MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Phần I. tổng quan về hiệp định thương mại Việt Mỹ 3
I. Bối cảnh đi đến ký kết hiệp định thương mại Việt Mỹ 3
II. Sơ lược về hiệp định Thương mại Việt Mỹ 6
Phần II. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi thực hiện hiệp định thương mại Việt Mỹ. 12
I. Tình hình buôn bán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong những năm vừa qua (sau 5 năm). 12
II. Những cơ hội 20
III. Những thách thức 28
Phần III. Biện pháp phát triển Thương mại Việt Mỹ. 35
I. Những biện pháp đối với chính phủ, bộ ngành có liên quan 35
II. Nhóm biện pháp đối với doanh nghiệp Việt Nam 45
Kết luận 54
Tài liệu tham khảo
56 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3237 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hiệp định thương mại Việt Mỹ- Cơ hội và thách thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có cơ hội thâm nhậm thị trường rộng lớn này ví dụ như thiết bị vệ sinh (thuế suất phi MFN là 70% nhưng thuế suất MFN là 3%). Hay những mặt hàng điện tử đồ chơi… và như vậy cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ có sự thay đổi một cách mạnh mẽ.
II.2 Tăng tính cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam:
Việc kí kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Mỹ được tự do cạnh tranh trên cả thị trường Mỹ và thị trường Việt Nam.
Trên thị trường Mỹ: Đây là một thị trường rộng lớn được coi là thị trường tự do cạnh tranh nhất, trên thị trường có đầy đủ các mặt hàng với đầy đủ mẫu mã, chủng loại, chất lượng, xuất sứ từ nhiều nước khác nhau. Bất cứ sản phẩm của nước nào có mặt trên thị trường Mỹ cũng chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng hoá nước khác, Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, tức là hàng hoá của Việt Nam cũng chịu cạnh tranh của hàng hoà khác có mặt trên thị trường Mỹ. Do vậy để có thể tồn tại trên thị trường này hàng hoá Việt Nam phải nâng cao chất lượng chủng loại mẫu mã mới tiến hành nhiều chính sách cạnh tranh trong đó có chính sách giảm giá. Hưởng quy chế tối huệ quôc
của Mỹ giúp cho hàng hoá Việt Nam có cơ hôị giảm giá do đó sẽ làm cho hàng hoá Việt Nam trở lên rẻ hơn so với hàng hoá khác, đây là công cụ cạnh tranh tương đối hữu hiệu.
Trên thị trường Việt Nam : Hàng hoá Mỹ cũng được hưởng quy chế tối huệ quốc của Việt Nam song hiệp định thương mại Việt - Mỹ có tính đến việc Việt Nam là nước đang phát triển do đó phía Mỹ thực hiện ngay hiệp định còn phía Việt Nam sẽ thực hiện hiệp định có lộ trình trong vòng từ 3 đến 9 năm do đó các doanh nghiệp Việt Nam hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trên thị trường Việt Nam có cơ hội thời gian để nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ chủng loại hạ giá thành trên cơ sở đó giảm giá hàng hoá bán ra. Đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình hạ giá thành để nâng cao cạnh tranh của hàng Việt Nam khi mà hàng Mỹ vào Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan của Việt Nam .
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường Mỹ và thị trường Việt Nam đây là lợi thế rất lớn khí Việt Nam tham ra vào thị trường quốc tế.
