MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .1
1. Lý do chọn đề tài .1
2. Lịch sử vấn đề.3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn.12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .12
5. Phương pháp nghiên cứu .13
6. Đóng góp của luận văn .13
7. Cấu trúc của luận văn .14
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .15
1.1. Hàm ngôn và các thuật ngữ hữu quan .15
1.1.1. Hàm ngôn và hiển ngôn.15
1.1.2. Hàm ngôn và tiền giả định .23
1.1.3. Hàm ngôn và suy ý.28
1.2. Phân loại hàm ngôn và các cơ chế tạo hàm ngôn .28
1.2.1. Phân loại hàm ngôn .28
1.2.2. Cơ chế tạo hàm ngôn.33
1.3. Đặc trưng văn hóa – tâm lý – xã hội và việc tạo hàm ngôn .37
1.3.1. Đặc trưng văn hóa gốc nông nghiệp.38
1.3.2. Đặc trưng sông nước .39
1.4. Mục đích dùng hàm ngôn .41
1.4.1. Tăng sức hấp dẫn thuyết phục cho lời nói.42
1.4.2. Khiêm tốn, lịch sự .42
1.4.3. Không muốn trực tiếp làm mất thể diện người nghe .43
1.4.4. Châm biếm .43
1.4.5. Không chịu trách nhiệm trực tiếp về hành động ngôn từ.44
173 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 814 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hàm ngôn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại cố tình vi phạm quy tắc chiếu vật bằng
cách dùng từ “Hai con ôn vật ấy”, dùng từ “hai con ôn vật” là Đoài cố tình quy
chiếu vào hai người bạn của Khảm là My Lan và Mỹ Trinh nhằm ngầm ý chê bai
hai cô bạn của Khảm nhưng đồng thời thể hiện hàm ngôn đề cao Sinh để nhằm mục
đích tìm sự đồng tình ở Sinh: “Trong mắt tôi, Sinh là người phụ nữ tuyệt vời nhất,
không ai có thể sánh bằng”. Không chỉ cố tình tán tỉnh, ve vãn chị dâu bằng lời nói
mà Đoài còn thể hiện bằng hành động “xán lại hôn lên má Sinh” kèm theo lời thách
thức: “Đây chẳng sợ”. Trong câu nói “Đây chẳng sợ”. Đoài lại chuyển sang xưng
hô đây/ Sinh. Bằng cách thay đổi cặp từ xưng hô đó Đoài đã chứng minh được bản
lĩnh đàn ông của mình trước Sinh (bất chấp cả anh trai của mình).
Còn câu cuối cùng của Sinh nói với chồng: "Tại cái bếp nhà mình khốn nạn
quá”. Xét trong ngữ cảnh của câu nói, Sinh đã quy chiếu cái bếp là Đoài và ngầm
thể hiện hàm ngôn: “Thằng Đoài nhà mình là thằng khốn nạn”.
Xét ví dụ sau cũng là sự cố tình vi phạm quy tắc chiếu vật chỉ xuất để tạo
hàm ngôn của Đoài và Khảm:
(Vd 46) Đoài hỏi Khảm: “Cái vị anh hùng thơm nức kia là thế nào?”
Khảm cười: “Đấy là Mỹ Trinh, bố cô ấy là ông ánh sáng ban ngày, chủ hiệu điện”
[Không có vua, tr.53]
Khi nói “vị anh hùng thơm nức” là Đoài cố tình quy chiếuvào Mỹ Trinh.
Nghĩa là Đoài dùng phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ gọi tên sự vật, hiện tượng này
(Mỹ Trinh) bằng tên gọi của một sự vật, hiện tượng khác (vị anh hùng thơm nức)
dựa trên nét tương đồng giữa hai sự vật (dựa vào dấu hiệu sự vật Mỹ Trinh thường
xức nước hoa) đó cũng là một biện pháp cố ý vi phạm quy tắc chiếu vật. Tương tự
câu trả lời của Khảm cũng sử dụng phương thức này, khi gọi ông “ánh sáng ban
ngày” là Khảm đã quy chiếu tới bố của Mỹ Trinh. Quy tắc nguồn là dựa vào nghề
nghiệp ông ấy là chủ tiệm điện.
Trong truyện “Những người thợ xẻ,” theo quan hệ và vị thế xã hội thì anh
Bường và nhân vật tôi (Ngọc) phải xưng hô là anh / em vì anh Bường là anh họ của
71
Ngọc nhưng tùy từng hoàn cảnh mà hai nhân vật này có những từ ngữ xưng hô khác
nhau:
(Vd 47) Anh Bường hỏi tôi: “Thế nào? Mày có hôn con gái tay Thuyết được
cái nào không mà mặt mày u ám như mặt khỉ ấy?” Tôi cáu: “Anh đừng đùa kiểu
ấy”. Anh Bường bảo: “Thôi ông trí thức con ơi, các ông cứ đâu đâu về mặt đạo
đức, điều ấy chỉ có lợi cho chính trị thôi, còn đàn bà thì không có lợi gì cả”.
