MỤC LỤC
Mục lục . 02
MỞ ĐẦU . 06
Chương 1:TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯTỪVỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Đầu tưkinh tế. 09
1.1.1. Khái niệm về đầu tư. 09
1.1.2. Đầu tưkinh tế. 11
1.2. Đầu tưkinh tếtừvốn ngân sách nhà nước . 12
1.2.1. Khái niệm. 12
1.2.2. Phân loại vốn đầu tưtừngân sách nhà nước . 14
1.2.3. Mục đích của đầu tưtừvốn ngân sách nhà nước . 15
1.2.4. Vai trò của đầu tưtừvốn ngân sách nhà nước . 19
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀCƠCHẾ ĐẦU TƯ
TỪVỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM
2.1. Khái quát tình hình đầu tưtừvốn ngân sách nhà nước tại Việt Nam thời gian qua . 20
2.1.1. Hiệu quảcủa đồng vốn đầu tư. 20
2.1.2. Hiệu quảcủa đồng vốn đầu tưtừngân sách . 23
2.2. Thực trạng cơchế đầu tưtừvốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam. 27
2.2.1. Vềphân cấp trong quản lý đầu tưvà xây dựng . 29
2.2.2. Vềcông tác quy hoạch. 30
2.2.3. Vềquy trình quản lý dựán . 32
2.2.4. Vềgiám sát thi công và chất lượng công trình . 32
2.2.5. Vềmục tiêu, hiệu quảcủa vốn đầu tư. 33
2.2.6. Vai trò, năng lực của chủ đầu tư. 35
Chương 3: HOÀN THIỆN CƠCHẾ ĐẦU TƯ
TỪVỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
3.1. Xây dựng quy trình đầu tưtừvốn ngân sách nhà nước . 38
3.2. Quy trình thanh toán vốn đầu tư. 48
3.3. Khắc phục các rào cản trong việc thực hiện quyền hạn và trách nhiệm. 51
3.4. Tăng cường độsâu cho vốn đầu tưtừngân sách nhà nước. 53
Kết luận . 60
Tài liệu tham khảo. 61
51 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1622 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h vụ còn thấp hơn của nông nghiệp!
Bảng 2.4: Tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng của các ngành kinh tế
ĐVT: %
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Tăng trưởng
-Nông nghiệp
-Công nghiệp
-Dịch vụ
8,2
4,3
12,6
7,1
5,8
3,5
8,3
5,1
4,8
5,2
7,7
2,3
6,8
4,6
10,1
5,3
6,9
3,0
10,4
6,1
7,0
4,1
9,4
6,5
7.3
4,2
10,0
6,7
7.2
4,0
11,0
7,0
Cơ cấu (%/GDP)
-Nông nghiệp
-Công nghiệp
-Dịch vụ
100,0
25,8
32,1
42,2
100,0
25,8
32,5
41,7
100,0
25,4
34,5
40,1
100,0
24,5
36,7
38,8
100,0
23,2
38,1
38,6
100,0
23,0
38,5
38,5
100,0
22,5
39,2
38,3
100,0
22,0
40,1
37,9
Nguồn: IMF- "Vietnam: GDP by Sector at Current Prices , 1997-2004" -2005
Trong tiến trình phát triển, một khi khu vực dịch vụ đã xuất hiện và tăng
trưởng thì quy luật tất yếu là nó sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng thể nền
Nguyễn Phú Đông Hà 19
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
kinh tế. Vậy, trong khi khu vực Công nghiệp đã, đang (và sẽ) có những bước tiến
vững chắc về tăng trưởng cũng như về tỷ trọng, khu vực Nông nghiệp vẫn không có
nhiều biến chuyển trong cơ cấu tổng thể thì lỗ đen duy nhất là khu vực dịch vụ, thật
vậy, việc tăng trưởng quá èo uột đã làm cho cơ cấu ngành không tiệm cận với xu
hướng tiến bộ.
