Trong mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, ngoài nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Khối lượng và chất lượng của nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng thương mại về phương diện vĩ mô góp phần thực thi hữu hiệu chính sách tiền tệ- tín dụng của Nhà nước, còn về phương diện vi mô, nó tác động đến sự tăng giảm nguồn tài nguyên khả dụng của ngân hàng và sự khai thác của nguồn tài nguyên đó.
104 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2474 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hệ thống Ngân hàng Thương mại quốc doanh ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể hiện ở nợ có vấn đề như ( nợ quá hạn, nợ chờ xử lý của các vụ án, nợ khoanh...) còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ, đặc biệt ở ngân hàng Ngoại thương và ngân hàng Công thương nợ có vấn đề chiếm tỷ trọng trên 14% trong tổng dư nợ. Điều này đã gây thiệt hại nặng nề cho các NHTMQD và làm suy yếu khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.
Tỷ trọng tiền gửi và đầu tư ở nước ngoài, cho vay và gửi trong nội bộ các TCTD trên tổng số tài sản có của các NHTMQD tính đến tháng 12/2000 như sau:
Bảng 4 : Tổng đầu tư của các NHTMQD
TT
Tên đơn vị
Tăng dư nợ bq 1995-2000 (%)
Đầu tư, gửi ra nước ngoài, gửi TCTD khác so với TSC đến 31/12/00 (%)
Kinh doanh khác (chứng khoán, ngoại tê….) so với TSC (%)
1
NHĐT & PT
32,66
16,0
2,44
2
NHNTVN
25,91
9,95
1,69
3
NHNo & PTNT
24,6
16,4
4,7
4
NHCTVN
13,9
62,56
1,5
Nguồn: NHNN VN - Vụ chiến lược phát triển NH- 2001
Như vậy, các NHTMQD vẫn tiếp tục gặp khó khăn trong việc tìm đối tượng cho vay trực tiếp, đặc biệt cho vay bằng ngoại tệ (hơn nữa, do lãi suất trên thị trường tài chính thế giới trong những năm 1998,1999, 2000 tăng cao nên việc huy động ngoại tệ để đầu tư ra thị trường thế giới dường như vừa an toàn lại vừa có hiệu quả, nên một số ngân hàng đã đầu tư ra nước ngoài, đây là một dấu hiệu không tốt vì do nhu cầu phát triển kinh tế chúng ta đang rất cần một lượng vốn lớn, trong khi đó vốn của các ngân hàng lại đầu tư ra nước ngoài. Nhà nước ta phải có một cơ chế chính sách hợp lý để huy động tối đa nguồn lực cho phát triển kinh tế của đất nước.
Tóm lại việc sử dụng vốn của các NHTMQD ở Việt nam đã có những bước tiến đáng kể, dư nợ cho vay nền kinh tế không ngừng tăng lên, hoạt động đa năng của các ngân hàng thương mại quốc doanh đã góp phần chuyển dịch cơ cấu sử dụng vốn có triển vọng như : mở rộng dịch vụ cầm đồ, cho vay tiêu dùng, thanh toán liên hàng điện tử, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, thanh toán thẻ tín dụng, cho vay đồng tài trợ, cho vay trả góp, cho thuê tài chính, góp vốn liên doanh, mua cổ phần.. Cơ cấu tín dụng cũng được thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn, với lợi thế là các NHTM Nhà nước chủ lực, các NHTMQD đã tập trung vốn vào các dự án lớn, các ngành kinh tế mũi nhọn, các Tổng công ty 90, 91.. để phát triển kinh tế. Tuy nhiên các NHTMQD vẫn còn có những hạn chế về việc sử dụng vốn như hình thức sử dụng vốn còn nghèo nàn, chưa phong phú. Đối tượng, thời hạn và phạm vi sử dụng vốn rất hạn hẹp, đối tượng khách hàng chủ yếu của các NHTMQD vẫn là các Doanh nghiệp quốc doanh ( chiếm từ 70-80% tổng dư nợ). Tốc độ chu chuyển vốn tín dụng chậm, chất lượng tín dụng thấp, độ an toàn chưa cao. Mặt khác sự điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất huy động vốn của Nhà nước chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế, gây ứ đọng vốn cho các tổ chức tín dụng. Các Ngân hàng thường xuyên dùng chính sách lãi suất ưu đãi để tranh giành khách của nhau, nhiều khi còn chạy đua theo số lượng tín dụng nên đã thực hiện cho vay mà không xét đến lãi suất đầu vào. Thị trường mở chưa phát triển, tổ chức đấu thầu kho bạc Nhà nước rời rạc, khối lượng phát hành ít, lãi suất thấp do đó chưa hỗ trợ được nhiều cho các tổ chức tín dụng nói chung và các NHTMQD nói riêng tìm đầu ra hợp lý.