[Những người thợ xẻ, tr.114]
(Vd 48) Nửa đêm, có một con hoẵng tác rất thảm thiết ở bên kia núi, tôi
không sao ngủ được. Anh Bường thức dậy bảo: “Này công tử bột, nhớ nhà hả?”
Tôi bảo: “Không. Con hoẵng nó kêu thương quá. Nó lạc mẹ hay sao hả anh?” Anh
Bường bảo: “Mày không nên đa cảm như thế. Cuộc đời còn cực nhọc lắm con ạ.
Chúng ta phải làm kiệt sức để kiếm miếng ăn, đa cảm làm yếu người đi. Ngày mai
khối lượng công việc rất nặng. Mày mất ngủ vì một tiếng hoẵng kêu, điều ấy có hại
vô cùng. Tao đưa mày lên rừng làm việc chứ không phải để mày tu dưỡng”. Tôi thở
dài: “Hoẵng nó kêu suốt đêm... Bao giờ nó sẽ gặp mẹ... Anh cứ ngủ đi. Anh kệ em!
Ngày mai em không làm mất việc đâu”. Anh Bường cáu: “Thằng khỉ ạ, những
nhạy cảm vô lối sẽ làm tan nát cuộc đời mày mất thôi. Làm gì có chuyện hoẵng đi
tìm mẹ? Con ơi, đấy là một con hoẵng cái trụy lạc, nó đi tìm hoẵng đực. Vô phúc
cho nó, vớ được một con hoẵng đực Sở Khanh. Con hoẵng đực này chơi bời nhiều
quá. Hoẵng cái bị đổ bệnh. Đơn giản là như thế”. [Những người thợ xẻ, tr.114]
Việc anh Bường thay đổi cách xưng hô với Ngọc từ mày sang ông trí thức
con, công tử bột, con, thằng khỉ tức là sự cố tình thay đổi chức năng chiếu vật,đó là
những cách nói chứa hàm ngôn của anh Bường ngầm thể hiện ý mỉa mai Ngọc.
Tương tự như vậy, đối với các con của mình đáng ra anh Bường phải gọi là
con nhưng anh Bường lại dùng từ “các ông các bà” như sau cũng là một cách vi
phạm quy tắc chiếu vật để tạo hàm ngôn.
(Vd 49) Chị Bường bảo “Các con chào bố đi”. Ba đứa con anh Bường líu
ríu: “Con chào bố”. Anh Bường bảo:“Vâng! Chào các ông các bà! Các ông các bà
ăn no ngủ khỏe. Bố phải xa mẹ lăn lóc trên đường”. [Những người thợ xẻ, tr.109]
72
Còn đối với Quy, con gái của ông Thuyết gọi anh Bường là bác, xưng cháu,
nhưng anh Bường không gọi Quy theo cặp đối xứng như vậy mà lại gọi với những
tên khác nhau như: em, bà chúa của anh, con ranh con, xưng anh, ông. Chẳng hạn
cuộc đối thoại của anh Bường với Quy sau là một ví dụ:
(Vd 50) Anh Bường bảo: “Em ơi, bà chúa của anh ơi, em mang những gì
cho các anh đấy”. Quy bảo: “Thưa bác, bố cháu bảo mang cho các bác hai cái
chăn bông, năm cân thịt lợn, một chai nước mắm với hai chục cân gạo”. [Những
người thợ xẻ, tr.113]. Hay:
(Vd 51) Nói rồi, anh Bường buông tay, tìm cách nhảy ra bãi trống. Tôi nhảy
theo anh. Anh Bường vừa lùi vừa bảo Quy, buồn hẳn: “Con ranh con, mặc quần
vào! Có thích xem đánh nhau thì đứng mà nhìn. Chúng ông đánh nhau vì mày
đấy”. [Những người thợ xẻ, tr.126]
2.2.5. Vi phạm quy tắc lập luận
Lập luận là đưa ra lý lẽ (được gọi là luận cứ trong lập luận) nhằm dẫn dắt
người nghe đến một kết luận nào đó mà người nói muốn đạt tới.
