Luận văn Hành vi nói dối của học sinh một số trường trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các sơ đồ

MỞ ĐẦU .1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI NÓI DỐI CỦA HỌC SINH

TRUNG HỌC CƠ SỞ.6

1.1. Lịch sử nghiên cứu về hành vi ND ở HS THCS .6

1.1.1. Một số nghiên cứu ở nước ngoài về hành vi ND ở HS THCS.6

1.1.2. Một số nghiên cứu trong nước về HVND của HS THCS .10

1.2. Lý luận nghiên cứu về hành vi ND ở HS một số trường THCS tại

Tp.HCM.14

1.2.1. Khái niệm hành vi .14

1.2.2. Các vấn đề về HVLC.17

1.2.3. Các vấn đề về HVLCXH.25

1.2.4. Các vấn đề về HVND.31

1.2.5. Một số đặc điểm tâm lý cơ bản ở HS THCS.46

1.2.6. Các biểu hiện của HVND ở HS THCS .49

1.2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến HVND ở HS một số trường THCS tại

Tp.HCM. 55

Tiểu kết chương 1.61

Chương 2. THỰC TRẠNG HÀNH VI NÓI DỐI CỦA HỌC SINH MỘT

SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.62

2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng HVND của HS một số trường THCS tại

Tp.HCM.62

pdf204 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 662 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hành vi nói dối của học sinh một số trường trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: THCS Kim Đồng (quận 5), THCS Quang Trung (Gò Vấp), THCS Phan Chu Trinh (Bình Tân), THCS Phan Bội Châu (quận Tân Bình). 71 Bảng 2.7. Vài nét về khách thể nghiên cứu (học sinh) Thông tin về khách thể nghiên cứu Tần số Phần trăm Tổng Trường THCS Kim Đồng 120 25% 480 100% THCS Quang Trung 120 25% THCS Phan Chu Trinh 120 25% 480 100% THCS Phan Bội Châu 120 25% Khối lớp Khối 6 120 25% 480 100% Khối 7 120 25% Khối 8 120 25% Khối 9 120 25% Giới tính Nam 225 46.9% 480 100% Nữ 255 53.1% Hạnh kiểm Tốt 345 71.9% 480 100% Khá 101 21% Trung Bình 34 7.1% Yếu 0 0% Tôn giáo Không 211 44% 480 100% Phật 200 41.6% Thiên chúa 55 11.5% Tôn giáo khác 14 2.9% Do phiếu hỏi có yêu cầu sàng lọc nên người nghiên cứu đã có sự xem xét từng phiếu và yêu cầu HS làm lại khi phiếu chưa đạt yêu cầu. Số phiếu không hợp lệ được thay thế và thực hiện lại để bảo đảm về mặt số lượng. Vì vậy, quan sát bảng 2.6 có thể nhận thấy số lượng học sinh THCS xét theo trường và lớp là bằng nhau (25%). Xét về mặt giới tính, tỷ lệ HS nam nữ cũng tương đương nhau (nam chiếm 46.9% và nữ là 53.1%). Trong tổng 480 phiếu, có 71.9% HS có hạnh kiểm tốt, 21% có hạnh kiểm khá và 7.1% có hạnh kiểm trung bình. Phân nữa HS được khảo sát có tôn giáo Phật (41.6%), khá nhiều HS không tôn giáo (34.6%), 11.5% HS thuộc thiên chúa giáo và một vài HS theo các tôn giáo khác (2.9%). 72 Lượng mẫu 480 HS không phải là một mẫu lớn. Tuy nhiên do đề tài chỉ nghiên cứu một số trường tại Tp.HCM nên số lượng khách thể này là chấp nhận được. Mặc khác, người nghiên cứu cũng đưa thêm vào khách thể hỗ trợ với 84 phụ huynh và 146 giáo viên tại bốn trường làm căn cứ để bổ sung thêm cho kết quả nghiên cứu. Cụ thể như sau: Bảng 2.8. Vài nét về khách thể nghiên cứu (phụ huynh HS và giáo viên) Thông tin về khách thể nghiên cứu Tần số % Tổng Phụ huynh HS Trường THCS Kim Đồng 24 28.6% 84 100% THCS Quang Trung 22 26.2% THCS Phan Chu Trinh 22 26.2% THCS Phan Bội Châu 16 19% Giới