II.3 Tăng hoạt động đầu tư từ Mỹ vào Việt Nam:
Do có tiềm lực lớn về tài chính mà nhiều năm qua Mỹ thường xuyên đứng đầu các nước trên thế giới về đầu tư trực tiếp vào Việt Nam (FDI) từ năm 1988 một số doanh nghiệp Mỹ đã tìm hiểu cơ hội đầu tư vào Việt Nam và đặc biệt sau lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam , đã có nhiều công ty và tập đoàn kinh tế Mỹ đến Việt Nam số lượng dự án đầu tư cùng với số lượng vốn đâù tư đều tăng như cụ thể năm 1993 có 6 dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam với trị giá vốn 3,3 triệu USD cuối năm 1994 đã tăng lên 270 triệu USD với 28 dự án. Trong vòng 2 năm 1995 – 1996 Mỹ đầu tư vào Việt Nam trên 1 tỷ USD với 64 dự án. Như vậy trong vòng 19 tháng Mỹ đã trở thành 1 trong 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam năm 1997 Việt Nam đã có 26 dự án đầu tư của Mỹ với 277 triệu USD đứng thứ 8 trong số 10 nước và khu vực lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam đến cuối năm này Mỹ lại có 58 dự án với số vốn đầu tư xấp xỉ 1 tỷ USD đứng thứ 10 trong số 58 nước đầu tư vào Việt Nam
Trong thời gian này chính phủ Mỹ chưa cung cấp cho các công ty Mỹ tại Việt Nam những định chế bảo hiểm. Công ty đầu tư tư nhân hải ngọai (OPIC) và nguồn đầu tư từ ngân hàng xuất nhập khẩu (EXIM bank) của mỹ, do đó các nhà đầu tư Mỹ chưa an tâm đầu tư, các nhà đầu tư Mỹ gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các nước khác thực tế các doanh nghiệp Mỹ muốn chính phủ Mỹ huỷ bỏ việc áp dụng điều luật bổ xung Jackson-vanik tạo điều kiện cho OPIC và EXIM bank có điều kiện hoạt động thuận lợi ở Việt Nam .
Khi kí kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ , Mỹ đã đồng ý xoá bỏ từ chính án Jackson-vanik và hàng năm quốc hội Mỹ sẽ tiến hành xem xét việc ra ân huệ xoá bỏ từ chính án này. Việc xoá bỏ này đối với Việt Nam là bước đầu cho việc thực hiện các chương trình bảo hiểm đầu tư tạo thế thuận lợi cho cả hai bên Việt – Mỹ đồng thời tăng liềm tin đối với các công ty mỹ vốn quan tâm đến việc hợp tác đầu tư vào Việt Nam. Theo thống kê đến tháng 6/2001 Mỹ đứng thứ 13 trong số 58 quốc gia và vùng lãnh thổ hiện đầu tư vào Việt Nam với 118 dự án còn hiệu lực giá trị 935 triệu USD .
Với lỗ lực tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn của chính phủ Việt Nam và khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được thực hiện thì khả năng nguồn FDI của Mỹ vào Việt Nam sẽ được ra tăng
II.4 Tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp:
Việt Nam là nước đông dân với hơn 8 triệu người, và lại là nước dân số trẻ do đó người trong độ tuổi lao động chiếm một tỷ lệ lớn, lực lương lao động rất dồi dào, hàng năm Việt Nam đã có thêm 1,2 triệu công nhân đi vào thi trường việc làm. Theo số liệu thống kê của chính phủ, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam hiện nay là 7,4%. Đây là sức ép rất lớn đối với chính phủ, yêu cầu chính phủ phải giải quyết nếu không sẽ gây ra mất trật tự xã hội, tệ nạn kéo theo nó như ma tuý, mại dâm trộm cắp đói nghèo…
Việc mở rông khả năng xuất khẩu của Việt Nam xang Mỹ sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô sản xuất trong nước. Cùng với lượng đầu tư của các nhà đầu tư Mỹ vào Việt Nam ngày càng tăng đã góp phần tạo việc làm cho hàng chục nghìn người lao đông Việt Nam điều này giúp chính phủ giải quyết vấn đề thất nghiệp đồng thời giúp người lao động có thêm thu nhập để nâng cao mức sống.