Việc giảm tỷ trọng khu vực dịch vụ chứng minh rằng: Trong một Thế giới
bùng nổ thông tin, bùng nổ khoa học công nghệ, đòi hỏi khu vực dịch vụ (hơn bất
cứ các khu vực nào khác) cần phải thích ứng nhanh với diễn tiến này; như vậy, khu
vực dịch vụ của Việt Nam thực sự đã đi lệch khỏi tiến trình phát triển và ngày càng
tụt hậu; không những không thể đón đầu được các xu hướng cầu mới mà ngay cả
sức cầu cơ bản cũng khó có khả năng đáp ứng một cách đầy đủ.
Sự suy giảm của khu vực Dịch vụ được giải thích bởi các nhân tố cơ bản nào?
Đây là vấn đề chúng ta phải đi tìm nguyên nhân ở góc độ vĩ mô. Bảng 2.5 cho
chúng ta thấy cơ cấu cơ bản của khu vực Dịch vụ.
Bảng 2.5: Cơ cấu cơ bản của khu vực Dịch vụ.
ĐVT: %
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2005 2004
Dịch vụ
-Khu vực Nhà nước
Trong đó, Quản lý Nhà nước
-Khu vực ngoài Nhà nước
42,2
23,9
20,6
18,2
41,7
23,5
20,2
18,2
40,1
22,2
19,3
17,9
38,7
21,2
18,4
17,6
38,6
20,7
17,9
18,0
38,5
20,3
17,7
18,2
38,3
20,0
17,2
18,3
37,9
19,7
17,0
18,2
Nguồn: IMF- "Vietnam: GDP by Sector and Ownership at Current Prices , 1997-2004" -2005
Tỷ trọng của khu vực Dịch vụ ngoài Nhà nước là ổn định ngoại trừ những dao
động ngắn hạn không đáng kể; ngược lại, tỷ trọng của khu vực dịch vụ Nhà nước,
đặc biệt là dịch vụ Hành chính công, lại sút giảm nghiêm trọng; sự sút giảm này cho
thấy hai nguyên nhân làm cho tỷ trọng Khu vực Dịch vụ giảm sút:
Nguyễn Phú Đông Hà 20
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
- Thứ nhất, nguyên nhân tĩnh tại, do khu vực dịch vụ Nhà nước là một bộ
phận cấu thành trong tổng thể khu vực dịch vụ nói chung, nên sự sút giảm của khu
vực này sẽ khiến toàn bộ khu vực dịch vụ giảm theo;
- Thứ hai, nguyên nhân truyền dẫn, trong toàn bộ nền kinh tế của một quốc
gia, Dịch vụ nhà nước (dù có tỷ trọng cao hoặc thấp) luôn giữ vai trò trung tâm: Đó
là trung tâm điều phối mọi hoạt động kinh tế; đó là trung tâm có sức hút làm cho các
hoạt động kinh tế, dịch vụ xoay quanh mình; đó là trung tâm mà nếu vận hành có
hiệu quả sẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Trong hai nguyên nhân vừa nêu, nguyên nhân truyền dẫn là rất quan trọng;
trong một chừng mực nhất định có thể coi đây là nguyên nhân trì trệ của khu vực
dịch vụ, kéo theo sự trì trệ của toàn bộ nền kinh tế.
Trên đây là nhận định về tình hình kinh tế Việt nam qua lăng kính các số liệu
tổng quát, cho chúng ta một bức tranh tổng thể về tình hình đầu tư của nền kinh tế
Việt nam, đặc biệt là đầu tư từ vốn ngân sách. Những điều trình bày trên đặt ra rất
nhiều vần đề lớn, trong đó vần đề nổi cộm nhất là chất ượng của đồng vốn đầu tư từ
ngân sách nhà nước.
Chất lượng quá thấp của đồng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước có nhiều
nguyên nhân: Thiếu vốn, thiếu nhân sự, trình độ phát triển nền kinh tế còn lạc hậu,
thiên tai, dịch bệnh, v.v…. Theo đánh giá của Quỹ tiền tệ thế giới – IMF – Nguyên
nhân đầu tiên, quan trọng nhất làm trì trệ tính hiệu quả nền kinh tế của Việt Nam
chính là cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách còn quá lỏng lẽo, thiếu tính chặt chẽ và
không có một quy trình rõ ràng và hiệu quả.