tính Nam 35 41.7% 84 100% Nữ 49 58.3% Giáo viên Trường THCS Kim Đồng 32 21.9% 146 100% THCS Quang Trung 40 27.4% THCS Phan Chu Trinh 39 26.7% THCS Phan Bội Châu 35 24% Giới tính Nam 70 47.9% 146 100% Nữ 76 52.1% 2.1.3.2. Đối với khách thể ở các lứa tuổi khác nhau Như đã đề cập, xem xét HVND dựa vào CMXH hiện nay là hướng đi chính của đề tài. Do đó, đề tài đã tiến hành khảo sát 525 khách thể ở các lứa tuổi khác nhau về CMXH đối với HVND ở 3 khía cạnh: động cơ nói dối, cường độ nói dối, sự đi kèm các HVLC khác. Đây cũng là 3 khía cạnh để đánh giá HVND lệch chuẩn theo DSM-4. Trong giới hạn cho phép, đề tài chỉ khảo sát được 525 khách thể để đo lường CMXH về HVND. Do đó, CMXH được đề cập trong toàn bộ đề tài được ngầm hiểu như chuẩn mực của 525 khách thể được khảo sát. Thông tin khách thể khảo sát CMXH được thể hiện rõ trong bảng sau: 73 Bảng 2.9. Vài nét về khách thể nghiên cứu (ở các độ tuổi khác nhau) Thông tin về khách thể nghiên cứu Tần số % Tổng Giới tính Nam 254 48.4% 525 100% Nữ 271 51.6% Độ tuổi 18-24 174 33.1% 525 100% 25-55 323 61.5% Trên 55 28 5.4% Bảng 2.9 cho thấy trong 525 khách thể được khảo sát thì tỷ lệ nam nữ là tương đương nhau (nam là 48.4%, nữ là 51.6%). Xét theo độ tuổi, ở nhóm tuổi thanh niên, sinh viên (từ 18 đến 24 tuổi) chiếm 33.1%, nhóm tuổi trưởng thành (từ 22-55 tuổi) chiếm 61.5%, nhóm tuổi già (trên 55 tuổi) chiếm 5.4%. Nếu so sánh từng nhóm tuổi với nhau thì tỷ lệ phân bố có sự chênh lệch khá cao. Tuy nhiên, nếu chia các nhóm tuổi thành từng mốc tuổi thì tỷ lệ mẫu lại khá cân bằng. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để xem xét CMXH về HVND. 2.2. Thực trạng HVND của HS một số trường THCS tại Tp.HCM 2.2.1. Nhận thức của HS THCS về HVND Nhận thức của HS THCS về định nghĩa nói dối được đề cập trong bảng 2.10 dưới đây: Bảng 2.10. Nhận thức của HS THCS về định nghĩa HVND STT Nội dung Đúng Sai Tần số % Tần số % 1 Lời nói không đúng thực tế nhưng người nói không cố ý đánh lừa người nghe 204 42.5% 276 57.5% 2 Lời nói không đúng thực tế, người nói không cố ý đành lừa người nghe nhưng sau khi kiểm chứng lại lời nói, biết là sai nhưng vẫn không điều chỉnh lại 261 54.4% 219 45.6% 3 Lời nói không đúng thực tế nhưng người nói cố ý đánh lừa người nghe. 305 63.5% 175 36.5% 74 4 Lời nói không đúng thực tế, người nói cố ý đánh lừa người nghe nhưng sau đó có sự giải thích về sự thật. 215 44.8% 265 55.2% 5 Lời nói không đúng thực tế, người nói cố ý đánh lừa người nghe nhưng nhờ đó người nghe có thể suy ngẫm để rút ra bài học cho bản thân (thường gặp trong các hình thức văn học nghệ thuật) 292 60.8% 188 39.2% Nhìn chung, chỉ khoảng 1/2 mẫu khách thể có nhận thức đúng về HVND. Các tỷ lệ chọn lựa đúng, sai chênh lệch nhau không nhiều. Cụ thể, ở câu 1 có đến 204/480 HS cho rằng “lời nói không đúng thực tế nhưng người nói không cố ý đánh lừa người nghe” là nói dối. Câu 2 có đến 219/480 HS cho rằng “lời nói không đúng thực tế, người nói không cố ý đành lừa người nghe nhưng sau khi kiểm chứng lại lời nói, biết là sai nhưng vẫn không điều chỉnh lại” không phải là nói dối. Hay ở câu 4, có đến 215/480 HS cho rằng “lời nói không đúng thực tế, người nói cố ý đánh lừa người nghe nhưng sau đó có sự giải