II.5 Việt Nam có cơ hội tiếp xúc với nền kỹ thuật tiên tiến hiện đại:
Đây là lợi ích căn bản và lâu dài đối với Việt Nam để tiếp cận với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm, phương thức quản lý các nguồn vốn…bởi vì Việt Nam là một nước có nền kinh tế kém phất triển chu yếu là lao động thủ công có hệ thống máy móc kỹ thuật cũ kĩ. theo số liệu điều tra, nhưng loại máy móc cũ kĩ từ những năm 50 – 60 chiếm tới hơn một nửa số còn lại là những máy móc thuộc thế hệ thứ nhất. Điều này làm cho năng suất lao động không cao , sản phẩm kém tính cạnh tranh. Mặt khác Mỹ là một nước có nền kinh tế phát triển, là nước tiên phong cho vấn đề nghiên cứu khoa học kỹ thuật ,phát minh ra nhưng công nghệ mới, máy móc mới cho năng suất cao chất lượng sản phẩm tốt. Việc suất khẩu máy móc thiết bị khoa học công nghệ hiện đại là thế mạnh của Mỹ. Bên cạnh đó, các doang nghiệp mỹ làm ăn rất hiệu quả có kinh nghiệm quản lý vốn tài chính , nhân công …điều này thể hiện rất rõ trong cơ cấu đòu tư của Mỹ vào Việt Nam. Mỹ đầu tư chủ yếu vào nghành công nghiệp ,đầu tư vào nghành này chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng dự án và vốn đầu tư tiếp theo đó là nghành tin học điện tử, dịch vụ tài chính, bưu chính…điều đó có nghĩa là,Mỹ sẽ tiến hành chuyển các công nghệ thiết bị dây truyền sản xuất hiện đại cùng với kinh nghiệm quản lý của họ vào Việt Nam. song song với nó khi hiệp định có hiệu lức với thuế xuất thấp hơn Việt Nam có thể nhập khẩu công nghệ nguồn từ Mỹ để nâng cao khả năng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động , tiếp cận với kỹ thuật kinh nghiệm quản lý vốn nhân công giảm chi phí đồng thời nâng cao trình độ lao động. Đó là hành trang cần thiết cho việc tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế trong thiên niên kỷ mới,
II.6 Tạo điều kiện đổi mới chính sách hệ thống luật pháp:
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được kí kết trên cơ sở có tính đến Việt Nam là một nước đang phát triển do đó việc thực thi các điều khoản của hiệp định theo lộ trình: Đối với Mỹ họ sẽ thực hiện nay bởi vì Mỹ là nước phát triển hệ thống pháp luật của họ đã hoàn chỉnh. Còn đối với Việt Nam hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh từng bước phải sửa đổi bổ xung. Việc hiệp định thương mại Việt - Mỹ được kí kết thúc đẩy các nhà ban hành luật nhanh tróng xây dựng bổ xung và hoàn chỉnh hệ thống luật pháp cải thiện và xoá bỏ các thủ tục, giấy tờ rườm rà trong quản lý xuất nhập khẩu cấp giấy phép đầu tư… Thống nhất các cách tính giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu v.v… Tiến hành một cách minh bạch theo hướng công băng, không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa sản phẩm được sản xuất ra tại Việt Nam với các sản phẩm nhập khẩu từ Mỹ phải thực hiện đúng quy chế đối xử quốc gia như đã kí kết trên cơ sở đó tạo môi trường kinh doanh thông thoáng thuận lợi cho các nhà kinh doanhViệt Nam ,các nhà kinh doanh Mỹ và các doanh nhân các nhà đầu tư nước ngoài nói chung.
II.7 Tạo đà cho Việt Nam tham ra vào tổ chưc thương mại thế giới (WTO):
Hiện nay quá trình toàn cầu hoá diễn ra sôi động mà không một nước nào đứng ngoài cuộc, thế giới là một thị trường rộng lớn, hấp dẫn chứa đựng nhiều cơ hội thuận lợi cho kinh doanh đầu tư. ở đó việc trao đổi hàng hoá luân chuyển vốn lao động công nghệ và kỹ thuật diễn ra một cách tự do.Để hội nhập vào xu thế chung này Việt Nam cần phải tiến hành gia nhập WTO bởi đây là một tổ chức lớn nhất thế giới nó là sân chơi duy nhất trên thế giới chịu sự điều chỉnh của bộ luật của tổ chức thương mai thế giới,bộ luật này là khung pháp lý toàn cầu hoá, mà không một ai có thể đẻ ra cái gì trái với nó.