2.2.2 Hoạt động thanh toán
Trong mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, ngoài nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Khối lượng và chất lượng của nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng thương mại về phương diện vĩ mô góp phần thực thi hữu hiệu chính sách tiền tệ- tín dụng của Nhà nước, còn về phương diện vi mô, nó tác động đến sự tăng giảm nguồn tài nguyên khả dụng của ngân hàng và sự khai thác của nguồn tài nguyên đó.
Khi khách hàng thiết lập mối quan hệ với ngân hàng qua việc ký gửi tiền của mình, tức là đã đưa cho ngân hàng một loại hàng hoá đặc biệt để được cung cấp- ngoài một số tiền lãi theo lãi suất quy định nếu có - một loạt các dịch vụ nhằm :
- Đảm bảo an toàn việc cất giữ và chi, thu nhanh chóng, thuận lợi, tức là ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ : giữ gìn tiền cho khách hàng, cung cấp séc cho khách hàng sử dụng thay vì dùng tiền mặt trong chi trả, chuyển tiền đi đến các địa phương khác, trung gian bảo đảm cho các bên liên hệ mọi nghiệp vụ thanh toán, hạn chế mức thấp nhất các yếu tố bất trắc trong giao dịch kinh doanh.
- Ngân hàng giúp cho kế toán ngân quỹ của khách hàng được dễ dàng tức là trong mọi nghiệp vụ về mặt kế toán như chi trả, chuyển tiền.. ngân hàng phải tổ chức như thế nào để có được các tiện ích như : Thời gian nhanh chóng, không làm ứ đọng tiền của khách, thực hiên các nghiệp vụ có giá trị to lớn mà bản thân khách hàng nếu tự đứng ra thực hiện sẽ rất tốn kém và khó khăn .
- Ngân hàng làm luân lưu tiền tệ trong không gian và thời gian để sinh lời, là nơi tập trung tiền thu góp và phân phát tiền vay mượn và trở thành một “chợ tiền”, ai muốn đến góp tiền hay rút tiền đều thuận tiện. Do đó, lượng tiền bất động, “tiền chết” trở thành sống động hơn, di chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ khách hàng này sang khách hàng khác để phục vụ sản xuất kinh doanh
Để nhằm thực hiện tốt hoạt động thanh toán cho khách hàng các NHTM thường sử dụng các phương tiện thanh toán sau: Séc, thư tín dụng, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ thanh toán..
Mỗi phương tiện thanh toán đều có công dụng riêng của nó, thích hợp cho từng đối tượng và loại hình giao dịch thanh toán đa dạng và phong phú của các chủ thể kinh tế và dân cư. Đưa ra một “ thực đơn” công cụ thanh toán phong phú và hợp “ khẩu vị” cho công chúng vừa là nhiệm vụ, vừa là mục đích kinh doanh và trọng điểm cạnh tranh của các ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa kinh tế rất lớn thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất: Thanh toán không dùng tiền mặt thúc đẩy nhanh sự vận động của vật tư, tiền vốn trong nền kinh tế quốc dân, dẫn đến giảm thấp chi phí sản xuất và lưu thông, tăng tích luỹ cho quá trình tái sản xuất.