thích về sự thật” là nói dối. Tương tự, có đến 60.8% HS cho rằng “lời nói không đúng thực tế, người nói cố ý đánh lừa người nghe nhưng nhờ đó người nghe có thể suy ngẫm để rút ra bài học cho bản thân (thường gặp trong các hình thức văn học nghệ thuật)” là nói dối. Đây đều là những nhận định chưa thật sự chính xác về định nghĩa nói dối. Kết quả phỏng vấn về vấn đề này, bạn N.D.T trường THCS Kim Đồng cho biết: “Em nghĩ nói dối là nói không đúng sự thật nhưng cũng tùy. Nói chung đây là một khái niệm phức tạp”. Tương tự, khi được hỏi nói dối là gì, bạn N.V.C trường THCS-THPT Phan Chu Trinh cho biết: “Khái niệm này khó quá, em chưa được học. Nhưng em nghĩ nói dối là nói sai sự thật một cách cố ý” Nói dối là nói không đúng toàn bộ hoặc không đúng một phần (sai một hoặc một số chi tiết). Mức độ sai có thể là khác ít, khác nhiều, hoặc khác hoàn toàn và đối với bất kỳ sự việc nào, dù mang tính chất nghiêm trọng hay không nghiêm trọng. Nhận thức của HS THCS về vấn đề này được đề cập trong bảng 2.11. 75 Bảng 2.11. Nhận thức của HS về đặc điểm của nói dối STT Nội dung Đúng Sai Tần số % Tần số % 1 Nói sai hoàn toàn sự thật đối với một sự việc có tính chất nghiêm trọng 354 73.8% 126 26.2% 2 Nói sai một phần sự thật đối với một sự việc có tính chất nghiêm trọng 292 60.8% 188 39.2% 3 Nói sai một phần sự thật đối với một sự việc không có tính chất nghiêm trọng. 229 47.7% 251 52.3% 4 Nói sai hoàn toàn sự thật đối với một sự việc không có tính chất nghiêm trọng 265 55.2% 215 44.8% Bảng 2.11 cho thấy hơn 1/2 mẫu nghiên cứu đồng ý với đặc điểm nêu trên của nói dối. Tuy nhiên, đáng lưu ý là ở câu 3 có đến 251/480 (52.3%) HS cho rằng “nói sai một phần sự thật đối với một sự việc không có tính chất nghiêm trọng” không phải là nói dối. Có thể thấy, việc đánh giá là sai nhiều hay ít phụ thuộc vào đối tượng, sự việc và cách đưa đối tượng, sự việc ra để đánh giá. Nếu sự việc gồm nhiều bộ phận, chi tiết thì việc sai khác đi một hoặc một vài chi tiết thường được coi là khác ít. Nếu chỉ xét riêng bộ phận, chi tiết ấy thôi thì việc nói khác đi lại bị coi là lớn, là nói khác hoàn toàn. Do vậy, đã là không đúng thực tế thì dù là không đúng một phần hay toàn bộ sự thật thì đều thuộc về nói dối. Điều này cũng tương tự với việc đánh giá một sự việc có tính chất nghiêm trọng hay không nghiêm trọng. Khi được hỏi tại sao nói sai một phần sự thật đối với một sự việc không có tính chất nghiêm trọng không phải là nói dối, em T.T.H.H trường THCS Quang Trung trả lời: “Em nghĩ rằng nói dối như vậy là nhỏ và có thể bỏ qua”. Rõ ràng, với quan điểm này, nhận thức của HS là chưa phù hợp và cần phải có sự uốn nắn kịp thời. Sự phức tạp của định nghĩa về nói dối dẫn đến sự khó khăn trong việc phân biệt nói dối với các hành vi khác có mối quan hệ gần với nói dối. 480 HS THCS được khảo sát đã có sự phân biệt nói dối và các hành vi này ở bảng 2.12, như sau: 76 Bảng 2.12. Nhận thức của HS về sự phân biệt HVND với các hành vi khác gần với nói dối STT Nội dung Đúng Sai Tần số % Tần số % 1 Lừa dối là nói dối 328 68.3% 152 31.7% 2 Làm dối là nói dối 319 66.5% 161 33.5% 3 Giữ bí mật, giấu thông tin là nói dối 206 42.9% 274 57.1% 4 Nói lảng, nói tránh là nói dối 177 36.9% 303 63.1% 