Phần tiếp theo chúng ta sẽ bàn về thực trạng cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách
hiện nay tại Việt Nam.
2.2. Thực trạng cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại
Việt Nam
Hiện nay hoạt động đầu tư và xây dựng đang chịu điều chỉnh bởi các nghị
định: Nghị định 52/CP ngày 08/7/1999; Nghị định số 12/CP ngày 05 /5/2000, Nghị
định số 07/CP ngày 30/ 01/2003 của Chính phủ. Các văn bản pháp quy trên là thành
quả của quá trình thay đổi cơ chế lâu dài từ Quyết định 232/QĐ-TTg (1981), tiếp
đến là các Nghị định 385/CP (1990), Nghị định 177/CP (1994), Nghị định 42/CP
(1996) và Nghị định 92/CP (1997).
Thực sự cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng được bổ sung, sửa đổi theo
hướng phân cấp mạnh cho các Bộ, ngành và địa phương; thực hiện việc phân cấp
quản lý đầu tư và xây dựng theo tính chất của từng nguồn vốn cụ thể: vốn trực tiếp
từ ngân sách nhà nước, vốn vay tín dụng ngân sách nhà nước, vốn vay các định chế
tài chính trung gian được ngân sách nhà nước bảo lãnh; làm rõ hơn chức năng quản
lý nhà nước, chức năng của chủ đầu tư trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng; xác định
rõ mục tiêu, phạm vi và đối tượng quản lý; phân định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm
của các cấp, các ngành trong từng khâu của quá trình đầu tư và xây dựng: Quy
hoạch; chuẩn bị đầu tư; thẩm định dự án; quyết định đầu tư; triển khai thực hiện dự
Nguyễn Phú Đông Hà 21
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
án đầu tư; thanh quyết toán vốn đầu tư... Nhiều thủ tục hành chính trong quá trình
đầu tư và xây dựng đã được đơn giản hoá. Nhờ đó, công tác quản lý đầu tư và xây
dựng trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, đã phát huy được nội lực
trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, cho phép các đối tượng
tham gia đầu tư và xây dựng được nhiều chủ động hơn trong sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của cơ chế quản lý đầu tư và xây
dựng được thể hiện trong các Nghị định nêu trên, hiện nay nhiều nội dung nêu trong
các Nghị định đã tỏ ra không còn phù hợp với yêu cầu của cuộc sống và tiến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, trong những năm qua, nhiều cơ
chế chính sách khác có hiệu lực pháp lý cao hơn Nghị định cũng đã được sửa đổi,
bổ sung: Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư nước ngoài ... nên một số qui định trong các Nghị định nói trên đã
không còn thích hợp.
Hoạt động đầu tư và xây dựng là lĩnh vực rất phức tạp, có liên quan đến nhiều
ngành, nhiều cấp trong khi việc xây dựng quy chế quản lý thường được tiến hành
trong một thời gian ngắn, mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ, mới đáp ứng được yêu
cầu trước mắt mà chưa có tính dài hạn. Một số vấn đề mới nảy sinh cũng chưa được
đề cập đến... Do đó, trong bối cảnh hiện nay, việc sửa đổi, bổ sung, thậm chí đổi
mới toàn diện cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng là rất cần thiết.
Một số vấn đề của cơ chế đầu tư hiện hành được nêu một cách khái quát như
sau:
2.2.1. Về phân cấp trong quản lý đầu tư và xây dựng
Sau khi Nghị định 52/CP ra đời, trải qua hai lần sửa đổi, bổ sung tại Nghị
định 12/CP và Nghị định 07/CP; thẩm quyền quản lý Nhà nước trong quản lý đầu tư
và xây dựng được phân cấp rất mạnh mẽ xuống các Bộ ngành và địa phương.