Việc kí kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ là một bước quá đọ để Việt Nam gi nhập WTO. Bởi vì mỹ đã tuân thủ các luật lệ của WTO,mặt khác hiệp định thương mại Việt - Mỹ được kí kết trên các nguyên tắc của WTO do vậy phía Mỹ sẽ cam kết thực hiện ngay. Phía Việt Nam tiến hành xoá bỏ dần dần hàng rào bảo hộ tạo ra môi trường tự do thông thoáng dần dần phù hợp với chuẩn mực quốc tế mà phần lớn các nước đều áp dụng tuy nhiên hiệp định này được kí kêt trên một phạm vi rông trên nhiều lĩnh vực nhưng vẫn hẹp hơn quy định của WTO điều này giúp Việt Nam thích nghi dần với môi trường mới rồi tiến tới hoàn thiện.Đây là điều mà sớm muộn gì Việt Nam cũng phải làm nếu như muốn được thận lợi do hôi nhập đem lại cùng với hiệp định thương mại cam kết AFTA và các cuộc đàm phán chuẩn bị gia nhập WTO đã hình thành một hệ thống cam kết song phương và đa phương giữa Việt Nam và các khu vực kinh tế lớn trên thế giới. Hệ thống cam kết này vừa có tính pháp lý trong nước và quốc tế sẽ định chế hoá công cuộc cải cách cơ cấu Việt Nam với mục tiêu lộ trìnhvà thời gian được thực hiện được hoạch định một cách cụ thể, nó sẽ thúc đẩy tiến trình công cuộc cải cách cơ cấu và xây dựng cơ chế thị trường lành mạnh và hiện đại. Đây là nội dung chính của việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Nó sẽ giúp Việt Nam hôi nhập tốt hơn và có lợi ích hơn vào nền kinh tế thế giới cũng như phát triển thi trường trong nước với sức mua ngày càng cao.
III. Thách thức: Đi đôi với những cơ hội luôn là những khó khăn thách thức mà Việt Nam phải đối mặt với khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực.
III.1 Quy mô xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ vẫn còn rất nhỏ:
Hoa Kỳ là một thị trường tiêu thụ khổng lồ trong khi đó Việt Nam có nhiều mặt hàng hấp dẫn đối với thị trường Hoa Kỳ. Bên cạnh những bước tiến đạt được những thành công bước đầu trong quan hệ thương mại Việt - Mỹ chưa xứng với tiềm năng của nó chưa đáp ứng được mong mỏi của giới kinh doanh và nhân dân hai nước cụ thể, quy mô xuất khẩu của Việt Nam còn rất nhỏ, tỉ trọng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chiếm khoảng 5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và hàng hoá nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm 0,05% tổng kim ngạch nhập khẩu của Mỹ. Hiện nay phần lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ là hàng nông hải sản mới chỉ đạt được vài trăm triệu USD /năm trong khi đó tổng kim ngạch nhập khẩu mỗi năm của Hoa Kỳ cho loại mặt hàng này lên tới khoảng 50 tỷ USD. vi dụ như nhóm hàng may mặc nhập vào Hoa Kỳ hàng năm đạt 2tỷ USD như Việt Nam chỉ xuất được sang thị trường này trị giá 2 triệu USD đây rõ ràng là một con số rất nhỏ bé.
Mặt khác các sản phẩm của Việt Nam xuất sang Mỹ chủ yếu là những mặt hàng mà việc hưởng quy chế tối huệ quôc so với những nước không được hưởng có mức chênh lệch về thuế suất hầu như không khác nhau nhiều, vi dụ như ca phê hạt, rang… thuế suất MFN và phi MFN là 0%. Do đó khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ đi vào thực thi nếu cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam vẫn như vậy thì quy mô xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ không tăng lên nhiều điều này có nghĩa là quy mô xuất khẩu vẫn còn rất nhỏ bé nếu không có sự thay đổi thì tình hình thâm hụt cán cân thanh toán cán cân thương mại giữa hai nước vẫn tiếp tục nghiêng về phía Việt Nam.