Thứ hai : Trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, thanh toán không dùng tiền mặt góp phần giảm thấp tỷ trọng tiền mặt trong lưu thông, do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông cho xã hội. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt còn tạo ra sự chuyển hoá thông suốt giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản. Cả hai khía cạnh đó đều tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá và điều hoà lưu thông tiền tệ.
Thứ ba : Đối với lĩnh vực tín dụng thanh toán không dùng tiền mặt tạo khả năng tập trung nguồn vốn tín dụng vào hệ thống ngân hàng để đầu tư cho phát triển kinh tế.
Thứ tư : Thanh toán không dùng tiền mặt tạo những tiền đề kinh tế thuận lợi để ngân hàng kiểm soát các hoạt động kinh tế của các tác nhân kinh tế với mục đích củng cố kỷ luật thanh toán, đảm bảo nguyên tắc thu chi tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Cho đến nay, việc sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư của Việt nam vẫn chưa phát triển và phổ cập rộng rãi.
Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu của các NHTMQD là các loại séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, ngân phiếu thanh toán. Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt của các NHTMQD qua các năm như sau: năm 1998 đạt 9 nghìn 200 tỷ đồng, năm 1999 đạt 11 nghìn 369 tỷ đồng, năm 2000 đạt 12 nghìn 650 tỷ đồng và năm 2001 đạt 14 nghìn 956 tỷ đồng tăng 18% so với năm 2000.
Ngoài việc sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt nói trên, còn có một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được lưu hành trên toàn thế giới và rất phổ biến ở các nước phát triển ngay từ những năm 70, đó là thẻ thanh toán. Thẻ thanh toán ra đời, phát triển không phải nhằm mục đích phục vụ cho các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, mà chính là phục vụ cho nhu cầu cá nhân khách hàng một cách chủ động và nhằm sử dụng các khoản tín dụng tiêu dùng. Thẻ thanh toán du nhập vào Việt nam tương đối muộn và cho đến nay nó vẫn là một dịch vụ thanh toán tương đối mới, ít người biết đến. Tại Việt nam, thẻ thanh toán quốc tế được du nhập vào năm 1990 và lúc đó ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã tiên phong tiến hành triển khai nghiệp vụ thanh toán thẻ thanh toán quốc tế. Đến nay đã có 14 ngân hàng tại Việt nam triển khai dịch vụ này vì kinh doanh thẻ là một lĩnh vực đem lại nhiều lợi nhuận. Sự đa dạng về thành phần sở hữu, cơ cấu tổ chức của các ngân hàng đã làm cho thị trường thẻ trở nên sôi động, cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt trên cả hai lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ. Tuy vậy, theo đánh giá của các Tổ chức thẻ Quốc tế và các chuyên gia ngân hàng tài chính trong nước, thị trường thẻ Việt nam đang còn quá rộng lớn và đầy tiềm năng cho các ngân hàng tiếp tục đầu tư và phát triển. Doanh thu thanh toán về thẻ của các NHTM ở Việt nam qua các năm như sau: Năm 1998 đạt127 triệu USD, năm 1999 đạt 158 triệu USD, năm 2000 đạt 171 triệu USD, năm 2001 đạt 182 triệu USD. Trong các ngân hàng tham gia về lĩnh vực thanh toán thẻ tín dụng quốc tế ở Việt nam hiện nay ngân hàng Ngoại thương là NHTMQD đầu tiên và cũng là ngân hàng duy nhất chấp nhận 5 loại thẻ tín dụng quốc tế tại Việt nam, có doanh thu về thẻ cao nhất đạt 86 triệu USD năm 2001 chiếm 47.5% thị phần thanh toán thẻ. Các NHTMQD khác mới chỉ bắt đầu triển khai dịch vụ này nên doanh thu còn ở mức khiêm tốn.
