Luận văn Giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

2. Lịch sử vấn đề

3. Mục đích nghiên cứu

4. Phạm vi nghiên cứu

5. Phương pháp nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Một số quan niệm về giọng điệu văn chương

1.1.1. Ở góc độ lí luận văn học

1.1.2. Ở góc độ nghiên cứu văn học

1.1.3.Ở góc độ thi pháp học

1.2. Một vài nhận xét chung về giọng điệu

1.3. Khái niệm

1.3.1. Giọng điệu văn chương

1.3.2. Giọng điệu văn chương trung đại

1.4. Thơ Nguyễn Đình Chiểu – Sự kết hợp truyền thống và đổi mới trên một số lĩnh

vực hình thức thơ

1.4.1. Lời thơ

1.4.2. Nhạc điệu

1.4.3. Nhịp thơ

Chương 2: TÍNH CHẤT TRỮ TÌNH, ĐA THANH, NHIỀU CUNG BẬC TRONG

GIỌNG ĐIỆU THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

2.1. Giọng trữ tình đạo đức

2.1.1. Giọng triết lí, trải đời

2.1.2. Giọng nhẹ nhàng, gián tiếp

2.1.3. Giọng lạc quan, tự tin

2.2. Giọng trữ tình sử thi

2.2.1. Giọng sôi nổi, hào hùng

2.2.2. Giọng cổ điển, trang trọng

2.2.3. Giọng bi hùng

Chương 3: YẾU TỐ HÌNH THỨC TRONG MỐI TƯƠNG QUAN VỚI GIỌNG

ĐIỆU THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

3.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ

3.1.1. Phương ngữ Nam bộ

3.1.2. Thành ngữ, tục ngữ, ca dao

3.1.3. Từ Hán Việt

3.1.4. Điển tích, điển cố

3.2. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh

3.2.1. Hình ảnh so sánh dân gian

3.2.2. Hình ảnh so sánh ẩn dụ, tượng trưng

3.3. Các biện pháp nghệ thuật khác

3.3.1. Liệt kê

3.3.2. Tương phản

3.3.3. Phép láy PHẦN KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN

 

 

 

 

 

 

 