Chủ trương phân cấp trong quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân sách là hoàn
toàn hợp lý, phù hợp với xu thế cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong giai
đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, việc phân cấp, uỷ quyền cho các Bộ, ngành và các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đã phát huy tính chủ động, tính thực tiễn của cơ
quan quản lý, của địa phương
Tuy nhiên do đây là một chủ trương mới phát sinh và mới trong giai đoạn
triển khai thực hiện bước đầu nên trong các văn bản pháp quy về vấn đề này còn
chưa được chặt chẽ. Các Nghị định 52/CP, 12/CP, 07/CP còn thiếu các quy định chi
tiết, thiếu các chế tài để kiểm tra, kiểm soát; vì vậy, rất dễ phát sinh các vi phạm
trong quản lý đầu tư và xây dựng.
Việc phân cấp và uỷ quyền trong đầu tư cho cấp thấp hơn là một xu thế tất
yếu. Nhưng khi trình độ xây dựng, phân tích, thẩm định dự án của cán bộ các cấp
chưa cao, quyết định đầu tư dự án còn có nhiều mặt chi phối, tiêu chí lựa chọn dự án
đầu tư chưa được quy chuẩn rõ ràng, dẫn đến việc chọn các dự án đưa vào chương
trình đầu tư quá nhiều, không phù hợp với khả năng nguồn vốn, thời gian thi công
kéo dài, kém hiệu quả và còn nhiều rủi ro. Nhiều Bộ, ngành và địa phương không
Nguyễn Phú Đông Hà 22
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
thực hiện chủ trương tập trung dứt điểm trong quá trình phân bổ vốn kế hoạch hàng
năm. Tình trạng dàn trải trong đầu tư càng ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Năm sau,
số lượng các dự án, công trình nhiều hơn năm trước. Các dự án nhóm B không thể
hoàn thành trong 4 năm, các dự án nhóm C không thể hoàn thành trong 2 năm.
Theo quy định, điều kiện để các dự án được bố trí kế hoạch đầu tư năm kế
hoạch là phải có đủ thủ tục về đầu tư và xây dựng ở thời điểm tháng 10 trước năm
kế hoạch. Thực tế, do nhiều nguyên nhân, vẫn còn tình trạng vốn chờ dự án, gây nên
tình trạng áp lực thiếu vốn giả tạo, nhiều lần trong năm kế hoạch phải điều hoà, điều
chuyển vốn. Ngoài ra còn có hiện tượng quyết định khống để hợp pháp hoá ở thời
điểm tháng 10 trước năm kế hoạch.
Ngoài ra, do có chủ trương phân cấp, chính quyền các địa phương hoặc các
Bộ quản lý ngành dọc có xu hướng cục bộ, chỉ chăm lo đến lợi ích của địa phương
mình mà đôi khi tương phản với lợi ích toàn cục dẫn đến đầu tư chồng chéo, xé nát
môi trường đầu tư
2.2.2. Về công tác quy hoạch
Theo các Nghị định 52/CP, 12/CP, 07/CP, quy định về công tác quy hoạch đã
có sự phân định tương đối rõ ràng trong công tác quản lý các dự án quy hoạch tổng
thể, quản lý quy hoạch xây dựng, quản lý quy hoạch địa phương, quản lý quy hoạch
ngành và đầu mối quản lý việc tạm ứng, thanh toán kinh phí lập dự án quy hoạch.
Các tiêu chuẩn về chất lượng đầu ra của công tác lập, thẩm định dự án quy hoạch đã
được nêu:
- Đối với công tác thẩm định các dự án quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội do
Uỷ ban nhân dân tỉnh lập, quy hoạch ngành do Bộ ngành lập: Phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội; phân bổ các nguồn lực hợp lý; tính thống nhất quy
hoạch vùng, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng; tính khả thi của quy hoạch.
- Đối với công tác thẩm định dự án quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn do
Ủy ban nhân dân tỉnh lập: Phù hợp chiến lược phát triển kinh tế-xã hội dài hạn, phù
hợp phân bổ dân cư; thống nhất với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, lãnh thổ
ngành; tính khả thi và biện pháp quản lý.
Các tiêu chuẩn trên được nêu trong Nghị định số 07/CP là một bước tiến dài
đối với việc đảm bảo chất lượng đầu ra của công tác lập, thẩm định các dự án quy
hoạch.