Từ năm 2000 trở về trước trên thị trường Việt nam chỉ có 2 chi nhánh ngân hàng nước ngoài có triển khai hệ thống giao dịch tự động ở quy mô nhỏ là ANZ bank, HSBC bank. Đến năm 2001, các NHTMQD bắt đầu tham gia thị trường giao dịch tự phục vụ ( self service), đây là dịch vụ áp dụng công nghệ tiến tiến trên thế giới, thanh toán không dùng tiền mặt. Hiện nay có 7 ngân hàng có đặt máy ATM trên cả nước với tổng số 90 máy ATM và 40 nghìn thẻ ATM. Doanh số sử dụng thẻ qua hệ thống các máy ATM của các NHTMQD tính đến 9/2002 là 1 nghìn 389 tỷ đồng. Con số này tuy không lớn nhưng điều này cũng nói lên rằng mặc dù mới đi vào hoạt động nhưng thẻ thanh toán đã được sự chấp nhận và hưởng ứng của khách hàng Việt nam trước việc áp dụng công nghệ hiện đại trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt.
Trên cơ sở các phương tiện thanh toán được ngân hàng cung cấp, ngân hàng tổ chức các dịch vụ thanh toán như : thanh toán chuyển tiền trong nước và quốc tế, thanh toán séc du lịch, thanh toán nhờ thu, thanh toán tín dụng chứng từ, chi trả kiều hối...
Tổng doanh số chuyển tiền thực hiện qua các NHTMQD trong năm gần đây như sau : năm 1998 đạt 7.98 tỷ USD, năm 1999 đạt 8.32 tỷ USD năm 2000 đạt 9.3 tỷ USD và năm 2001 đạt 10.59 tỷ USD. Trong đó Ngân hàng Ngoại thương là ngân hàng chiếm vị trí hàng đầu trong việc chuyển tiền. Được như vậy là do nghiệp vụ chuyển tiền qua mạng SWIFT của ngân hàng Ngoại thương có độ chính xác, an toàn cao, mức phí hấp dẫn là một trong những nhân tố quan trọng để các khách hàng tín nhiệm và thực hiện các giao dịch chuyển tiền qua ngân hàng Ngoại thương. Đặc biệt từ tháng 4/1995 dịch vụ chuyển tiền MoneyGram được đưa vào hoạt động, doanh số chuyển tiền qua dịch vụ này ngày một tăng do giao dịch được thực hiện nhanh, thuận tiện, chủ yếu phục vụ cho chuyển tiền kiều hối.
Phần lớn các NHTM Việt nam đều quá non trẻ, với tuổi trưởng thành khoảng hơn 10 năm so với tuổi hàng trăm năm của các ngân hàng nước ngoài. Mặt khác, trước năm 1990 hầu hết toàn bộ giao dịch thanh toán quốc tế của Việt nam được độc quyền thực hiện qua ngân hàng Ngoại thương. Do đó so với các ngân hàng nước ngoài, các NHTM Việt nam còn kém nhiều về kinh nghiệm cũng như kiến thức trong thanh toán quốc tế. Cũng như các doanh nghiệp Việt nam, các NHTM Việt nam đang phải đối phó với những thách thức to lớn của tiến trình toàn cầu hoá và một thực tế là xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế. Cạnh tranh giữa các NHTM Việt nam với hệ thống các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh tại Việt nam ngày càng gay gắt. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế mang tính hệ thống còn thiếu, thậm chí là chưa có, các NHTM tự tạo cho mình một quy trình riêng dựa trên cơ sở duy nhất là thông lệ quốc tế -UCP500. Các quy trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế của mỗi ngân hàng thương mại có sự khác nhau tuỳ theo trình độ và đặc điểm của mỗi ngân hàng. Việc thiếu các văn bản pháp quy mang tính quốc gia, hoặc văn bản không rõ ràng đã là một trong những nguyên nhân gây nên những vụ tranh chấp kiện tụng về kinh tế ( phát sinh từ nghiệp vụ thanh toán quốc tế ) dây dưa kéo dài nhiều năm, toà án gặp khó khăn khi phán xử hoặc phán xử thiếu chính xác, thiếu cơ sở pháp lý.
Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của các NHTMQD đều tăng qua các năm. Năm 1999 đạt 25 nghìn 723 triệu USD, năm 2000 đạt 28 nghìn 625 triệu USD, năm 2001 đạt 30 nghìn 201 triệu USD. Thị phần thanh toán quốc tế của các NHTMQD vẫn chiếm vị trí chủ yếu trên 70%. Tuy nhiên nhìn biểu dưới đây ta thấy thị phần của 4 NHTMQD đã ngày càng giảm đi. Điều này cho thấy rằng nếu những nhà quản lý tiền tệ ở Việt nam không xây dựng được những lộ trình và chiến lược kiểm soát hợp lý thì các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ dần dần chiếm lĩnh các vị trí then chốt trong thị trường tài chính ở nước ta.[34];[35];[36];[37];[39];[40]
Nguồn NHNN/2001
2.2.3 Hoạt động khác của NHTM
2.2.3.1 Dịch vụ uỷ thác
Việc sở hữu tài sản dẫn đến nhu cầu về các dịch vụ quản lý tài sản. Việc quản lý tài sản cho người khác được thực hiện dưới nhiều hình thức và cách sắp xếp khác nhau, đó là nghiệp vụ uỷ thác. Dịch vụ uỷ thác được các ngân hàng quan tâm phát triển vào cuối những năm 40 dầu những năm 50 cuả thế kỷ 20. Việc cung cấp dịch vụ uỷ thác làm nảy sinh mối quan hệ uỷ thác nghĩa là một bên hoạt động cho lợi ích của bên kia trong phạm vi mối quan hệ của họ, bao gồm việc nắm giữ tài sản được điều hành bởi người được uỷ thác vì lợi ích của một bên hoặc các bên thứ ba. Dịch vụ của phòng uỷ thác có thể được chia thành ba lĩnh vực chính: việc ấn định tài sản, việc điều hành các dịch vụ uỷ thác, giám sát tài sản và hoạt động của các cơ quan đại diện.
Có thể chia nghiệp vụ uỷ thác làm hai loại : Nghiệp vụ uỷ thác đối với cá nhân (thể nhân) và nghiệp vụ uỷ thác đối với các doanh nghiệp (pháp nhân).
A. Các dịch vụ uỷ thác thực hiện đối với cá nhân
* Quản lý tài sản theo chúc thư :
Thường một số người khi chết có để lại một chúc thư nói lên ý muốn của họ liên quan tới việc phân chia tài sản, trong đó họ chỉ định người thực hiện di chúc thường là phòng uỷ thác của ngân hàng .
Bổn phận cơ bản của một người quản lý tài sản hay thực hiện di chúc là bảo vệ các tích sản, chi trả các chi phí điều hành và các khoản nợ, trả thuế, phân phát tài sản và cung cấp các dịch vụ cá nhân cho các thành viên trong gia đình. Nhiều trường hợp bộ phận uỷ thác còn phải thực hiện chức năng của người quản lý tài sản.
* Quản lý theo hợp đồng ký kết
Người ta có thể giao cho người uỷ thác quản lý một số tài sản nhất định bằng một chúc thư hay một hợp đồng uỷ thác khi họ đang sống. Người được uỷ quyền được yêu cầu phải nắm giữ đầu tư, sử dụng lợi tức và vốn gốc phù hợp với các điều khoản đã quy định trong hợp đồng. Trường hợp này hợp đồng uỷ thác nhằm giúp người hưởng thụ bớt đi gánh nặng về trách nhiệm chăm lo tài sản mà vẫn được hưởng lợi tức của tài sản. Người hưởng thụ ở đây có thể bao gồm những người hoang phí không thể quản lý tài sản , trẻ em hoặc những người không có năng lực thực hiện việc quản lý tài sản.
* Giám hộ và bảo quản tài sản cá nhân
Sự giám hộ và bảo quản thường được thiết lập bởi một phiên toà. Toà án chỉ định người giám hộ và bảo quản tài sản cho những người thừa kế tài sản nhưng đang ở tuổi vị thành niên hoặc những người thiếu năng lực pháp lý với mục đích ngăn ngừa lãng phí tài sản, tiền bạc.