doc55 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6967 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giọng điệu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ượng của phe chính nghĩa tuy nhỏ nhưng sẽ thắng lợi: “Cho hay chỗ diệu hóa công Trong động có tĩnh, hết cùng lại thông Vật tột thời phản vốn không tột hoài Lẽ đâu cang hại đặng dai Đến khi cang cực nghiên vai chịu cầm”. (Ngư Tiều y thuật vấn đáp) Cái đạo lí “đạo trời” có vẻ mang màu sắc trừu tượng huyền bí. Song, nó cũng khẳng định con đường tất thắng của dân tộc và sự thất bại không tránh khỏi của thực dân Pháp. Phần nào Nguyễn Đình Chiểu đã củng cố lòng tin tưởng cho những người yêu nước. Tinh thần lạc quan sẽ thắng lợi, vì đó là bản chất của người yêu nước chân chính: “Một trận bão rồi bờ cõi sạch, Trời thu như cũ mãi không hao!” (Trời bão) Với niềm tin như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã cùng với nhân dân tha thiết trông đợi ở tương lai sáng sủa cuộc kháng chiến cứu nước “chờ từ ải Bắc đến non Nam”. Dưới vòm trời đen nghịt của chế độ thực dân, Nguyễn Đình Chiểu vẫn nung nấu một niềm hy vọng ở ngày mai trên đất nước hoàn toàn giải phóng: “Ngày nào trời đất an ngôi cũ Mừng thấy non sông bặt gió Tây”. (Ngư Tiều y thuật vấn đáp) Giọng thơ tràn đầy niềm lạc quan, đã khẳng định niềm tin trong sáng và chân thành của Cụ Đồ Chiểu vào tương lai của đất nước và sự thắng lợi chính nghĩa. Nguyễn Đình Chiểu tin tưởng một cách sâu sắc rằng sự nghiệp kháng chiến cứu nước của dân tộc ta là một sự nghiệp “chí nhân đại nghĩa” hoàn toàn phù hợp với lẽ phải và lương tâm của con người, cho nên cuối cùng sẽ giành được thắng lợi. Ông đã cùng với nhân dân mong đợi ngày giải phóng đất nước ra khỏi nanh vuốt của kẻ thù. Niềm hy vọng đó, một khi trở thành hiện thực, nhân dân ta sẽ được yên vui, những người hiền tài sẽ có dịp phò đời giúp nước, sẽ xây dựng một xã hội lý tưởng, công bằng và nhân ái như Ngư Ông đã nói: “Ngư rằng: gặp thuở thái hanh Bọn ta cũng đặng rạng danh nước nhà”. Và: “Bao giờ nhật nguyệt dày gương sáng Bốn bể câu ca hiệp một nhà”. (Ngư Tiều y thuật vấn đáp) Niềm hy vọng ấy, còn như là tia nắng ấm áp xoa dịu, an ủi chính ông và những con dân đang sống dưới ách đô hộ. Hy vọng, tin tưởng để lạc quan yêu đời hơn, yêu nước hơn và tiếp tục chiến đấu can trường hơn. Sự mong mỏi vào một vị minh quân cứu nước giúp dân của Cụ “Đòi ngày luống đợi Đông Quân cứu đời” đã tắt lịm, không chút hy vọng. Cụ đau đớn vô cùng khi thực tế phũ phàng, triều đình bạc nhược, lần lượt dâng Nam kỳ cho pháp. Người chiến sĩ yêu nước ấy đã từ bỏ chữ “trung quân”, quên đấng minh quân và đi tìm đạo lý, chính nghĩa. Đạo lý đó chính là dân tộc Việt Nam, dân tộc đang bị áp bức bất công. Niềm tin và hy vọng đó cứ khoắc khoải như ngọn lửa không bao giờ tắt trong lòng những người yêu nước. 2.2. Giọng trữ tình sử thi Sử thi vốn là thể văn tự sự, ra đời vào buổi bình minh xã hội loài người, số phận cá nhân gắn bó chặt chẽ với cộng đồng, bộ lạc, dân tộc. Tác phẩm sử thi “ngợi ca sự nghiệp anh hùng có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại với dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử… những anh hùng, tráng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thần, cho ý chí và trí thông minh, lòng dũng cảm của cộng đồng được miêu tả khá tỉ mỉ, đầy đủ từ cách ăn mặc, trang bị, đi đứng đến những trận giao chiến với kẻ thù, những chiến công lừng lẫy và đôi khi cả những nét trong sinh hoạt đời thường của họ nữa, điều đáng chú ý là tất cả những cái này đều được miêu tả khác thường”[6;285]. Trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu yếu tố sử thi cũng được thể hiện rõ nét. 2.2.1. Giọng sôi nổi, hào hùng Lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Đình Chiểu luôn luôn gắn liền với lòng căm thù địch sâu sắc và thái độ kiên quyết đánh giặc, thái độ ấy không hề dao động, dù cho trong cuộc chiến đấu có gặp tổn thất nhiều, dù cho phải hy sinh cả tính mệnh, “thà chết vinh hơn sống nhục”, luôn luôn sẵn sàng xả thân vì nước: “Sống làm chi theo quân tà đạo quăng vùa hương xô bàn độc thầy lại thêm buồn; Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì nghe càng thêm hổ … …Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh, chúng đều khen; Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Chính vì quan niệm trên, mà trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại những giây phút lịch sử sôi động nhất trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Bằng chất giọng hùng hồn, cảm khái, Cụ Đồ đã cho chúng ta hình dung được khí thế sục sôi của những ngày đầu khởi nghĩa nông dân. Khí thế ấy thật mạnh mẽ biết bao, nó giúp con người có thể vượt qua mọi thử thách để cứu nước, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu đã khái quát về thời cuộc và đánh giá khái quát về cuộc đời nhân vật, kể lại cuộc đời nhân vật là người nông dân nghèo khổ, chưa quen với cung kiếm binh đao bỗng chốc trở thành người nông dân đánh Tây. Người nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường, là “dân ấp, dân lân”, “ngoài cật có một manh áo vải”. Bản tính lại hiền lành, chất phác, quanh năm suốt tháng “côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Bên trong lũy tre làng, họ “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”, thành thục với nghề nông trang “việc cuốc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn làm quen”. Nhưng do mến nghĩa làm “quân chiêu mộ”, người anh hùng nghĩa sĩ đã đứng lên chiến đấu, mặc dù: “Việc cuốc việc cày bừa việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên tập súng tập mác tập cờ, mắt chưa từng ngó”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Cụ Đồ đã hết lòng ca ngợi họ với giọng yêu thương, nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này “Họ lấm láp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tấm lòng sáng để phát hiện ra họ, nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn võ, họ để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ. Đó chính là tấm lòng yêu nước, trương nghĩa của người nông dân”. Họ yêu nước, tự ý thức được nghĩa vụ của mình nên chiến đấu rất dũng cảm kiên cường và lập nên những chiến công hiển hách. Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi họ và khắc sâu vào tâm trí hình ảnh bất tử của nghĩa quân, nhắc lại quá trình đấu tranh gian khổ mà người nông dân đã trải qua. Khi nghe tin quân giặc đến, dù là dân thường nhưng những người nông dân lòng đầy sốt ruột. Trong xã hội xưa, những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan. Dân nghe theo quan mà làm, nhìn thấy quan mà làm theo. Vì thế, họ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa. Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Ta thấy giọng thơ của Cụ Đồ có sự gấp rút sôi động lại rất chân thành thể hiện lối suy nghĩ cụ thể thật thà của người nông dân Việt nam, đặc biệt là người Nam bộ. họ không thích nói bóng gió, hoa mỹ mà thích nói thẳng, nói vào đề. Cuộc sống của họ đang yên bình, kẻ thù đến cướp phá, nên họ quyết tâm chiến đấu tới cùng, thái độ của họ rất căm phẫn, muốn “ăn gan”, “uống máu quân thù”, ý chí chiến đấu của họ rất dũng cảm. Lời văn giàu hình ảnh của Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện một khí thế chiến đấu hoàn toàn tự nguyện, tự giác của người nông dân Nam bộ, không khí đánh giặc của họ thật khẩn trương, nhanh chóng: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Người nông dân tự mình ý thức trách nhiệm của mình với non sông đất nước. Họ căm thù vì tội ác “quỉ giận thần hờn” của giặc mà chẳng ngại đi vào cuộc chiến đấu của dân tộc không mảy may tính toán thiệt hơn “trời khôn lường trưa sớm nắng mưa”, người đâu biết hôm mai họa phuớc “trước cảnh dân sa nước lửa chầy ngày, giặc ép mỡ dầu hết sức”. Họ căm thù giặc, “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, muốn ăn gan cắn cổ, nguyện ra công can thành quyết chí đoạn kình chứ không chịu đầu Tây, táng sư đầu giặc vì tấc đất ngọn rau ơn chúa vun trồng cho nước nhà ta, vì để cứu một phương con đỏ khỏi phải chịu cảnh: “Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thu của quay lèo, Tội chẳng tha con nít đàn bà đốt nhà chém vật Trải mười mấy năm chầy khốn khó, bị khảo bị tù bị đày bị giết, trẻ già nghe nào xiết đếm tên, Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông, hoặc biển, hoặc núi hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt”. (Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh) Nên khi Tổ quốc lâm nguy là họ muốn xông thẳng ra chiến trường, không chờ phải rèn tập đầy đủ “mười tám ban võ nghệ”, và đọc hết “chín chục bộ binh thư”. Xung vào các đội nghĩa binh, họ có ý thức rõ ràng về nghĩa vụ của mình đối với đất nước. Họ tự trang bị cho mình những điều kiện cần thiết để chiến đấu, trong cảnh đất nước bị thực dân chi cắt: “Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; mấy mươi trận binh thơ, không chờ bày bố”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Lòng yêu nước không độc quyền của ai. Huống chi, với những người nông dân chân chất, khi “mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” thì họ “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Vì thế, dù là dân ấp, dân lân, trong tay chỉ còn một tầm vông, họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả: “Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu tên quan hai nọ”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Cuộc đối đầu một mất một còn giữa người nông dân yêu nước với kẻ thù ấy là một cuộc đối đầu không cân sức. Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tự giác đứng lên, không có ai tổ chức, chẳng có binh thư, binh pháp, còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản, có quy mô, quy cũ. Họ thất thế khi xông trận mà ngoài cật chỉ có một manh áo vải, trong tay cầm ngọn tầm vông, còn kẻ thù lại có tàu sắt tàu đồng, đạn nhỏ, đạn to. Song chí căm thù, lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ, liều mình như chẳng có ai. Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó. Bằng giọng văn dứt khoát, dồn dập đầy hào khí, hùng hồn, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại tinh thần bất khuất của nghĩa quân trước làn tên mũi đạn của kẻ thù, nâng tinh thần yêu nước của họ lên một tầm cao chưa từng thấy. Họ quyết đem thân bách chiến, sẵn sàng “da ngựa bọc thây”, và họ quan niệm cái chết một cách bình thản, thác coi như ngủ vì trận nghĩa đánh Tây: Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm trao mộ”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Người nghĩa sĩ nông dân chiến đấu là vì lòng yêu nước một cách tự giác, là sự tự ý thức về vai trò và sứ mệnh của mình trước sự mất còn của Tổ quốc mà cái gần gũi nhất đối với họ là “tấc đất ngọn rau”, “bát cơm manh áo”. Họ đã chiến đấu với một khí thế hào hùng không những khi sống mà cả