5 Nói sai sự thật do ngộ nhận là nói dối 181 37.7% 299 62.3% 6 Trong tranh luận khoa học, các ý kiến không đúng với thực tế do nghĩ sao nói vậy là nói dối 123 25.6% 357 74.4% 7 Dự báo, dự đoán sai là nói dối 185 38.5% 295 61.5% 8 Hứa và dọa nhưng không biết là tương lai không thể làm được là nói dối 142 29.6% 338 70.4% 9 Hứa và dọa nhưng không thực hiện, mặc dù tương lai có thể thực hiện được là nói dối 319 66.5% 161 33.5% 10 Hành vi nói khoác, nói cường điệu, nói vòng nhằm mục đích giải trí hoặc truyền đi một thông điệp hàm ý là nói dối 125 26% 355 74% Trong 10 hành vi được người nghiên cứu đưa ra để phân biệt với nói dối, đa phần HS THCS có sự phân biệt chính xác ở hành vi số 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Tuy nhiên, có đến 42.9% HS cho rằng “giữ bí mật, giấu thông tin là nói dối” và 68.3% HS nhìn nhận sai, cho rằng lừa dối là nói dối. Con số cũng tương tự với 66.5% HS nhìn nhận sai và cho rằng làm dối là nói dối. Rõ ràng, chính sự nhận thức chưa đầy đủ về định nghĩa nói dối ở trên đã kéo theo những sai sót khi phân biệt nói dối với các hành vi “giáp ranh” khác ở HS THCS. 77 Trong khi đó với định nghĩa về nói dối, ở câu 1 có đến 82% phụ huynh HS chọn “sai” (đáp án được xem là đúng) và con số này lên đến 92% ở giáo viên. Ở câu 2 có 79% phụ huynh HS chọn “đúng” (đáp án được xem là đúng) và con số này cũng lên đến 93.4% ở giáo viên. Tương tự, ở các câu 3, 4, 5 tỷ lệ phụ huynh và giáo viên lựa chọn đáp án phù hợp dao động từ 76% đến 92.1%. Với đặc điểm của nói dối, phụ huynh HS lựa chọn đáp án phù hợp dao động trong khoảng 77.2% đến 91.5%, ở giáo viên từ 87.9% đến 98.7%. Tương tự, ở sự phân biệt nói dối với các hành vi giáp ranh, sự lựa chọn đáp án phù hợp chiếm tỷ lệ rất cao. Ở phụ huynh HS thấp nhất là 72.9% và cao nhất là 89.9%. Ở giáo viên con số cao nhất là 95.7% và thấp nhất là 86.6%. Từ những nhận xét nêu trên, có thể thấy, một trong những biện pháp hữu hiệu để nâng cao nhận thức của HS THCS về nói dối là sự giáo dục của phụ huynh và giáo viên về vấn đề này, đặc biệt là giáo viên. Đây cũng là một trong những cơ sở để người nghiên cứu đề xuất các biện pháp nhằm khắc phục HVND của HS THCS. 2.2.2. Thực trạng HVND của HS một số trường THCS tại TP.HCM xét theo CMXH và DSM – 4 2.2.2.1. Thực trạng HVND của HS một số trường THCS tại TP.HCM xét theo CMXH a. CMXH về HVND và nhận thức của HS THCS về CMXH đối với HVND  CMXH và nhận thức của HS THCS về động cơ dẫn đến HVND Bảng 2.13. CMXH và nhận thức của HS THCS về động cơ dẫn đến HVND STT Động cơ CMXH Nhận thức của HS THCS về CMXH ĐTB Xếp hạng ĐTB Xếp hạng 1 Để được nhận đồ vật 0.39 1 0.71 3 2 Để được nhận ân huệ (sự cho phép, sự tha thứ) 0.4 2 0.67 1 3 Tránh nghĩa vụ 0.46 3 0.84 6 4 Tránh bị trừng phạt 0.53 4 0.87 8 78 5 Tự khẳng định bản thân 0.56 5 0.71 3 6 Nói dối nhằm thăm dò, tìm hiểu sự thật 0.62 6 0.9 9 7 Khoe khoan về bản thân 0.7 7 0.68 2 8 Che giấu hành động của bản thân 0.81 8 0.86 7 9 Gây chú ý với người khác 0.81 8 0.8 4 10 Tự bảo vệ bản thân hoặc bảo vệ người khác. 0.83 9 0.9 9 11 Làm cho những câu chuyện trở nên thú vị hay sống động hơn. 0.83 9 1.14 12 12 Không làm tổn thương người khác 0.83 9 1.26 16 13 Che giấu HVND trước đó 0.87 10 