Quan hệ lập luận thường phải đủ hai phần là luận cứ và kết luận, tức hai
thành phần này được nói rõ ra một cách tường minh. Nhưng khi phát ngôn hay diễn
ngôn chỉ có một phần luận cứ hoặc kết luận, còn phần kia người nói để người nghe
tự suy ra thì đó chính là cách nói cố tình tạo hàm ngôn bằng cách vi phạm quy tắc
lập luận. Trong 170 ngữ cảnh thu thập được trong quá trình khảo sát truyện Nguyễn
Huy Thiệp, chúng tôi thấy có 14 ngữ cảnh tạo hàm ngôn bằng cách này, chiếm 8,24
% trong 17 cơ chế.
Xét các ví dụ sau:
(Vd 52) Anh Bường bảo: “Chúng mày cẩn thận. Ở Hà Nội ăn cắp như rươi.
Nó thỉnh mất bộ cưa thì ăn mày đấy”. [Những người thợ xẻ, tr.109]
Câu in đậm trên có lập luận như sau: Nó thỉnh mất cưa tức là mất dụng cụ
lao động. Nếu không có dụng cụ lao động thì không làm được gì để kiếm tiền.
Không kiếm được tiền là đói. Đói thì phải đi ăn mày. Câu nói này không có luận cứ,
chỉ có kết luận; luận cứ bị thiếu bắt buộc người đọc phải tự suy ra đây chính là
73
nghĩa hàm ngôn của câu nói.
Hay câu nói mang nghĩa hàm ngôn của Đoài nhằm mục đích nói móc lão
Kiền trước việc làm xấu xa bỉ ổi của lão khi nhìn trộm con dâu tắm như sau:
(Vd 53) Đoài nghiến răng nói khẽ: “Tôi cũng vô giáo dục nhưng không
nhìn trộm phụ nữ cởi truồng.” [Không có vua, tr.55]
Câu nói của Đoài có lập luận như sau:
Luận cứ 1: Người nhìn trộm phụ nữ cởi truồng là người vô giáo dục.
Luận cứ 2: Ông nhìn trộm phụ nữ cởi truồng
Kết luận: Ông là người vô giáo dục.
Lập luận trong câu nói của Đoài thiếu luận cứ thứ hai tức là thiếu tiểu tiền đề
và thiếu cả kết luận. Bằng cách nói này, Đoài nhằm thể hiện hàm ngôn vào lão
Kiền: “Chính ông là người vô giáo dục vì chính ông là người đã nhìn trộm phụ nữ
cởi truồng. Còn tôi không nhìn trộm phụ nữ cởi truồng như ông nên tôi không phải
là người vô giáo dục.” Đó là một câu nói vô cùng sâu cay mà Đoài đã dùng lối nói
hàm ngôn để nhằm phê phán việc làm xấu xa của bố.
Trong truyện “Những người muôn năm cũ”, có đoạn hội thoại sau:
(Vd 54) Trên hang núi gần trường có một con đười ươi đực, nặng phải gần
100 cân. Những hôm nắng, nó ra ngoài cửa hang phơi nắng. Chiều tối đến, gió hú
lên những tiếng hú âm thầm man rợ y hệt như tiếng người. Chúng tôi đã nhiều lần
trông thấy nó đứng trên mỏm núi nhìn xuống sân trường và làm những cử chỉ rất
tục tĩu.
- Đấy là một cách nó bình luận về nền giáo dục của chúng ta – Doanh bảo –
Tôi thấy nó có lý.
Ông An bực mình:
-Cậu Doanh! Sao cậu lại nói thế? Người ta vẫn nhốt vào tù những thằng
nói năng như cậu.
Doanh bảo:
- Thì chúng ta vẫn sống cùng nhau đấy thôi.
[Những người muôn năm cũ, tr.679]
74
Câu nói “Người ta vẫn nhốt vào tù những thằng nói năng như cậu.”của
ông An là một câu chứa hàm ngôn nhắc nhở: “Cậu đừng nói năng như thế, nếu
không cậu sẽ bị nhốt vào tù đấy.”
Câu đáp của Doanh “Thì chúng ta vẫn sống cùng nhau đấy thôi” là một
luận cứ để chứng minh cho kết luận rằng mọi người đều đang sống cùng nhau trong
một nhà tù. Với kết luận không tường minh đó, mọi người trong cuộc hội thoại đều
hiểu rất rõ.
2.2.6. Vi phạm phương châm hội thoại
Hội thoại trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thường không đảm bảo các
nguyên tắc và quy luật vận động hội thoại. Có những đoạn thoại mà lời trao và lời
đáp không làm thành các cặp tương tác hài hòa về nội dung. Qua khảo sát, truyện
Nguyễn Huy Thiệp có 28 ngữ cảnh vi phạm phương châm hội thoại để tạo hàm
ngôn, chiếm 16,47% trong các cơ chế tạo hàm ngôn. Sau đây là một số ví dụ tiêu
biểu:
2.2.6.1. Vi phạm phương châm về lượng
Vi phạm phương châm về lượng là hiện tượng nói nhiều hơn hoặc ít hơn thông
tin mà cuộc thoại yêu cầu. Chẳng hạn ví dụ sau:
(Vd 55) Tôi hỏi trùm Thịnh:
- Bác ơi, thế chuyện trâu đen có thực hay không?