Tuy nhiên, những tiêu chuẩn trên so với yêu cầu của công tác quy hoạch là
chưa đủ đáp ứng đòi hỏi cả về số lượng tiêu chuẩn lẫn cơ chế vận hành để đáp ứng
tiêu chuẩn.
Thật vậy, tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng không chỉ đầy đủ mà điều cần thiết
phải tạo nên cơ chế để tiêu chuẩn đặt ra có điều kiện được thực thi. Và trong thực tế,
các quy chế đầu tư xây dựng hiện hành không có điều kiện thứ hai – và là điều kiện
tiên quyết - để đảm bảo chất lượng đầu ra của công tác quy hoạch.
Hệ quả là chất lượng của công tác quy hoạch hiện nay chưa cao, các qui
hoạch chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các kế hoạch phát triển
Nguyễn Phú Đông Hà 23
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Các Bộ, ngành, địa phương đều tiến
hành xây dựng các quy hoạch; nhưng chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa qui hoạch
ngành và qui hoạch lãnh thổ; chưa có cách tiếp cận tổng thể, toàn diện; kết quả phổ
biến là tình trạng đầu tư còn chồng chéo, dư thừa công suất chế biến, nhưng lại thiếu
nghiêm trọng nguồn nguyên liệu, đầu tư thiếu đồng bộ, chắp vá, đầu tư nhiều lần,
thiết bị cũ nát, lạc hậu, gây lãng phí nguồn vốn đầu tư, hiệu quả kém.
Nhiều quy hoạch chưa đủ cụ thể để định hướng đầu tư, không phù hợp với
yêu cầu thực tế không bám sát thực tế phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn và của
từng ngành, lĩnh vực. Các công trình, dự án chưa tính đến các điều kiện và yếu tố
cần thiết cho khai thác, sử dụng.
Hậu quả của việc đầu tư ồ ạt vào hệ thống các nhà máy xi măng lò đứng, cũng
như đầu tư hệ thống các nhà máy sản xuất đường từ mía...cho thấy hơn lúc nào hết
cần phải nâng cao hơn nữa chất lương các quy hoạch và đặc biệt cần nâng cao hơn
nữa vai trò, trách nhiệm của các chủ đầu tư, gắn quyền hạn với trách nhiệm cá nhân
của người có thẩm quyền và trách nhiệm bồi thường thiệt hại cụ thể nếu để xảy ra
những rủi ro do nguyên nhân chủ quan.
Vấn đề phân loại các dự án, tổ chức thẩm định và thẩm quyền phê duyệt các
loại quy hoạch hiện nay cũng chưa được quy định một cách cụ thể: quy hoạch ngành
đa lĩnh vực; ngành kinh tế kỹ thuật cụ thể; các tỉnh trọng điểm và không trọng điểm;
các khu công nghiệp tập trung.
Chất lượng của các quy hoạch còn nhiều hạn chế, cơ sở luận, phương pháp
lập chưa phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường; mức độ chuẩn xác thấp; vì vậy
thường xuyên phải điều chỉnh, kém tính ổn định.
2.2.3. Về quy trình quản lý dự án
Quy trình quản lý dự án còn rất phức tạp, rườm rà. Theo quy chế hiện hành,
công tác quản lý đầu tư và xây dựng được thực hiện thông qua nhiều cấp kiểm tra,
xét duyệt, quyết định.
Với một quy trình gồm nhiều cấp, sẽ rất dễ dẫn tới hiện tượng dàn trải về
trách nhiệm, không có cấp nào chịu trách nhiệm toàn diện và đầy đủ.
Hơn nữa, trong điều kiện cơ chế quản lý còn nhiều điểm chưa rõ ràng, thiếu
tính minh bạch, thông tin không đầy đủ, việc xác định một dự án đầu tư cụ thể có
hiệu quả kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội là vấn đề không dễ dàng và có đầy đủ
tính thuyết phục.
Cần nghiên cứu để giảm đến mức tối thiểu các cấp trung gian liên quan trực
tiếp tới việc kiểm tra, giám sát, xét duyệt, quyết định đối với các dự án đầu tư; tăng
cường hơn nữa việc phân cấp trong lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng.
