp với sự đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, việc giao quyền sử dụng ruộng đất đã đạt được những thành tựu to lớn.
- Mặc dù đất nông nghiệp có giảm (chủ yếu là đất canh tác) do việc chuyển một số diện tích sang mục đích chuyên dùng, đất ở, để xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp, giao thông thủy lợi, văn hóa, giáo dục, y tế... nhưng sản xuất nông nghiệp sau khi thực hiện chủ trương giao đất đã tăng sản lượng không ngừng, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội ở nông thôn ngày càng phát triển.
- Tăng được hệ số khai thác sử dụng đất hợp lý trong nông nghiệp là 1,48.
- Đất lâm nghiệp ngày càng được khai thác và diện tích ngày càng tăng, việc đầu tư khuyến khích nhân dân trồng, khoanh nuôi bảo vệ rừng. Cây lâm nghiệp được trồng ngày một có giá trị cao hơn. Đã sử dụng các cây lâu năm, cây ăn quả có độ tán che tốt trồng thay thế các cây lâm nghiệp có giá trị kinh tế thấp, các mô hình vườn rừng có hiệu quả kinh tế cao được nhân rộng và phổ biến trong toàn tỉnh.
- Giải phóng được năng lực sản xuất, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động (lực lượng lao động trong nông nghiệp ở Quảng Bình năm 1990 là 315.736 người; 1995 là 349.782 người và năm 2000 là 380.306 người tăng so với 1995 là: 30.524 người. Bình quân từ 1990 đến 2000 tăng 1,88% ở nông thôn. Hạn chế đến vấn đề thất nghiệp, các tiêu cực khác trong xã hội ở nông thôn.
Bên cạnh những thành tựu đạt được của chủ trương này, khi thực hiện xong Nghị định 64/CP vẫn còn một số hạn chế nhất định.
- Do diện tích đất nông nghiệp Quảng Bình có hạn, dân số phân bố không đồng đều, có 91,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUANVAN.doc
- MUCLUC.doc