Trùm Thịnh bật cười, lão ngả người ra sau lái, tia sáng từ trong hốc con mắt
lành nhay nháy:
- Tao đã đánh cá trên khúc sông này sáu chục năm trời. Tao thuộc từng lạch
một Chuyện con trâu đen chỉ là chuyện đồn nhảm nhí Mày hãy tin tao, ở bến
Cốc này thì chuyện giết người ăn cướp có thực, ngoại tình có thực, cờ bạc có thực,
còn chuyện trâu đen là giả. [Chảy đi sông ơi, tr.12]
Ở (Vd55), với câu hỏi của nhân vật tôi, Trùm Thịnh chỉ cần trả lời chuyện
trâu đen thật hay giả là đủ. Nhưng ngoài việc trả lời “trâu đen là giả.”, Trùm Thịnh
còn nói đến thời gian lão đánh cá bao nhiêu năm, việc lão thuộc luồng lạch, và đặc
biệt là chuyện giết người, ăn cướp, ngoại tình, cờ bạc. Như vậy, câu trả lời của
75
Trùm Thịnh là thừa nội dung giao tiếp tức là trả lời nhiều thông tin hơn so với yêu
cầu. Việc cố tình trả lời nhiều thông tin hơn so với nội dung giao tiếp như vậy,
Trùm Thịnh đã vi phạm phương châm về lượng của nguyên tắc cộng tác hội thoại.
Với việc vi phạm phương châm hội thoại về lượng qua lời của Trùm Thịnh, tác giả
muốn thể hiện hàm ngôn: hãy nhìn thẳng vào hiện thực, đối mặt với cái xấu của xã
hội không nên huyễn hoặc bằng các truyền thuyết hư ảo. Còn chuyện Trùm Thịnh
cố tình nói dư thông tin như về thời gian lão đánh cá, việc lão thuộc luồng lạch,
cũng là nhằm một mục đích để thể hiện hàm ngôn là: “Tôi đã sống ở đây rất lâu, đã
thành thạo và biết mọi chuyện ở đây một cách rành rẽ” để nhằm khẳng định một sự
thật chắc chắn, nhằm tăng độ tin cậy cho thông tin mình trả lời.
2.2.6.2. Vi phạm phương châm về chất
Vi phạm phương châm về chất là nói không đúng sự thật. Chẳng hạn việc
dùng từ “hà bá” như hai ví dụ sau là những trường hợp vi phạm phương châm hội
thoại về chất trong truyện Nguyễn Huy Thiệp:
(Vd 56)- Cốc với cò gì - Ông chủ của tôi lái thuyền vào bờ, nửa như bực
bội nửa như ngượng nghịu - Mày chỉ mới ngồi mà nước tràn cả vào thuyền, đếncuối
Bến Cốc thì tao xuống dưới đáy sông với Hà Bá à?”[Chảy đi sông ơi, tr.9)
“Hà Bá” chỉ là một từ thường được dùng để chỉ một nhân vật không có thật
ở dưới sông và thường được dùng theo nghĩa xấu. Chúng ta chỉ nghe nói đến Hà Bá
thôi nhưng chưa bao giờ thấy nó mà thực tế thì không có con gì gọi là con Hà Bá cả.
Vì vậy khi nói: “Đến cuối bến Cốc thì tao xuống dưới đáy sông với Hà Bá à?” là
vi phạm phương châm về chất vì nói điều không có bằng chứng xác thực. Từ đó, ta
suy ra được hàm ngôn của các câu trên là: “Mày ngồi vào thuyền tao làm tao xui
nếu mày ngồi ở thuyền tao xuống cuối bến Cốc thì thuyền sẽ chìm và tao sẽ chết."
Hay xét các ví dụ sau cũng là những trường hợp vi phạm phương châm về
chất để tạo hàm ngôn:
(Vd 57) Ông Kháng bảo: “Xin lỗi, tôi không được trang bị kiến thức giống
như của bác”. Anh Bường bảo: “Bác Kháng ạ, mời bác về bú tí mẹ”. [Những
người thợ xẻ, tr.131]
76
Xét theo ngữ cảnh, ông Kháng là một giảng viên đại học thì không còn là trẻ
con nữa nhưng anh Bường lại bảo “mờibác về bú tí mẹ”, nghĩa là anh Bường công
nhiên bất chấp phương châm về chất. Hàm ngôn trong câu nói của anh Bường là
nhằm mỉa mai ông Kháng chỉ là một đứa trẻ con miệng còn hôi sữa nên không biết
gì.