0.83 5 14 Nói những điều tưởng tượng 0.98 11 0.98 10 15 Thuyết phục, giải thích để người khác chấp nhận 1.01 12 1.13 11 16 Che giấu cảm xúc bản thân 1.03 13 1.19 14 17 Giúp đỡ người khác 1.09 14 1.18 13 18 Tạo không khí vui vẻ, giao lưu 1.13 15 1.31 17 19 Làm vui lòng người khác 1.15 16 1.23 15 Với 3 phương án lựa chọn là không phù hợp (0 điểm), phân vân (1 điểm), phù hợp (2 điểm) và theo thang quy đổi ĐTB đã trình bày, CMXH (quan điểm của 525 khách thể ở các độ tuổi khác nhau) được chia thành 2 nhóm sau: - Các động cơ nói dối không phù hợp (ĐTB từ 0 đến 0.49): nói dối để được nhận đồ vật; để được nhận ân huệ; tránh nghĩa vụ. Ba động cơ này được xếp ở 4 thứ hạng đầu tiên theo cách sắp xếp từ không phù hợp đến phù hợp. - Các động cơ nói dối còn phân vân giữa phù hợp và không phù hợp (ĐTB từ 0.5 đến 1.5): nói dối để tự khẳng định bản thân (hạng 5); nói dối nhằm thăm dò, tìm hiểu sự thật (hạng 6); khoe khoang về bản thân (hạng 7); che giấu hành động bản 79 thân; gây chú ý với người khác (hạng 8); tự bảo vệ bản thân hoặc bảo vệ người khác; làm cho những câu chuyện trở nên thú vị hay sống động hơn; không làm tổn thương người khác (hạng 9); che giấu HVND trước đó (hạng 10); nói những điều tưởng tượng (hạng 11); thuyết phục, giải thích để người khác chấp nhận (hạng 12); che giấu cảm xúc bản thân (hạng 13); giúp đỡ người khác (hạng 14); tạo không khí vui vẻ, giao lưu (hạng 15); làm vui lòng người khác (hạng 16). Kiểm nghiệm T-Test với Sig.= 0.225 cho thấy không có sự khác biệt giữa nam và nữ khi đánh giá về động cơ dẫn đến HVND là phù hợp hay không phù hợp. Xét theo độ tuổi, kiểm nghiệm ANOVA với Sig = 0.541 cũng cho thấy không có sự khác biệt về cách đánh giá giữa 3 nhóm tuổi với nhau. Như vậy, nếu HVND nào ở HS THCS xuất phát từ động cơ để được nhận đồ vật hay ân huệ; tránh nghĩa vụ được xem xét là không phù hợp. Điều đáng lưu ý là quan điểm này hoàn toàn trùng khớp với tiêu chí chẩn đoán về HVND lệch chuẩn của DSM – 4. Tuy nhiên không thể nào chỉ căn cứ vào yếu tố động cơ để kết luận một HS THCS có HVND dạng lệch chuẩn mà cần dựa vào một tiêu chí khác là cường độ xuất hiện của HVND. Mặt khác, khi xem xét nhận thức của HS THCS về CMXH đối với HVND, HS tỏ ra phân vân trước 19 động cơ được đưa ra khảo sát. Minh chứng là khi phân chia theo thang quy đổi ĐTB thì tất cả các động cơ đều ở nhóm phân vân giữa không phù hợp và phù hợp. Ba động cơ không phù hợp theo đánh giá của 525 khách thể ở mọi lứa tuổi được HS xếp lần lượt ở các thứ hạng 3, 1, 6 trong đó thứ hạng 2 là “khoe khoan về bản thân”. ĐTB và các thứ hạng còn lại cũng xấp xỉ nhau. Kiểm nghiệm ANOVA với Sig = 0.079 cho thấy không có sự khác biệt về trường, Sig = 0.553 cho thấy không có sự khác biệt về lớp, Sig = 0.611 cho thấy không có sự khác biệt về mặt tôn giáo. Kiểm nghiệm T- Test với Sig = 0.553 cho thấy không có sự khác biệt về mặt giới tính. Tuy nhiên, kiểm nghiệm ANOVA với biến số là hạnh kiểm cho kết quả có sự khác biệt ý nghĩa như sau: 80 Bảng 2.14. So sánh sự khác biệt về nhận thức của HS THCS đối với động cơ dẫn đến HVND theo biến số hạnh kiểm Loại hạnh kiểm N ĐTB Sig. Tốt 345 0.96 0.012 Khá 101 0.90 Trung bình 34 1.34 Tổng 480 Quan sát bảng 2.14, ĐTB của HS có