2.2.4. Về giám sát thi công và chất lượng công trình
Chất lượng nhiều công trình rất thấp, đặc biệt đối với các dự án hoàn toàn sử
dụng nhà thầu trong nước. Các nhà thầu cố đưa giá thầu thấp để thắng thầu rồi sau
đó tìm mọi cách hạ giá thành bù lại phần chênh lệch. Mặt khác, các nhà thầu cũng
Nguyễn Phú Đông Hà 24
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
như tư vấn giám sát không tuân thủ nghiêm ngặt đúng quy trình, quy phạm và thiết
kế kỹ thuật nên công trình không đảm bảo chất lượng.
Trong những năm gần đây, tần suất xuất hiện sự cố công trình ngày một
nhanh; tỷ lệ công trình phải sửa chữa ngay khi đưa vào sử dụng ngày càng tăng; sai
phạm xảy ra ở hầu hết các công đoạn, bộ phận hình thành kết cấu công trình. Do
thông tin ban đầu không chính xác nên giải pháp thiết kế thường không phù hợp với
điều kiện địa hình, địa chất. Công tác giám sát rất hình thức.
Đặc biệt, chủ đầu tư có vai trò và quyền lực lớn, nhưng năng lực hạn chế và
bị môi trường nhiều tiêu cực chi phối nên dễ dàng chấp nhận bàn giao các công trình
kém chất lượng.
Một nguyên nhân quan trọng khác là các nhà thầu thường chấp nhận bỏ thầu
thấp; nhưng khi triển khai thi công thì đổ lỗi cho khách quan để xin bổ sung vốn,
hoặc thi công với mức tiết kiệm tối đa, chấp nhận chất lượng các công trình thấp.
Vai trò giám sát thi công còn rất hạn chế, tác dụng không đáng kể. Tình trạng
dễ dãi với các nhà thầu của các tư vấn giám sát và của các chủ đầu tư là một trong
những nguyên nhân rất đáng quan tâm nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của các
công trình xây dựng. Với cơ chế giám sát như hiện nay, cơ quan tư vấn giám sát
không độc lập được, nên gây ra tình trạng không khách quan, gây nên chất lượng
kém và tạo điều kiện thất thoát vốn đầu tư.
2.2.5. Về mục tiêu, hiệu quả của vốn đầu tư.
Mục tiêu đầu tư đã được xác định trong nhiều thời kỳ kế hoạch 5 năm và hàng
năm là tập trung đầu tư để chuyển dịch nhanh cơ cấu đầu tư, tăng hiệu quả của nền
kinh tế, nhanh chóng hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng
điểm, tạo điều kiện cho một số sản phẩm chính của nền kinh tế có qui mô sản xuất
lớn, sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, kết quả của
nhiều năm đầu tư chưa thực hiện được mục tiêu đề ra.
Trong nông nghiệp còn nặng đầu tư vào thuỷ lợi (chiếm hơn 70% vốn đầu tư
của ngành), chủ yếu là thuỷ lợi phục vụ cây lúa, việc xây dựng các công trình thuỷ
lợi tưới cho các cây công nghiệp còn ít, còn coi nhẹ đầu tư thuỷ lợi cấp nước cho
công nghiệp và dân sinh, cho nuôi trồng thuỷ sản. Vốn cho công tác nghiên cứu
khoa học, chuyển giao công nghệ, công tác giống, khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư thời gian đầu chưa được quan tâm thoả đáng (những năm gần đây đã
được điều chỉnh).
Trong công nghiệp, đã quá chú trọng vào việc đầu tư để tăng công suất sản
xuất mà chưa chú ý đúng mức đến đầu ra của sản phẩm, đầu tư quá mức vào một số
ngành, làm cho một số sản phẩm cung vượt quá cầu; chưa tập trung đổi mới công
nghệ theo hướng hiện đại.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước đã tập trung chủ yếu cho các công trình hạ
tầng kinh tế và hạ tầng xã hội, nhằm thu hút nhiều hơn các thành phần kinh tế khác
tham gia đầu tư. Nhưng tình trạng đua nhau xây dựng các trụ sở làm việc với qui mô
Nguyễn Phú Đông Hà 25
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
và trang thiết bị đắt tiền vượt quá xa tiêu chuẩn cần thiết, gây lãng phí, kém hiệu
quả, tạo sự không công bằng. Bệnh hình thức, phô trương trong các công trình trụ sở
còn rất phổ biến, từ Trung ương đến địa phương.