III.2 Sản phẩm của Việt Nam còn kém tính cạnh tranh:
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được kí kết sẽ tạo ra môi trường- thị trường tự do cạnh tranh sự cạnh tranh đang ngày càng gay gắt hơn khi mà cơ cấu hàng hoá giữa các nước trong khu vực có sự tương đồng nhau như các hàng nông sản nhiệt đới các hàng công nghiệp chế biến các hàng công nghiệp tiêu dùng hàng thuỷ hải sản… đói với hàng hoá Việt Nam xuất sang thi trường Mỹ chủ yếu là lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng. Do đó sẽ phải chịu sức ép về cạnh tranh quyết liệt của hàng hoá cùng loại của nhiều nước châu á mà chủ yếu la các nước trong ASEAN. Điều này càng khó với các doanh nghiệp Việt Nam vì trình độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực đã đi trước Việt Nam từ 20-30 năm, do vậy các nước trong khu vực đã có đủ công nghệ nguồn, đã có chỗ vững chắc trên thi trường Mỹ. Như vây có thể nói hàng hoá Việt Nam xuất sang mỹ còn kém tính cạnh tranh. Sự kém canh tranh của hàng hoá Việt Nam gồm cả giá cả mẫu mã chất lương hàng hoá và các dịch vụ kèm theo.
Về chất lương hàng hoá: Đây là vấn dè mà Mỹ đòi hỏi rất cao và nghiêm nghặt. Đặc biệt là các mặt hàng nông sản hàng tiêu dùng đòi hỏi những đáp ứng khắt khe về chất lượng ,chẳng hạn như hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật vệ sinh dịch tế áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu,trong đó quy định tưng hàng hoá cấm nhập hoặc hạn chế nhập nhằm bảo vệ an ninh nước Mỹ hoặc đảm bảo an toàn vệ sinh cho người tiêu dung bảo tồn thực vật và động vật trong nước. Ví dụ thịt và các sản phẩm nhập khẩu vào Mỹ phải tuân thủ các quy định của bộ nông nghiệp Mỹ và qua giám định của các cơ quan giám đihnj y tế và động thực vật(APHIS) và của cơ quan giám định về an toàn thực phẩm trước khi làm thủ tục hải quan có thể nói chất lương sản phẩm được coi trong hàng đầu và là chìa khoá mở cửa vào thi trương Mỹ mà ISO 9000 là thước đo chính xác nhất. Thực tế cho thấychất lượng của sản phẩm Việt Nam thường không cao do thiết bị cũ kỹ lạc hậu công nghệ bảo quản thấp chưa tốt tỷ lệ hư hỏng hao hụt còn nhiều, chất lượng giảm sút…Quá trình chế biến sản phẩm của Việt Nam chưa tuân thủ theo các quy định quốc tế như ISO số lượng doanh nghiệp áp dụng ISO ở Việt Nam không nhiều do đó số lượng sản phẩm đủ tiêu chuẩn chất lượng xuất khẩu bị hạn chế do đó khả năng cạnh tranh hàng hoá Việt Nam sẽ kém so với các nước có cùng chủng loạI sản phẩm.