hạnh kiểm trung bình là cao nhất. Như vậy, khi nhìn nhận về các động cơ dẫn đến HVND, HS có hạnh kiểm trung bình tỏ ra rất phân vân và có phần nghiêng về sự phù hợp cho các động cơ nói dối. Điều này rất dễ hiểu và cũng là căn cứ quan trọng để xem xét sự khác biệt về HVND ở HS THCS theo biến số hạnh kiểm. Tóm lại, HS THCS mặc dù vẫn còn phân vân khi đánh giá động cơ nào là phù hợp hay không phù hợp nhưng bước đầu đã có sự nhận thức tương đối phù hợp về điều này. Tuy nhiên, cần giúp cho HS hiểu được sự không phù hợp khi nói dối xuất phát từ động cơ tránh nghĩa vụ (hạng 6 theo đánh giá của HS), đặc biệt là những HS có hạnh kiểm trung bình.  CMXH và nhận thức của HS THCS về cường độ xuất hiện của HVND Tiêu chí thứ hai để xác định CMXH đối với HVND là cường độ xuất hiện của hành vi. Bảng 2.15 dưới đây mô tả CMXH và nhận thức của HS THCS về cường độ xuất hiện của HVND: Bảng 2.15. CMXH và nhận thức của HS THCS về cường độ xuất hiện của HVND Nội dung CMXH Nhận thức của HS THCS về CMXH Tần số % Tần số % a. Chỉ 1 lần nói dối 40 7.5% 52 10.8% b. Từ 2 tháng liên tục trở lên 211 40.2% 202 42.1% c. Từ 4 tháng liên tục trở lên 108 20.6% 78 16.3% d. Từ 6 tháng liên tục trở lên 166 31.7% 148 30.8% e. Ý kiến khác 0 0% 0 0% 81 Khi được hỏi: “Để đánh giá một HS THCS có HVND lệch chuẩn (không đúng với CMXH) thì hành vi đó cần xuất hiện trong bao lâu?” thì có đến có hơn 1/3 mẫu nghiên cứu (40.2%) trả lời là từ 2 tháng liên tục trở lên. Tiếp theo là 31.7% cho rằng từ 6 tháng liên tục trở lên, 20,6% nhận định từ 4 tháng liên tục và chỉ một lần nói dối chiếm tỷ lệ 7.5%. Rõ ràng, việc đánh giá về cường độ xuất hiện của HVND để xác định HVND có lệch chuẩn hay không còn chưa có sự thống nhất. Sự đồng ý của khách thể với lựa chọn “từ 6 tháng liên tục trở lên” (31.7%) cũng chính là tiêu chuẩn đánh giá HVLC của DSM – 4. Tuy nhiên, câu trả lời được nhiều khách thể lựa chọn nhất vẫn là “trong 2 tháng liên tục”. Điều này cũng có thể giải thích là vì truyền thống của dân tộc Việt Nam luôn coi trọng chữ “chính”. Truyền thống này đã góp phần ảnh hưởng rất lớn đến quan điểm sống, cách đánh giá của 525 khách thể được khảo sát. Kiểm nghiệm T – Test với Sig = 0.271 cho thấy không có sự khác biệt giữa nam và nữ; kiểm nghiệm ANOVA với Sig = 0.417 cũng cho thấy không có sự khác biệt về nhóm tuổi khi đánh giá về cường độ xuất hiện của HVND. Tổng hợp hai tiêu chí, có thể thấy rằng, một HS THCS có HVND dạng lệch chuẩn khi HVND có sự xuất phát từ động cơ để được nhận đồ vật hay ân huệ; tránh nghĩa vụ và xuất hiện liên tục hành vi trong vòng 2 tháng. Quan sát bảng 2.15 có thể thấy rằng CMXH về cường độ xuất hiện của HVND này được HS THCS nhận thức khá tốt. Các em cũng cho rằng HVND xuất hiện trong 2 tháng liên tục thì được đánh giá là không phù hợp (42.1%). Kiểm nghiệm T- Test với Sig = 0.21 cho thấy không có sự khác biệt giữa nam và nữ, kiểm nghiệm ANOVA với Sig = 0.19 cho thấy không có sự khác biệt về trường, Sig = 0.073 cho thấy không có sự khác biệt về lớp, Sig = 0.06 cho thấy không có sự khác biệt về mặt tôn giáo, Sig = 1.93 cũng cho thấy không có sự khác biệt về mặt hạnh kiểm khi HS THCS đánh giá về cường độ xuất hiện của HVND. Như vậy, dựa vào 2 tiêu chí: động