2.2.6.3. Vi phạm phương châm cách thức
(Vd 58) Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc
nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo: "Đừng mừng... họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha
đừng làm gì quá sức". Cha tôi cười: "Chẳng có gì đâu... cha chỉ viết thư. Thí dụ:
“Thân gửi N. tư lệnh quân khu... Tôi viết thư này cho cậu... Hơn năm mươi năm,
đây là lần đầu tôi ăn tết mồng ba tháng ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến
trường, hai đứa chúng mình đã từng mơ ước v. v... Cậu nhớ cái xóm ven đường,
cô Huệ đã làm bánh trôi bằng bột mì mốc. Bột mì bê bết trên lưng v.v... Nhân đây
M. là người tôi quen, muốn được công tác dưới quyền của cậu v.v..”. . Cha viết
như thế được không?" Tôi bảo: "Được". Vợ tôi bảo: “Không được! " Cha tôi gãi
cằm: “Người ta nhờ mình". [Tướng về hưu, tr. 21]
Viết thư với mục đích là để nhờ xin việc mà ông Thuấn kể lể dài dòng đủ thứ
chuyện rồi mới đến chuyện nhờ vả. Đây chính là vi phạm phương châm cách thức
tránh nói “dài dòng, rườm rà”. Bằng cách nói dài dòng, rườm rà, “dây cà ra dây
muống” của ông Thuấn ta suy ra hàm ngôn của ông Thuấn là: “Tôi và cậu là chỗ
thân tình, giữa hai chúng ta đã từng sống cùng nhau, cùng sinh ra tử, đã từng có
những kỷ niệm vui buồn” Với cách gợi lại những kỷ niệm tốt đẹp, để mục đích
nhờ vả đạt hiệu quả tốt hơn, chính là dụng ý của ông Thuấn.
Hay xét ví dụ sau:
(Vd 59) My Lan hỏi: "Có phải hồi ấy anh ăn trộm khoai, bị dân quân bắt
không?" Khảm đỏ mặt bảo: "Toàn nói lăng nhăng, mắc tội nói xấu đồng đội. Thế
nào tớ cũng bắt đền". My Lan hỏi: “Bắt đền gì?" Khảm bảo: "Đợi tối thì biết". Mọi
người cười. [Không có vua, tr.70]
77
Trả lời câu hỏi của My Lan, đáng ra Khảm phải trả lời vào đề tài là bắt đền
như thế nào, bằng hình thức gì nhưng Khảm lại bảo: "Đợi tối thì biết". Như vậy,
câu trả lời của Khảm là một câu trả lời mơ hồ. Với câu trả lời này, Khảm đã cố tình
tạo hàm ngôn bằng cách vi phạm quy tắc cách thức “trong giao tiếp tránh nói mơ
hồ”.
2.2.6.4. Vi phạm phương châm quan hệ
Khi giaotiếp, cần nói đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề. Để duy trì
cuộc giao tiếp thì nguyên tắc này là nguyên tắc quan trọng nhất. Bởi vì nó buộc
những người tham gia giao tiếp phải phát ngôn hướng vào đề tài của hội thoại, nhất
là khi trả lời câu hỏi của người đối thoại, ngoại trừ trường hợp người nói muốn thay
đổi đề tài. Khi người nói cố tình không nói thẳng vào đề tài giao tiếp là đã vi phạm
phương châm quan hệ.
(Vd 60) Cô Lài khóc: “Cháu ở nhà thì bà có chết không bà?” Vợ tôi bảo:
“Đừng khóc”. Tôi cáu: “Cứ để cho cô ấy khóc, đám ma không có tiếng khóc buồn
lắm. Nhà mình có ai biết khóc bà cụ thế đâu?”. Vợ tôi bảo: “Ba mươi hai mâm.
Anh phục em tính sát không?”. Tôi bảo: “Sát”. [Tướng về hưu, tr.28]
Trong cuộc hội thoại trên, nhân vật “tôi” và “vợ tôi” đề cập đến hai chủ đề
đan xen nhau. Chủ đề thứ nhất là nói về chủ đề việc cô Lài có nên khóc hay không?
Và chủ đề thứ hai là chủ đề tính mâm cỗ cho đám tang của mẹ. Khi người chồng nói
Nhà mình có ai biết khóc bà cụ thế đâu? ,tức là Thủy biết rằng trong câu nói của
chồng có ngầm ý trách mình là không thương bà cụ (vì không biết khóc bà cụ - có
thương thì mới khóc (lẽ thường), cô liền nói sang chủ đề khác“Ba mươi hai mâm.