khi đã hy sinh: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được trả thù kia” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Giọng văn mạnh mẽ của Cụ Đồ cho ta một niềm tin vào chiến thắng. Khẳng định của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ tái hiện khí thế cuộc chiến giữa nhân dân ta và thực dân Pháp mà còn khơi dậy lòng căm thù trong nhân: “Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục đạp rào bước tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Các động từ “đạp”, “xô”, “liều” đã làm cho nhịp điệu lời văn hùng tráng, đầy hào khí chiến đấu, giọng văn trở nên gấp rút sôi nổi, cho thấy một thế trận tiến công áp đảo của nghĩa quân Cần Giuộc. Mặc dù giặc được trang bị vũ khí hiện đại, nhưng họ vẫn không lùi bước. Khi xông pha trận mạc, với vũ khí thô sơ mà vẫn cờ phất trống rung cả ba quân tả xung hữu đột, quân ó vang đầy; chí dốc đoạn kình ra tay bộ hổ, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi. Họ tiến thẳng vào cuộc chiến bằng lòng quyết tâm cao độ. Sự căm thù và lòng dũng cảm đã tạo nên cho họ một sức mạnh như vũ bão và họ đã làm chủ thế trận, dồn địch vào thế bất lợi được Nguyễn Đình Chiểu thể hiện bằng giọng đầy tính khẳng định: “Kẻ đâm ngang người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh; người hè trước kẻ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”. (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc) Như chúng ta đã biết, nét chủ đạo về giọng thơ của Nguyễn Đình Chiểu là giọng trầm nhưng trầm hùng. Giọng thơ ấy như có sức mạnh hùng hồn, khẳng khái. Những câu thơ: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” (Dương Từ - Hà Mậu) có một giọng điệu khẳng định rất rạch ròi, lời thơ rắn chắc như thép và kiên định như đá, đã thể hiện ý chí chiến đấu không mệt mỏi của Nguyễn Đình Chiểu. Ông kêu gọi mọi người dân hãy tự đứng lên chiến đấu với tất cả vũ khí có thể, để giúp nước nhà qua thời ly loạn. Lời thơ ở đây giàu chất chính luận, thể hiện ý chí chiến đấu cao. Chiến đấu trên trận địa quân sự đã quyết liệt, chiến đấu trên mặt trận tư tưởng lại càng quyết liệt hơn: “Bờ cõi xưa đà chia đất khác Nắng sương nay há đội trời chung”. (Ngóng gió đông) Nguyễn Đình Chiểu đã thẳng thắn bày tỏ thái độ bất hợp tác với kẻ thù. Bờ cõi đã chia hai: Một bên của người Việt, một bên thuộc về tay thực dân Pháp thì trong lòng của Nguyễn Đình Chiểu cái ranh giới phân biệt giữa ta và kẻ thù cũng thật rõ rệt. Bọn cướp nước và lũ vô nhân, bạc ác, vào nước ta để “cạo đầu dân” là bọn quỷ trắng đến đâu là nồng nặc mùi máu đến đó. Chính bọn chúng đã gây nên bao cảnh hoang tàn đổ nát, cảnh tàn sát đẫm máu các phong trào kháng chiến khiến cho “gió thảm mưa sầu”, thiên nhiên cũng rơi nước mắt vì đau xót, căm hận: “Vườn luống trông xuân hoa ủ dột Ruộng riêng sầu chủ lúa khô khan”. (Thơ điếu Phan Tòng) Tất cả những hiện thực ấy như đang bày ra trước mắt chúng ta, như vừa mới diễn ra trong phút chốc. Ta như cảm nhận được hơi nóng của thời cuộc tỏa ra từ thơ Nguyễn Đình Chiểu. Trang thơ Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành trang thời sự thường nhật, cập nhật những tin tức còn nóng bỏng. Đúng như lời Nguyễn Đổng Chi đã từng nhận xét: “Văn chương Nguyễn Đình Chiểu là thứ văn chương trình bày lí tưởng, nhưng cũng là thứ văn chương phản ánh thời sự”. Đọc những trang thơ ta như cảm nhận được hơi nóng hừng hực của lòng căm thù giặc, của ý chí đánh giặc kiên cường của nhân dân Nam bộ, chấp nhận “buổi sa trường da ngựa bọc thây”, quyết không đầu Tây sống chung với giặc. Hơi thơ hừng hực, giọng thơ đinh ninh, rắn chắc. Hai yếu tố ấy đã kết hợp lại