Việc đầu tư vào các công trình không có khả năng cạnh tranh như các công
trình sản xuất thép, phân đạm, mía đường và một số sản phẩm khác trong thời gian
vừa qua mà giá thành sản phẩm vượt xa giá thành nhập khẩu sản phẩm cùng loại là
vấn đề rất đáng rút kinh nghiệm và nên tránh trong quá trình xem xét và triển khai
đầu tư
Vốn đầu tư thất thoát diễn ra từ khâu chuẩn bị dự án, thẩm định và phê duyệt
dự án đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư và xây dựng. Tình trạng đầu tư không theo
quy hoạch được duyệt; khâu khảo sát nghiên cứu thiếu tính đồng bộ, không đầy đủ
các chỉ tiêu kinh tế, khả năng tài chính, nguồn nguyên liệu, bảo vệ môi trường, điều
tra thăm dò thị trường không kỹ; chủ trương đầu tư không đúng khi xem xét, phê
duyệt dự án đầu tư. Việc thẩm định và phê duyệt chỉ quan tâm tới tổng mức vốn đầu
tư, không quan tâm tới hiệu quả, điều kiện vận hành của dự án, nên nhiều dự án sau
khi hoàn thành và đưa vào sử dụng không phát huy tác dụng, gây lãng phí rất lớn.
Lãng phí và thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng đang là vấn đề
nhức nhối, cả xã hội quan tâm; kéo dài nhiều năm với mức độ ngày càng trầm trọng
mà đến nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để hạn chế.
Một số Bộ, ngành, địa phương khi xác định mức vốn đầu tư ít quan tâm đến
việc tiết kiệm vốn đầu tư, sử dụng đơn giá, định mức trong tính toán cao hơn quy
định, làm tăng khối lượng, tăng dự toán công trình. Nhiều dự án không làm đúng
thiết kế, chủ đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng khối lượng, điều
chỉnh dự toán để rút tiền và vật tư từ công trình.
Ngoài ra, do năng lực quản lý điều hành kém của chủ đầu tư, các ban quản lý
dự án, các tổ chức tư vấn cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư.
Qua kiểm tra một số công trình, đã phát hiện tình trạng lãng phí và thất thoát
vốn nhà nước diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, nhiều dự án, nhiều lĩnh vực,
Nguyễn Phú Đông Hà 26
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
nhiều cấp; tỷ lệ lãng phí và thất thoát của những công trình có mức lãng phí và thất
thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến
80%. Đó là chưa tính đến những công trình đầu tư kém hiệu quả, công nghệ sản
xuất lạc hậu, sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng kém, giá thành cao và không
tiêu thụ được...
Nguyên nhân chính, tổng quát của hiện tượng lãng phí và thất thoát nằm ở
chính những cơ chế kiểm soát hiện có; vừa cồng kềnh, vừa chồng chéo nhau, làm
cho có quá nhiều người có thẩm quyền can thiệp vào công trình nhưng không thể
xác định được trách nhiệm chính thuộc về ai, do đó không thể quản lý được hoặc
quản lý rất kém hiệu quả.
Đặc biệt, cơ chế không quy định rõ chủ thực sự của các công trình. Nếu như
có được một cơ chế đơn giản, không chồng chéo nhau, trong đó mỗi khâu chỉ có
một người chịu trách nhiệm toàn bộ trước pháp luật, thì chắc chắn tình hình sẽ
không tồi tệ như vậy.
Hàng năm nguồn vốn Nhà nước chủ yếu tập trung cho đầu tư xây dựng các
công trình mới, phần vốn cho công tác duy tu bảo dưỡng là rất thấp. Do vậy hiệu
quả tổng hợp sử dụng 2 nguồn vốn này chưa cao, công trình không được chú ý duy
tu bảo dưỡng thường xuyên nên mau xuống cấp, hư hỏng. Việc duy tu bảo dưỡng
chưa theo một kế hoạch và theo quy trình bắt buộc mà mới theo kiểu hỏng đâu sửa
đấy, việc sửa chữa chắp vá, hiệu quả thấp.