Anh phục em tính sát không?”. Khi đang nói chuyện “khóc bà cụ” của cô Lài,
bổng dưng Thủy chuyển sang nói về chuyện tính “sát” trong đám tang. Rõ ràng là
Thủy đã cố tình vi phạm phương châm quan hệ trong hội thoại để nhằm thể hiện
hàm ngôn cho người chồng biết rằng: “tôi không biết khóc cho bà cụ - không
thương bà cụ (nhược điểm) nhưng tôi biết tính toán chu đáo trong đám tang bà cụ
để không bị thiệt nhiều (ưu điểm của tôi)”. Ở đây Thủy muốn lái sang chuyện khác
là chuyện đề cao cái ưu điểm biết tính toán của mình.
78
2.2.7. Sử dụng hành động ngôn ngữ gián tiếp
Hành động ngôn ngữ gián tiếp là những câu thực hiện hành động ngoài lời
một cách gián tiếp bằng một hành động khác. Hay có thể gọi là hành động ngôn từ
lực ngôn trung gián tiếp.
Theo Đỗ Hữu Châu “sử dụng hành động ngôn ngữ gián tiếp là biện pháp rất
có hiệu lực để truyền báo các ý nghĩa hàm ẩn, đặc biệt là các ý nghĩa không tự
nhiên dụng học” [11b, tr.379].
Truyện Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện 12 lần sử dụng hành động ngôn ngữ
gián để tạo hàm ngôn, chiếm 7,05%. Trong đó thường sử dụng những hình thức câu
hỏi hoặc câu khẳng định để thể hiện mục đích cầu khiến.
Xét ví dụ sau:
(Vd 61) Mọi việc diễn ra chỉ trong nháy mắt. Hạnh sửa quần áo rồi lùi ra
ngoài không nói năng gì. Thoa khóc nức nở rồi ngã vật như một thân cây mảnh dẻ
vừa đốn khỏi mặt đất.
Bà Thiều đứng dậy lấy quần áo mặc vào người rồi quát tướng lên: - Khóc
cái gì? Cha bố cô! Có im đi ngay không bà lại cho cái tát bây giờ.
[Huyền thoại phố phường, tr.263]
Phát ngôn “- Khóc cái gì?” của bà Thiều có hình thức là một câu hỏi nhưng
mục đích không phải để hỏi mà là một câu mệnh lệnh, cầu khiến, (nhằm trấn áp,
dọa nạt, ra lệnh) “im đi” và ta có thể hiểu nghĩa hiển ngôn của hành vi kế tiếp “Có
im đi ngay không bà lại cho cái tát bây giờ” là đích ở lời của câu “- Khóc cái gì?”.
Đây chính là hình thức cầu khiến qua câu hỏi mà bà Thiều muốn Thoa - con gái
mình không được khóc.
Trong truyện “Truyện tình kể trong đêm mưa” xét trong ngữ cảnh, Bạch Kỳ
Sinh và Ngân đều yêu Muôn, nhưng Ngân lại chỉ huy phục kích giết chú của Muôn
vì tội buôn bán thuốc phiện. Một bận Ngân đến nhà Muôn chơi nhưng không hiểu ai
đó đã cắt mất gân chân con ngựa quý của Ngân, Ngân cho là Bạch Kỳ Sinh làm
chuyện đó và bắt Bạch Kỳ Sinh nhốt vào tù.
(Vd 62) Muôn than thở: - Anh ta đang ốm.
79
Ngân nói: - Con ngựa này mỗi ngày ăn hết hai mươi cân thóc, 6 lít sữa với
hai cân đường. Cả nước bây giờ chỉ còn hai con như thế!”
[Chuyện tình kể trong đêm mưa, tr.468]
Câu nói của Muôn “ - Anh ta đang ốm”, xét trong ngữ cảnh trên, cấu trúc bề
mặt là một câu khẳng định nhưng thực tế đích ở lời lại là hành vi cầu khiến, ngầm ý
xin xỏ: “Đừng bắt anh ta!”. Nhờ vào ngữ cảnh và câu trả lời mang ý nghĩa hàm
ngôn của Ngân mà người đọc có thể suy ra được hàm ngôn trong câu nói của Muôn.
Trường hợp này là đích cầu khiến thể hiện qua câu khẳng định.