thành lời động viên củng cố tinh thần nhân dân vững bước trên con đường đấu tranh với kẻ thù. Nó đã tạo nên một âm hưởng rất đổi hào hùng, tiếng đồng vọng mạnh mẽ của chiến công trận mạc và cũng là khúc ca hùng tráng của quê hương trong những ngày chống Pháp. 2.2.2. Giọng cổ điển, trang trọng Khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên trên đất Gia Định, cuộc sống yên bình phút chốc bỗng trở nên hỗn loạn, thay đổi nhanh chóng, biết bao cảnh tượng đau thương trong cơn biến loạn li “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy/Dáo dác đàn chim mất tổ bay”, đất Nam bộ ngập tràn trong khói lửa chiến tranh “Trời Gia Định trời chiều rạng ráng, âm hồn theo cơn bóng ác dật dờ; Đất Biên Hòa đêm vắng trăng lờ, oan quỷ nhóm ngọn đèn dầu hiu hắt. An Hà quận đang khi bạch trú, gió cây vụt thổi, cát bụi bay con trốt dậy bên thành. Long Trường Giang mỗi lúc hoàng hôn, khói nước xông mù, lửa đóm nháng binh ma chèo dưới vực” (Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh). Triều đình lại bạc nhược, bỏ mặc dân tình lầm than, đầu hàng lần lượt cắt đất cho giặc, thì nhân dân miền Nam nói chung và nhân dân lao động nói riêng, dưới sự lãnh đạo của các bậc hào kiệt yêu nước, đã đứng dậy cầm khí giới chống giặc một cách tự nguyện. Trong cảnh đất nước sục sôi máu lửa của chiến tranh, có biết bao hình tượng con người yêu nước đã chiến đấu và hy sinh anh dũng vì nghiệp lớn của dân tộc, từ những người nông dân áo vải cho đến những anh hùng lãnh binh đã sống và chiến đấu bằng tất cả nghị lực, sức mạnh của mình. Nguyễn Đình Chiểu đã dành nhiều trang viết ca ngợi họ với một thái độ chân thành và giọng điệu trang trọng, cảm phục. Nếu như trước kia, trước nạn ngoại xâm, mỗi khi giai cấp phong kiến đứng ra lãnh đạo cuộc kháng chiến, nhân dân hào kiệt anh hùng bốn phương tụ hợp lại và làm được những cuộc chiến tranh nhân dân, và đó chính là sức mạnh của các cuộc kháng chiến đời Lý, đời Trần, của Lê Lợi, Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Huệ. Nhưng đến cuối thế kỉ XIX, chế độ phong kiến phản động nhà Nguyễn đã trở thành kẻ phản bội, đầu hàng và trong nhân dân nhất là ở Nam bộ, vua quan đã bị lên án nghiêm khắc. Lúc bấy giờ, những nhà nho yêu nước thà chịu mang tiếng nghịch thần đã đứng hẳn vào hàng ngũ của nhân dân để tiếp tục kháng chiến: Đó là Trương Định: “Giúp đời dốc trọn ơn nam tử, Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần.” (Thơ điếu Trương Định) Đó là Phan Tòng: “Viên đạn nghịch thần treo trước mắt, Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay.” (Thơ điếu Phan Tòng – Bài I) Bằng những lời hào hùng, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu những tấm gương rực rỡ trong lịch sử, ngợi ca những anh hùng nghĩa sĩ giữ trọn tiết tháo, làm nên những công tích phi thường, những người thà chịu chém chứ không hàng giặc, những người mình đầy máu và thương tích. Nhà thơ đã dành những lời thơ hết sức thiết tha, đạt đến một nghệ thuật lớn về trữ tình và tính anh hùng ca, để ca ngợi, nhắc nhở ghi công trạng của những lãnh tụ nghĩa binh chống pháp: “Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam; Giúp người cái nghĩa đáng làm, nên hư nào hại. Rạch Lá, Gò Công mấy trận, người thấy đã kinh; Cửa Khâu, Trại Cá các nơi, ai nghe chẳng hãi Nào nhọc sức họ tào biên số, lương tiền nhà ruộng, cho một câu hiểu nghĩa lạc quyên; Nào nhọc quan võ khố bình cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giang thương đạo tải. Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng lũy sắt các nơi; Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.” (Văn tế Trương Công Định) Việc Trương Định không chịu tuân theo lệnh Tự Đức để hàng giặc, trái lại theo đề nghị của nhân dân, tiếp tục phất cao cờ kháng chiến, Nguyễn Đình Chiểu hết lời ca ngợi Trương Định bằng những lời chân thành, nhiệt tình và tràn đầy sự khâm phục toàn vẹn: “Linh hồn nay đã tách theo thần Sáu tỉnh còn noi dấu tướng quân… Giúp đời dốc trọn ơn thiên tử Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần”. (Điếu Trương Tướng quân – Liên hoàn thập nhị thủ - bài II) Vì nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc mà sẵn sàng tử chiến, những con người anh hùng muôn thưở như Trương Định được nhân dân yêu quý, trân trọng dường nào, nhưng chính những người yêu nước ấy lại bị lên án là phản nghịch, vì sự đầu hàng của triều Nguyễn. Cái chết oanh liệt nhưng bất ngờ của tướng quân họ Trương là một tổn thất lớn đối với kháng chiến. Riêng đối với Đồ Chiểu, sự hy sinh của người anh hùng này là cả một sự đau xót không gì an ủi nổi. Hơn ai hết, Đồ Chiểu đã khóc trước cái tang chung ấy với tất cả tấm lòng thành kính: “Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng, gặp lúc gian truân; Đất Gò Công cây cối ủ ê, cảm niềm thần tử, hết lòng trung ái; Xưa còn làm Tướng, giốc rạng giồi hai chữ Bình Tây Nay thác theo thần, xin dựng hộ một câu phúc thái.” (Văn tế Trương Công Định) “Tướng quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái”, nhưng hình ảnh của họ rất hiên ngang, đẹp đẽ, đi vào lịch sử: “Làm người trung nghĩa đáng bia son Đứng giữa càng khôn tiếng chẳng mòn Cơm áo đền bồi ơn đất nước Râu mày giữ vẹn phận tôi con Tinh thần hai chữ phao sương tuyết Khí phách ngàn thu rỡ núi non.” (Thơ điếu Phan Tòng) Qua nguyên mẫu một Trương Định, Phan Tòng,… Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên hình tượng người sĩ phu tiêu biểu cho cả một tầng lớp kẻ sĩ ưu tú nhất của thời đại lúc bấy giờ. Và đã khẳng định quan niệm về người anh hùng của Cụ Đồ. Người anh hùng trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu không nhất thiết phải là những người xuất thân từ tầng lớp cao quý, tầng lớp trên của xã hội. Người anh hùng trong tác phẩm của ông đôi lúc chỉ là những người nông dân bình thường, quanh năm gắn bó với đồng ruộng “cui cút làm ăn, riêng lo nghèo khó”, quen với cái cuốc cái cày nhưng khi có xâm lược, họ hồ hởi xông lên đứng ở vị trí tuyến đầu trong khi trên mình là manh áo vải tay cầm ngọn tầm vông. Chính người nông dân đã cùng các vị lãnh tụ nghĩa binh lập nên những chiến công lừng lẫy: “Mấy trận Gò Công để tiếng đồn Dấu đạn hãy chìm tàu bạch quỷ” (Thơ điếu Trương Định) Và khi các lãnh tụ nghĩa binh hy sinh thì chính họ, những người nông dân lại là những lực lượng kế tục sự nghiệp đấu tranh chống giặc cứu nước: “Sáu tỉnh còn noi dấu tướng quân” (Thơ điếu Trương Định) Chính hoàn cảnh lịch sử, và sự gắn bó với nhân dân đã giúp cho Nguyễn Đình Chiểu nhận thấy được vai trò lịch sử của người nông dân, tái hiện một cách chân thực hình ảnh của họ vào trong văn học. Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng thật chói lọi, bằng những lời văn trang trọng và đẹp đẽ. Người nông dân đã đứng lên giết giặc cứu nước với đầy đủ sự giác ngộ cần thiết, mà thời đại cho phép. Họ đã bước vào cuộc chiến với tư thế hiên ngang, hăm hở đầy tự tin “nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình”, “Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Điều đáng chú ý là họ đã có sự thay đổi thái độ, cách nhìn cách nghĩ về chiến tranh. Nếu như trước kia, trong chiến tranh của vua chúa, họ đã tìm mọi cách lẩn trốn, có người thay tên đổi họ, bỏ quê quán ra đi, thì giờ đây họ rất hăng hái tham