B. Dịch vụ uỷ thác đối với doanh nghiệp
Dịch vụ uỷ thác đối với doanh nghiệp nhằm phục vụ cho các mục đích trợ cấp hưu trí, phân chia lợi nhuận, chia tiền thưởng cổ phần cho phát hành trái phiếu, cho mua lại các quỹ và trả lại các quỹ để thanh toán cho việc phát hành trái phiếu uỷ thác thế chấp hoặc các giấy chứng nhận. Nhiều hoạt động uỷ thác liên quan đến việc phát hành chứng khoán như chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu, chi trả lãi cổ phần cho các cổ đông của công ty, chuyển nhượng trái phiếu, chi trả lãi và vốn gốc bảo quản sổ sách.
Thực hiện dịch vụ quản lý quỹ hưu trí của các hãng tư nhân ngân hàng phải tiến hành thu tiền, kiểm soát tính toán đầu tư vào chứng khoán. Thông thường ngân hàng đầu tư khoảng 60% vốn của quỹ hưu trí vào cổ phiếu hoặc trái phiếu của công ty tư nhân, phần còn lại đầu tư vào tín phiếu của Chính phủ. Đầu tư vào trái phiếu Chính phủ tuy lãi suất thấp hơn nhưng khả năng chuyển đổi thành tiền mặt nhanh hơn.
Thực hiện dịch vụ uỷ thác mang lại cho ngân hàng một số lợi thế như bổ sung cho ngân hàng một nguồn thu nhập khá lớn từ khoản thu lệ phí và hoa hồng uỷ thác hàng năm. Ở các nước phát triển khoản thu nhập này xấp xỉ 10% thu nhập của ngân hàng. Mặt khác, tuy không phải bỏ đồng vốn nào nhưng ngân hàng vẫn có thể thực hiện được việc kiểm tra ở mức khác nhau đối với công ty và vốn của công ty. Thông qua hoạt động uỷ thác giúp ngân hàng củng cố và duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng. Ngoài ra, nhờ có hoạt động này nhiều ngân hàng đã vượt qua được những hạn chế trong lĩnh vực đầu tư vốn. Bởi vậy, các nhà quản lý ngân hàng thương mại Mỹ đánh giá rất cao ý nghĩa của nghiệp vụ uỷ thác và họ coi đây là chìa khoá mở ra các hướng hoạt động mới của ngân hàng thương mại trong tương lai.
Ở Việt nam dịch vụ uỷ thác chưa được phát triển và chú trọng, các NHTMQD mới chỉ bắt đầu chú ý đến loại hình dịch vụ mới này trong mấy năm gần đây, nhưng vẫn chỉ mang tính chất tham khảo, chưa được đầu tư và nghiên cứu kỹ lưỡng, điều này cũng nói lên phần nào về sự nghèo nàn về nghiệp vụ ngân hàng ở Việt nam.
2.2.3.2 Dịch vụ tư vấn
Nhờ khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học, đặc biệt là hệ thống thông tin rộng lớn, nhanh chóng, chính xác, bí mật đã tạo điều kiện giúp các ngân hàng phát triển nhanh chóng dịch vụ tư vấn .
Hoạt động tư vấn là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng của họ những lời khuyên tốt nhất, những hiểu biết sâu sắc nhất về những lĩnh vực mà khách hàng yêu cầu. Nhờ những lời khuyên có chất lượng của ngân hàng mà khách hàng có được những thông tin đáng tin cậy chính xác dựa vào đó họ có cơ sở để dự đoán được những diễn biến của tình hình kinh tế xã hội ... Kết cục họ có thể xây dựng được những phương án sản xuất kinh doanh tối ưu, hoặc có những quyết định kịp thời trong đầu tư hoặc trong sản xuất kinh doanh, từ đó họ có thể giảm tối thiểu được rủi ro hay thiệt hại và đạt được mức lợi nhuận tối đa.