2.2.8. Dùng câu chất vấn
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (chủ biên, 2006) “Chất vấn là hỏi và yêu
cầu phải giải thích rõ ràng.” [tr.61, 144]
Theo Nguyễn Đức Dân + Nguyễn Thị Thời (2007) khi nghi ngờ hoặc cho
rằng một sự tình (chỉ một đối tượng, hiện tượng, ý kiến, luận điểm, lí lẽ) hoặc cho
rằng sự tình là vô lí, không đúng thì người ta chất vấn sự tình đó nhằm mục đích
bác bỏ sự tình hoặc bày tỏ ý kiến của mình mà không cần người nghe trả lời. Nếu sự
tình là một ý khẳng định thì chất vấn tạo thành hàm ý phủ định và ngược lại. Hành
động chất vấn thể hiện thành câu chất vấn. Câu chất vấn luôn có hàm ý. Điều này có
nghĩa là khi người ta tham gia giao tiếp dùng câu chất vấn chính là đã tạo ra hàm
ngôn cho phát ngôn.
Câu chất vấn phổ biến dùng yếu tố phiếm định như ai, đâu, sao, nào, gì
làm tác tử chất vấn. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp sử dụng 11 lần hình thức này
để tạo hàm ngôn, chiếm 6,47%. Xét một số hình thức chất vấn sau:
- Khuôn chất vấn với từ phiếm định “ai”
(Vd 63) Chị Bường dắt theo ba đứa con đưa tiễn chúng tôi. Anh Bường bảo:
“Thôi mẹ đĩ về đi, bảo vệ an toàn cái hĩm, chờ tớ một năm sau tớ về”. Chị Bường
nửa cười nừa khóc: “Đồ phải gió! ở trên ấy nước độc lắm đấy! Đừng có tắm đêm
mà ngã nước đấy! “Anh Bường bảo: “Nhớ rồi! Khổ lắm! Đêm ai lại đi tắm nước lã
bao giờ? Thôi về đi! Thương anh giấu ở trong lòng. Xin em chớ có lòng thòng với
ai”. [Những người thợ xẻ, tr.109]
80
Câu nói của anh Bường “Đêm ai lại đi tắm nước lã bao giờ?” làmột câu có
khuôn chất vấn với từ phiếm định “aibao giờ?” mang nghĩa hàm ngôn “Em hãy
yên tâm, anh không đi tắm nước lã vào ban đêm đâu”.
Hay câu nói của chị Thắm trong ví dụ sau:
(Vd 64) “Có ai yêu thương họ đâu?” [Chảy đi sông ơi, tr.13]
Ví dụ trên là một câu chất vấn với khuôn từ phiếm định “có aiđâu?” có
hàm ngôn mang nghĩa phủ định: “Không ai yêu thương họ cả.”
- Khuôn chất vấn “A với B gì?”
Chẳng hạn, câu nói của ông chủ thuyền nói với cậu bé xin theo đi đánh cá
đêm khi cậu bé xin được tới bến Cốc nhưng giữa chừng ông chủ bảo xuống. Sau
đây là ngữ cảnh diễn ra lời thoại đó.
(Vd 65) Thôi mày xuống đi! - Ông chủ của tôi hốt hoảng - Cái lão trùm
Thịnh không đùa với lão được đâu!
- Cháu xin bác... - Tôi rên rỉ - Bác bảo cho cháu đến cuối bến Cốc cơ mà!
- Cốc với cò gì? - Ông chủ của tôi lái thuyền vào bờ, nửa như bực bội nửa như
ngượng nghịu. [Chảy đi sông ơi, tr.9]
Câu in đậm trong (Vd65) là một câu chất vấn để bác bỏ: “Không cốc với cò
gì cả” tức là ngầm báo cho người nghe biết rằng không có chuyện đi qua Bến Cốc,
mà hãy xuống thuyền mau.
2.2.9. Dùng từ ngữ không tương thích
Phương thức này được cấu tạo dựa trên sự kết hợp bất thường về nghĩa trong
ngữ cảnh, từ đó làm nảy sinh hàm ngôn. Trong 170 ngữ liệu có chứa hàm ngôn
trong truyện Nguyễn Huy Thiệp mà chúng tôi thập, có 2 trường hợp tác giả sử dụng
từ ngữ không tương thích ngữ cảnh để tạo hàm ngôn, chiếm 1,18%.