Đây là một tồn tại lớn trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, mặc
dù các nhà quản lý đã nhận thấy cần có sự điều chỉnh cho phù hợp hơn, nhưng còn
gặp nhiều khó khăn. Rất nhiều công trình, sau khi đưa vào sử dụng nhưng do thiếu
vốn duy tu bảo dưỡng, đã xuống cấp rất nhanh, nên chỉ 4-5 năm đã phải sửa chữa
nâng cấp, với số vốn chi phí cũng gần bằng khi xây mới, thậm chí phải xây dựng lại
rất tốn kém.
2.2.6. Vai trò, năng lực của chủ đầu tư
Trong quá trình kiểm tra, thanh tra một số dự án lớn, đã phát hiện thấy có tình
trạng chủ đầu tư giao cho các doanh nghiệp không đủ năng lực chuyên môn và tài
Nguyễn Phú Đông Hà 27
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
chính thực hiện công trình. Như vậy, dẫn đến những hậu quả tai hại đối với công
trình. Nguyên nhân là do chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm của chủ đầu tư;
không có một chủ đầu tư theo đúng nghĩa.
Trình độ cán bộ thực hiện các dự án đầu tư còn nhiều bất cập. Hiện nay có
tình trạng phổ biến là giám đốc dự án đầu tư đồng thời lại là người trực tiếp sử dụng
công trình sau khi hoàn thành. Ví dụ công trình xây dựng bệnh viện thường do giám
đốc bệnh viện làm chủ dự án; dự án trường học do hiệu trưởng nhà trường làm chủ
dự án; công trình nhà hát do giám đốc nhà hát làm chủ dự án... Nhưng do những
người này không có kiến thức chuyên môn về quản lý đầu tư và xây dựng nên sai
sót, đến khi bị thanh tra phát hiện, thì đổ cho các nguyên nhân khách quan như
không có nghiệp vụ về lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng, và nếu như các cơ quan
quản lý nhà nước đã thẩm định và phê duyệt thì đổ lỗi cho các cơ quan đó...
Một trong những nguyên nhân rất đáng quan tâm là năng lực của các chủ đầu
tư, nhất là các chủ đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước còn rất hạn chế
ngay từ khâu lập dự án đến các khâu triển khai tiếp theo. Việc hình thành các PMU
như hiện nay, thực chất là thêm một khâu trung gian không cần thiết, cần nghiên
cứu cải tiến, nếu xét thấy không phù hợp với thực tế quản lý thì giải tán.
Phần trên đây cho chúng ta cái nhìn tổng thể về bức tranh đầu tư từ vốn ngân
sách từ hai khía cạnh chủ yếu: Hiệu quả vĩ mô và cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách.
Chương 3 sẽ là chương bàn về việc cải thiện hiệu quả đầu tư từ vốn ngân sách trên
quan điểm thiết lập một mô hình quản lý đầu tư và các điều kiện phụ trợ nhằm tái
lập mô hình quản lý đầu tư theo triết lý mới, từ đó, cải thiện hiệu quả đầu tư của
đồng vốn đầu tư từ ngân sách.
Nguyễn Phú Đông Hà 28
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
Chương 3:HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐẦU TƯ
TỪ VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
3.1. Xây dựng quy trình đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước
Những tồn tại về cơ chế đầu tư được nêu trong phần 2.2 của chương trước đặt
ra một vấn đề là phải đổi mới cơ chế đầu tư để cải thiện hiệu quả của đồng vốn đầu
tư từ ngân sách.
Để đổi mới cơ chế đầu tư, đầu tiên, chúng ta cần phải xây dựng quy trình về
quản lý đầu tư thống nhất và xuyên suốt, nhằm tạo nên luồng chảy thông suốt cho
đồng vốn ngân sách.
Một cách
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 43376.pdf