Các ngân hàng lớn trên thế giới đã có nhiều thành công về nghiệp vụ tư vấn đặc biệt là cung cấp tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy phải đương đầu với nhiều hãng tư nhân nhưng thường thì ngân hàng thắng thế. Bởi vì, một trong các mối quan tâm của người đầu tư nước ngoài là thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Thông qua hoạt động tư vấn khách hàng còn muốn tìm hiểu xem ngân hàng sẽ phục vụ mình và các đối thủ khác trên thương trường như thế nào. Mặt khác, đặc điểm kinh doanh riêng có của hệ thống ngân hàng đã tạo cho nó những lợi thế hơn hẳn bất cứ ngành nào, doanh nghiệp nào ở các lĩnh vực khác về khối lượng thông tin, chất lượng thông tin mà nó có được.
Do vậy, thật là sai lầm nếu một ngân hàng nào đó lại bỏ qua hay xem nhẹ các hoạt động tư vấn, một dịch vụ ngân hàng chi phí ít nhất mà thu nhập không nhỏ. Thu nhập của ngân hàng trong dịch vụ tư vấn không chỉ đơn thuần là thu lệ phí phục vụ do khách hàng thanh toán mà qua nghiệp vụ này các ngân hàng còn mở rộng khách hàng, củng cố và tăng cường vị trí và uy tín của mình một cách nhanh chóng.
Tất nhiên để tăng được lòng tin của khách hàng đối với mình, ngoài tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, áp dụng các thành tựu khoa học tin học hiện đại, ngân hàng còn phải không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ tư vấn. đảm bảo luôn luôn cung cấp cho khách hàng những lời khuyên chính xác nhất, tin cậy nhất với tinh thần phục vụ tận tình chu đáo nhất.
Ở nước ta dịch vụ tư vấn của các ngân hàng còn rất mới mẻ, và chưa được phát triển rộng rãi, các ngân hàng chưa thấy được tầm quan trọng của lĩnh vực này, nên kết quả còn rất khiêm tốn. Tuy nhiên trong tương lai không xa dịch vụ này sẽ mang lại nguồn lợi nhuận đáng kể cho các ngân hàng thương mại ở Việt nam nếu chúng ta có sự đầu tư và quan tâm thích đáng cho lĩnh vực này.
2.2.3.3 Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
Một nền kinh tế thị trường muốn phát triển được phải có sự hỗ trợ đắc lực của các thị trường vốn. Không chỉ phát triển thị trường vốn ngắn hạn mà cần phải phát triển mạnh mẽ cả thị trường trung và dài hạn. Mỗi thị trường có vị trí cũng như vai trò khác nhau đối với sự phát triển nền kinh tế mỗi nước. Xu hướng hiện nay là có sự hoà nhập giữa hai thị trường vốn trên thực tế. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là sự cần thiết cho mạch máu của nền kinh tế được lưu thông suốt, không ách tắc gián đoạn, không bị chia cắt.
Cũng giống như các công ty khác, ngân hàng có quyền phát hành cổ phiếu, để bổ sung nguồn vốn pháp định hoặc trái phiếu để tăng nguồn vốn kinh doanh. Bằng phương pháp này ngân hàng có thể thu hút những nguồn vốn khá lớn và ổn định, lâu dài với chi phí huy động thấp. Còn hiệu quả sử dụng vốn này tuỳ thuộc vào quá trình hoạt động kinh doanh hay quá trình sử dụng vốn của ngân hàng sau này.
Ở nước ta các NHTMQD đã thành lập công ty kinh doanh chứng khoán, mặc dù giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán của các NHTMQD ở Việt nam còn khiêm tốn, nếu không muốn nói là quá nhỏ bé, chỉ vào khoảng 228 tỷ đồng tính đến 30/06/2002. Tuy nhiên nó vẫn khẳng định hướng đi đúng đắn của các ngân hàng thương mại Việt nam trong xu thế phát triển mới.
2.3 ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTMQD
2.3.1 Những kết quả đã đạt được
Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống Ngân hàng thương mại Quốc doanh ở Việt nam đã không ngừng lớn mạnh và góp phần quan trọng vào những thành quả chung của công cuộc đổi mới của đất nước, đó là:
1- Với vai trò là lực lượng nòng cốt trong hệ thống các TCTD Việt nam, trong suốt thời kỳ đổi mới hơn 10 năm qua các NHTMQD đã thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy không thể thiếu của các thành phần kinh tế, có những đóng góp lớn lao trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện với tốc độ khá cao và ổn định.