Đối với người Việt, sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ là một điều cần
thiết, bắt buộc. Bao giờ cũng vậy, đạo của con cái là phải hiếu kính với cha mẹ. Lúc
cha mẹ già yếu ốm đau, con cái phải chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ. Song trong
gia cảnh “Không có vua”, việc bố ốm đã làm cho con cái lo lắng nhưng không phải
là lo bố không khỏi bệnh, không phải lo cho sức khỏe của bố ngày một yếu đi, bệnh
81
tình ngày một trầm trọng mà là lo phải chi phí nhiều tiền. Ta thấy trong tác phẩm
lão Kiền cũng là một người cha rất thương con, vợ chết sớm, một mình ở vậy với
cảnh “gà trống nuôi con”. Bằng nghề vá xe đạp của mình, lão nuôi bốn đứa con trai
khôn lớn, trong đó có hai đứa được học đại học đàng hoàng, một đứa con út tật
nguyền. Vậy mà khi bố ốm, mấy đứa con lão Kiền chỉ lo tốn tiền vì phải chữa bệnh
cho bố. Sau đây là tình huống và cuộc hội thoại giữa anh em trong gia đình lão Kiền
thể hiện rõ nỗi lo lắng đó:
(Vd 66) Lão Kiền điều trị Đông y, không khỏi, người rạc đi, đầu đau nhức.
Đến tháng mười phát hiện thấy có u não. Bác sĩ bảo: "Để thì chết, mổ may ra cứu
được". Cấn về họp gia đình, Cấn bảo: "Làm thế nào? Từ khi bố ốm nhà mình tiêu
nhiều tiền lắm”. Cấn giở quyển sổ kế toán ra đọc: "Chú Khiêm đưa một lần một
nghìn, một lần tám nghìn, một lần năm nghìn. Chú Đoài đưa một lần một trăm, một
lần sáu chục, một lần một nghìn mốt. Chú Khảm đưa một lần ba trăm nhưng hôm
tôi đưa một nghìn đi lấy thuốc ông lang Toại, chú Khảm mua hết có năm trăm, còn
năm trăm vẫn cầm. Tiền thức ăn thế này... thế này... Ai chi gì tôi ghi cả".
Đoài bảo: “Tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế, cứ để chết là hơn”. Tốn khóc
hu hu. Cấn hỏi: “Ý chú Khảm thế nào?”. Khảm bảo: “Các anh thế nào thì em thế”.
Cấn hỏi: “Chú Khiêm sao im thế?” Khiêm hỏi: “Anh định thế nào?” Cấn bảo :
“Tôi đang nghĩ”. Đoài bảo:“Mất thì giờ bỏ mẹ. Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu
quyết nhé”. [Không có vua, tr.62]
Câu nói cuối cùng của Đoàilà một sự kết hợp bất thường về nghĩa. Bởi vì, đặt
trong truyền thống đạo đức gia đình Việt Nam thì câu nói của Đoài trái ngược hoàn
toàn với những lẽ thường và đạo lý làm một người con. Trong hoàn cảnh bố ốm như
vậy, anh em trong gia đình lẽ ra phải bàn bạc để tìm cách chạy chữa cho bố khỏi
bệnh. Nhưng ở đây, anh em lại bàn bạc để lấy biểu quyết về việc cho bố chết. Hàm
ngôn trong câu nói của Đoài là “hãy để bố chết đi, đừng chạy chữa nữa tốn tiền.”
Tương tự, cách dùng từ của Đoài khi bố chết ở ví dụ sau:
(Vd 67) “Ông cụ đi rồi. Thật may quá. Bây giờ tôi đi mua quan tài”.
[Không có vua ,tr. 63]
82
Xưa nay từ “may” chỉ được dùng trong trường hợp ở vào tình hình gặp được
may, gặp những điều tốt đẹp, còn cha chết là một chuyện buồn, chuyện xui xẻo.
Nhưng trong truyện, từ “may” được Nguyễn Huy Thiệp để cho nhân vật Đoài sử
dụng trong ngữ cảnh khi cha chết là không phù hợp. Qua cách dùng từ như vậy, tác
giả đã thể hiện một hàm ngôn rất sâu sắc: Trước cái chết của cha mà con cái cảm
thấy đó là một điều may mắn, như trút được gánh nặng. Cái chết của lão Kiền đã
làm cho con cái được mãn nguyện. Câu nói của Đoài đặt trong ngữ cảnh này đã tạo
ra một sự tri nhận mới cho người nghe – đó là một sự mỉa mai.
Từ đó, tác giả muốn cho người đọc thấy được sự vô cảm và bất hiếu của
những đứa con trong cái gia đình “Không có vua” ấy, nhưng đấy cũng là sự băng
hoại về tâm hồn, về đạo đức của cả một thế hệ. Đó là một báo động về sự xuống cấp
về sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ trong xã hội hiện nay.
2.2.10. Dùng từ sai lệch ngữ nghĩa
Cơ chế tạo hàm ngôn bằng cách dùng từ sai lệch ngữ nghĩa là những trường
hợp người nói cố tình sử dụng những từ ngữ không đúng, không phù hợp với ý
nghĩa vốn có của nó để tạo hàm ngôn. Truyện Nguy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_02_20_3404848475_5764_1869380.pdf