cơ, cường độ xuất hiện của HVLC đã nghiên cứu cho phép kết luận một HVND là lệch chuẩn hay không. Kết luận chính là phần giao của 2 tiêu chí. Nói khác đi, một HVND lệch chuẩn ở HS THCS cần thỏa mãn 2 tiêu chí sau: - Tiêu chí 1: HVND xuất hiện liên tục hành vi trong vòng 2 tháng trở lên. 82 - Tiêu chí 2: HVND xuất phát từ động cơ để được nhận đồ vật hay ân huệ; tránh nghĩa vụ. So sánh hai khía cạnh nghiên cứu HVND xét theo CMXH và xét theo DSM – 4 có thể thấy rằng khung đánh giá về HVND dạng lệch chuẩn xét theo CMXH có phần khắc khe hơn so với DSM – 4. Tiêu chí về động cơ là như nhau nhưng hai khía cạnh nghiên cứu lại khác nhau ở tiêu chí thứ hai là cường độ xuất hiện HVND. Theo đó, quan điểm theo khía cạnh CMXH cho rằng một HVND xuất hiện liên tục trên 2 tháng là có thể đánh giá là lệch chuẩn nhưng 6 tháng liên tục trở lên mới là con số của DSM - 4. Sự khác nhau này kéo theo tỷ lệ HS THCS có HVND dạng lệch chuẩn sẽ có sự chênh lệch nhau trong kết quả nghiên cứu thực trạng HVND của HS một số trường THCS tại Tp.HCM sẽ trình bày tiếp theo. b. Thực trạng HVND của HS một số trường THCS tại Tp.HCM xét theo CMXH về HVND  Thực trạng HVND của HS một số trường THCS tại Tp.HCM xét theo tiêu chí 1 của CMXH Bảng 2.16. Tự đánh giá của HS một số trường THCS tại Tp.HCM về HVND xét theo tiêu chí 1 của CMXH Nội dung Tần số % Tổng % a. Chưa bao giờ nói dối 0 0% b. Đã nói dối ít nhất một lần 383 79.8% c. Nói dối liên tục từ 2 tháng trở lên 25 5.2% 97 20.2% d. Nói dối liên tục từ 4 tháng trở lên 10 2.08% e. Nói dối liên tục từ 6 tháng trở lên 62 12.9% f. Ý kiến khác 0 0% Như đã nói ở trên, để kết luận một HVND có lệch chuẩn hay không cần dựa vào phần “giao” của hai tiêu chí. Hay nói cách khác, để xác định được tỷ lệ HS THCS có HVND dạng lệch chuẩn cần có sự sàng lọc ở từng tiêu chí. Trong tiêu chí một, khi được yêu cầu tự đánh giá về HVND của mình về mặt cường độ xuất hiện thì tất cả 480 HS đều thừa nhận rằng mình đã nói dối (0% lựa chọn chưa bao giờ nói 83 dối), 79.8% HS thừa nhận mình đã nói dối ít nhất một lần. Đây là điều hoàn toàn dễ hiểu bởi lẽ nói dối là đều không thể tránh khỏi trong cuộc sống và thật khó tìm được một thành viên nào của xã hội mà chưa từng nói dối. Tuy nhiên, điều đáng chú ý ở đây là có đến 5.2% HS tự đánh giá là mình đã nói dối liên tục từ 2 tháng trở lên, 2.08% HS cho rằng mình đã nói dối liên tục từ 4 tháng trở lên và 12.9% HS cho rằng mình đã nói dối liên tục từ 6 tháng trở lên. Với tiêu chí 1 đặt ra là HVND xuất hiện liên tục trong vòng 2 tháng trở lên thì được xem là lệch chuẩn thì ở HVND xuất hiện liên tục từ 4 tháng trở lên và 6 tháng trở lên đều được xét là thỏa mãn tiêu chí này. Do đó, tổng cộng có 97 (20,2%) HS thỏa mãn tiêu chí đã đề ra. Kết quả đánh giá con mình và HS của mình ở phụ huynh và giáo viên cũng cho ra kết quả tương tự như sau: Bảng 2.17. Đánh giá của phụ huynh và giáo viên về HVND của HS một số trường THCS tại Tp.HCM xét theo tiêu chí 1 của CMXH Nội dung Phụ huynh Giáo viên Tần số % Tần số % a. Chưa bao giờ nói dối 0 0% 0 0% b. Đã nói dối ít nhất một lần 64 76.2% 91 62.3% c. Nói dối liên tục từ 2 tháng trở lên 5 5.9% 10 6.8% d. Nói dối liên tục từ 4 tháng trở lên 5 5.9% 9 6.2% e. Nói dối