2- Góp phần tăng trưởng kinh tế và đóng góp đáng kể vào thành công của sự nghiệp đổi mới kinh tế.
3- Huy động được một khối lượng vốn đáng kể trong và ngoài nước, thúc đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế, coi trọng đầu tư tín dụng ưu đãi để phục vụ xoá đói giảm nghèo và thực hiện một số chính sách xã hội.
2.3.2 Hiệu quả hoạt động của các NHTMQD
Nhằm giảm thiểu chi phí, khi đánh giá chất lượng hoạt động của ngân hàng và kết quả thực hiện các quy định pháp lý, các Ngân hàng Trung ương thường thông qua một hệ thống chỉ tiêu tài chính nhất định. Hệ thống chỉ tiêu này cho phép đưa ra những kết luận nhanh chóng và chính xác về tình hình tài chính của NHTM, cụ thể là mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động ngân hàng. Quá trình đánh giá này thường được bắt đầu bằng việc xem xét mục tiêu lựa chọn và kết quả thực hiện mục tiêu đó. Về cơ bản, mỗi ngân hàng có mục đích riêng, một số ngân hàng coi trọng mục tiêu phát triển dài hạn, số khác ưu tiên giảm thiểu rủi ro và tăng cường sức mạnh của ngân hàng. Nhìn chung, các ngân hàng có thiên hướng quan tâm đến giá trị của tài sản-mục tiêu cơ bản của ngân hàng, mục tiêu này được đặt lên trên tất cả các mục tiêu khác. Nếu tài sản không tăng tới giá trị như các cổ đông kỳ vọng thì các nhà đầu tư có thể rút vốn cổ phần và ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc tăng vốn để hỗ trợ tăng trưởng.
Như vậy, hệ thống chỉ tiêu tổng hợp nhất là các chỉ tiêu tài chính đánh giá hiệu quả kinh doanh và tính an toàn trong hoạt động của các NHTM, bao gồm các chỉ tiêu sau :
2.3.2.1 Khả năng thanh khoản
Khả năng thanh toán của các NHTM được đặc trưng bởi 2 chỉ tiêu :
1. Khả năng thanh toán tức thì (quick liquydity ratio-QL)
QL = Tiền mặt tại quỹ/Tổng tài sản nợ ngắn hạn
2. Khả năng thanh toán hiện hành (current liquydity ratio-CRL)
CRL = Tổng tài sản có ngắn hạn/ Tổng tài sản nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán hiện hành và khả năng thanh toán tức thì của các NHTMQD từ năm 1998-2000 được thể hiện qua bảng tính sau:
Bảng 5 : Khả năng thanh khoản của các NHTMQD
1998-2000
Tên ngân hàng
Tỷ lệ thanh toán tức thì
Tỷ lệ thanh toán hiện hành
1999
2000
1999
2000
NHCT
0.04
0.01
0.7
0.76
NHN0
0.05
0.03
0.98
1
NHĐT&PT
0.02
0.006
0.61
0.6
NHNT
0.01
0.006
0.36
0.44
Nguồn NHNN/2001
Năm 1999-2000 là thời điểm Chính phủ cùng với NHNN trực tiếp can thiệp vào việc xử lý các khoản nợ không hiệu quả tại các NHTM nhằm đảm bảo an toàn hệ thống, giải quyết dứt điểm các khoản nợ khó đòi kéo dài hàng nhiều năm, không có cơ hội thu hồi nhằm hạn chế rủi ro thanh toán cho các NHTMQD. Những biện pháp can thiệp nhất định đã phần nào làm thay đổi diện mạo khả năng thanh toán của các ngân hàng, song nhìn chung kết quả đạt được vẫn không được như mong muốn. Nhìn vào bảng số liệu tính toán trên chúng ta có thể thấy rằng Khả năng thanh toán tức thời của các ngân hàng còn quá thấp, không đủ để đáp ứng 10% tổng d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hệ thống Ngân hàng Thương mại quốc doanh ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.DOC