Về giá cả: đối với các sản phẩm cùng chất lượng hàng hoá Việt Nam ít có khả năng giảm giá để cạnh tranh so với các nước trong khu vực trên thị trường Mỹ nguyên nhân là do máy móc thiết bị cũ kỹ dẫn đến năng suất lao động không cao chi phí còn bất hợp lý chi phí đầu vào của các doanh nghiệp Việt Nam thường cao hơn các nước trong ASEAN tùe 30-50 %, chi phí nhân công của Việt Nam ngày càng tăng lên nó không còn là một lợi thế để khai thác. Mặt khác việc sử dụng nguyên liệu đầu vào chưa hợp lí.Ví dụ như lĩnh vực thuỷ sản nhiều chuyên gia cho rằng nếu so với TháI Lan về diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế cũng như diện tích nuôI tôm thì họ đều thấp hơn nước ta song sản lượng và giá trị xuất khẩu của họ lại cao vào loạI nhất thế giới.Mỗi năm TháI Lan thu được 4 tỷ USD về xuất khẩu thuỷ sản trong đó có 1/3 là thị trường Mỹ còn xuất khẩu của ta vào mỹ năm 2000 chr đạt gần 300 triệu USD ĐIũu này cho thấy chi phí của Việt Nam cao do đó là cho giá thành của sản phẩm tăng lên ít có khả năng cạnh tranh về giá cả và nếu có canh tranh giảm giá thì sẽ là đIều bất lợi bởi nó sẽ làm giảm lợi nhuận từ đó hạn chế khả năng tích luỹ để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh .
Về chủng loạI, mẫu mã, dịch vụ kèm theo đây là mặt hàng mà hàng của Việt Nam rất kém chủng loạI thì ít không phong phú đa dạng ví dụ như hàng may mặc hiện nay mới chỉ có 8 cat :331,338,340,345,438,444,436,644,và chỉ có hàng may chứ không có hàng dệt mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là sơ mi trẻ em sơ mi nam găng tay dệt kim áo len….Mẫu mã kiểu cách của hang Việt Nam thô sơ chậm đổi mới chưa đáp ứng được nhu cầu thương xuyên thay đổi của thị trường Mỹ doanh nghiệp chứa có các dịch vụ kèm theo hàng hoá như dịch vụ sau khi mua, dịch vụ bảo hành bảo dưỡng….
Như vậy hàng hoá Việt Nam còn rất kém khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ thêm vào đó hàng hoá Việt Nam phảI đối mặt canh tranh với hàng hoá cuả Mỹ tạI thị trường Việt Nam .Bởi vì sau khi hiệp định thương mạI có hiệu lực hàng hoá của Mỹ cũng được hưởng quy chế tối huệ quốc mà Việt Nam dành cho với ưu thế về chất lượng, quy cách chủng loạI, giá cả hàng hoá Mỹ luôn đe doạ các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã quen với sự bảo hộ cuả nhà nước. Sẽ không còn sự phân biệt giữa khu vực tư nhân với khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không có sự khác biệt giữa những sản phẩm được sản xuất trong nước với sản phẩm được sản xuât tạI Mỹ mà sẽ là sự cạnh tranh bình đẳng tự do trên tất cả các lĩnh vực khi đó những doanh nghiệp nào hoạt đông tốt sẽ tiếp tục phát triển trước tình hình này các doanh nghiệp Việt Nam đứng trước khó khăn lớn đó là sức ép cạnh tranh bởi các doanh nghiệp Mỹ trong tất cả các lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực tàI chính, ngân hàng ,viễn thông còn nhậy cảm ở Việt Nam nhưng lạI là thế mạnh của Mỹ nếu không có sự đổi mới đIều chỉnh , tồn tạI và phát triển thì các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam không thể nào cạnh tranh được các nhà cung cấp dịch vụ của Mỹ như vậy muốn cạnh tranh được trên “ sân nhà ”nhiều mặt hàng của Việt Nam phảI giảm chi phí xuống từ 20-50%.