gia chiến đấu. Chứng tỏ họ đã có ý thức phân biệt được đâu là chiến tranh phi nghĩa và đâu là chiến tranh chính nghĩa. Càng chán ghét chiến tranh phi nghĩa bao nhiêu thì họ càng hăm hở chiến đấu bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ hạnh phúc của họ. Trong cuộc chiến không cân sức với kẻ thù, họ phải trả bằng máu của mình, biết bao người dân đã ngã xuống để giành lại nền độc lập tự do cho non sông đất nước: “Gần Côn Lôn, xa Đại Hải, máu thây trôi nổi ai nhìn, Hàng cai đội bậc quản cơ, xương thịt rã rời ai cất?” (Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh) Nguyễn Đình Chiểu trân trọng, cảm phục cái chết vẻ vang của họ “một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”. Cái chết của những người nghĩa binh áo vải là ánh sáng muôn đời của truyền thống đấu tranh của dân tộc mỗi khi có giặc ngoại xâm, bởi họ xem cái chết là sự khẳng định phẩm cách không chịu đầu Tây, “ở với man di rất khổ”, họ nêu cao khí tiết: “thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh”. Cái chết của họ để tỏ rõ chí khí của người nông dân trước hành vi xâm lược trắng trợn của kẻ thù. Những người nông dân đã cùng nhau đấu tranh vì họ có chung ý nghĩ “thà thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”. Nguyễn Đình Chiểu đã nâng cái chết của người nông dân thành những lí luận về lẽ sống và cái chết. Điều đó đã làm cho lời văn của ông tuy bi thương nhưng không hề bi lụy. Giọng thơ trang trọng đó, đã khẳng định hình tượng văn học thành công nhất của Nguyễn Đình Chiểu, có ý nghĩa văn học sử quan trọng bậc nhất, là hình tượng người nghĩa binh, người anh hùng vô danh tiêu biểu cho sức mạnh, cho lòng dũng cảm tuyệt vời và đức hy sinh cao cả, xứng đáng đại diện cho toàn bộ những giá trị tinh thần dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu dành trọn cả tấm lòng trân trọng sâu sắc đối với những con người dám sống và hy sinh cho lý tưởng dân tộc. Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng được một tượng đài bất tử về người nông dân chống ngoại xâm “sống anh dũng, chết vẻ vang”. Những chứng tích chiến tranh có thể sẽ bị xóa nhòa theo quy luật của thời gian, nhưng tiếng thơm của những người nghĩa sĩ sẽ còn sống mãi trong lòng thương mến, cảm phục của nhân dân qua các thế hệ. 2.2.3. Giọng bi hùng Sự kết hợp chất giọng bi hùng trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, đã làm cho giọng thơ hoành tráng mang âm hưởng anh hùng ca, phản ánh được một thời đại lịch sử khổ nhục nhưng vĩ đại của dân tộc ta. Khi viết về những người chiến sĩ nhân dân và những cuộc chiến đấu chống giặc của nhân dân, thì thơ văn Nguyễn Đình Chiểu mang đậm nét hùng tráng như là một hồi kèn xung trận. Ngòi bút đó sắc bén không kém gì khi ông ca ngợi các vị thủ lĩnh của nghĩa binh, cũng như khi ông phê phán kẻ thù. Nối tiếp truyền thống dùng sức mạnh của ngòi bút làm vũ khí chiến đấu của cha ông ta ngày trước như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi… Nguyễn Đình Chiểu đã viết những lời hùng hồn và sắc bén vạch rõ tội ác của quân thù, kết án những hành động phi nghĩa “trời không dung đất không tha” của chúng: “Từ thưở Tây qua cướp đất, xưng tân trào gây nợ oán cừu. Chẳng qua dân mắc nạn trời, hoài cựu chúa mang lời phản trắc. Các bậc sĩ nông công cổ, liền mang tai với súng song tâm. Mấy nơi tổng lý xã thôn đều mắc hại cùng cờ tam sắc”. (Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh) Gót giày xâm lược của giặc đi tới đâu là nhân dân ta bị dìm vào trong nước sôi lửa b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiọng điệu thơ văn nguyễn đình chiểu.doc
Tài liệu liên quan