liên tục từ 6 tháng trở lên 10 11.9% 11 7.5% f. Ý kiến khác Tổng theo tiêu chí 1 20 23.8% 30 20.5% Từ con số 20.2% do HS tự đánh giá, 23.8% do phụ huynh đánh giá và 20.5% do giáo viên đánh giá có thể nhận thấy rằng tự đánh giá HVND ở HS THCS xét theo tiêu chí 1 của CMXH có tỷ lệ thấp nhất. Điều đó cho thấy rằng HS THCS đánh giá hành vi của mình có biểu hiện thoáng hơn so với giáo viên và nhất là với phụ huynh HS. Tuy nhiên, tỷ lệ chênh lệch nhau không nhiều trong đánh giá cho thấy mức độ tin cậy của cường độ xuất hiện HVND hiện nay. Kiểm nghiệm T- test với 84 Sig = 0.070 ở giáo viên, Sig = 0.719 ở phụ huynh cho thấy không có sự khác biệt giữa nam nữ giáo viên và nam nữ phụ huynh khi đánh giá. Kiểm nghiệm ANOVA cũng cho thấy không có sự khác biệt theo biến trường với Sig = 0.92 ở giáo viên và Sig = 1.23 ở phụ huynh.  Thực trạng HVND của HS một số trường THCS tại Tp.HCM xét theo tiêu chí 2 của CMXH (thực trạng HVND của HS một số trường THCS tại Tp.HCM xét theo sự tổng hợp 2 tiêu chí) Dựa vào CMXH về động cơ dẫn đến HVND đã nghiên cứu ở mục trước, trong câu 9 của bảng hỏi dành cho HS THCS, người nghiên cứu liệt kê ra 3 động cơ không phù hợp và yêu cầu HS tự đánh giá về 3 động cơ này. Kết quả được mô tả ở bảng 2.18. Bảng 2.18. Tự đánh giá của HS một số trường THCS tại Tp.HCM về HVND xét theo tiêu chí 2 của CMXH Nội dung Có Không Tần số % trên toàn mẫu Tần số % trên toàn mẫu Được đồ vật (bánh kẹo, tiền bạc, đồ chơi) 76 15.8% 21 4.3% Được ân huệ (sự tha thứ, ban ơn, cho cơ hội) Tránh nghĩa vụ (làm việc nhà, dọn dẹp vệ sinh, học tập) Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 97 HS THCS đã được sàng lọc ở tiêu chí 1 có 76 (78.4%) HS tự đánh giá là có nói dối xuất phát từ động cơ được đồ vật hay ân huệ, tránh nghĩa vụ và 21.6% cho rằng “không”. Như vậy, tổng hợp cả 2 tiêu chí 1 và 2 thì có 76 HS có HVLC. Nếu quy ra toàn mẫu thì tỷ lệ là 15.8%. Kết quả đánh giá con mình và HS của mình ở phụ huynh và giáo viên cũng cho ra kết quả tương tự như sau: 85 Bảng 2.19. Đánh giá của phụ huynh và giáo viên về HVND của HS một số trường THCS tại Tp.HCM xét theo tiêu chí 2 của CMXH (bảng tổng hợp 2 tiêu chí) Đối tượng Nội dung Có Không Tần số % trên toàn mẫu Tần số % trên toàn mẫu Phụ huynh Được đồ vật (bánh kẹo, tiền bạc, đồ chơi) 13 15.5% 7 8.3% Được ân huệ (sự tha thứ, ban ơn, cho cơ hội) Tránh nghĩa vụ (làm việc nhà, dọn dẹp vệ sinh, học tập) Giáo viên Được đồ vật (bánh kẹo, tiền bạc, đồ chơi) 21 14.4% 9 6.1% Được ân huệ (sự tha thứ, ban ơn, cho cơ hội) Tránh nghĩa vụ (làm việc nhà, dọn dẹp vệ sinh, học tập) Quan sát bảng 2.19 có thể nhận thấy đánh giá của 38 phụ huynh và 55 giáo viên đã được sàng lọc ở tiêu chí 1 về HVND ở HS một số trường THCS tại Tp.HCM xét theo tiêu chí 2 của CMXH có sự tương đồng nhau. Cụ thể phụ huynh cho rằng có 65% HS nói dối xuất phát từ động cơ được đồ vật, ân huệ hay để tránh nghĩa vụ và con số này đạt mức 70% ở giáo viên. Kết quả này cũng xấp xỉ với con số tự đánh giá của HS (78.4%). Kiểm nghiệm T- test với Sig = 0.277 ở giáo viên, Sig = 0.946 ở phụ huynh cho thấy không có sự khác biệt giữa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2015_01_23_9309388469_7745_1872760.pdf
Tài liệu liên quan