III.3 Vấn đề luật pháp
III.3.1 về phía Mỹ
Người ta nó rằng” sống bên cạnh người Mỹ bao giờ cũng có một bác sĩ và một luật sư” đIều này nói nên rằng hệ thống pháp luật của Mỹ rất phức tạp mỗi bang có một hệ thống riêng không thể chủ quan áp dụng từ bang này sang bang khác. luật của Mỹ rất chặt chẽ hoàn chỉnh phức tạp từ những quy định về thủ tục hảI quan, thủ tục nhập khẩu đến việc buôn bán, trách nhiệm sản phẩm kinh doanh , luật bản quyền chống độc quyền …Trong khi đó mỹ là thị trường tương đói mới của Việt Nam , chưa hiểu biết nhiều về người Mỹ, tính cách thói quen của họ đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam lạI rất thiếu thông tin về thị trường Mỹ đay là một trở ngạI đáng kể đối với các doanh nghiệp Việt Nam các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần phảI lắm bắt thông hiểu và áp dụng những thủ tục này không phảI một sớm một chiều mà phảI có thời gian để tìm hiểu nếu không các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị tổn thất lớn.
III.3.1 Về phía Việt Nam .
Nhận xét chung của các nhà đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam và hệ thống luật pháp Việt Nam là sự thiếu đồng bộ thiếu ổn định, quá chung chung chông chéo và mâu thuẫn với nhau nhiều luật sư nước ngoàI cho rằng luật đầu tư nước ngoàI năm 1987 tuy không hẫp dẫn như luật hiện nay nhưng thời đIểm đó chưa có các đạo luật khác lên việc thi hành trôI chảy hơn bây giờ tính minh bạch và khả năng lường trước được của các văn bản pháp luật của Việt Nam còn thấp đặc biệt nhuững kiến thức hiểu biết pháp luật thương mạI quốc tế chưa đầy đủ đã ảnh hưởng không nhỏ đến môI trường kinh doanh được coi là kém hẫp dẫn của Việt Nam .Mặt khác nhà nước duy trì bảo hộ quá lâu đối với các doanh nghiệp do đó gây ra tình trạng ỷ lạI không chủ động thích nghi với môI trường mới và chính họ lai gây áp lực cho nhà nước trong việc cắt giảm thuế,việc đề nghị cắt giảm mấy chục đồng thuế cũng rất khó khăn. Những bất cập được đề cập ở trên là có thể hiểu được nếu chúng ta xét đến đIều kiện của Việt Nam “ một nước đang phát triển có trình đọ phát triển thấp đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế và đang tiến hành các bước hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới” hệ thống pháp luật không thể vượt ra ngoàI khuôn khổ phát triển chung của đất nước. Nhưng cuộc sống yêu cầu phát triển không cho phép chúng ta bằng lòng với những gì đã có và phảI ngiêm khắc với sai phạm nói trên.Với những tồn tạI như vậy thì việc thi hành các cam kết pháp lý tại hiệp định là hết sức khó khăn.
III.4 Mỹ vẫn là một đối thủ lớn
Trong một bàI báo cáo ông Nguyễn Đình Lương trưởng đoàn đàm phán Việt Nam về hiệp định thương mạI thẳng thắn rằng “Dù yêu hay ghét, thích hay không thích thì nền kinh tế Mỹ vẫn mạnh GDP năm 1999 là 9256 tỷ USD xuất khẩu 960 tỷ USD và nhập khẩu 1288 tỷ USD. Trên thế giới cứ 100 tập đoàn kinh tế làm ăn có hiệu quả thì có 61 tập đoàn là của mỹ. Người Mỹ tự coi mình không có đối thủ nhưng nền kinh tế Mỹ vẫn có một nguyên tắc bất di bất dịch là tự do cạnh tranh và chống độc quyền. Opportunity (cơ hội) là chữ đầu miệng của người Mỹ họ tận dụng mọi cơ hội để làm ăn, có người vốn chỉ 100 USD cũng bay sang Việt Nam để làm kinh doanh”.Trong lịch sử chưa ai dám làm mất lòng người Mỹ đánh Mỹ thì có nhưng chưa ai để cho Mỹ thua trừ Việt Nam .Vì vậy người Mỹ nói công khai rằng , họ không thắng được trong chiến tranh thì sẽ thắng trong hoà bình họ sẽ dùng sức mạnh kinh tế để thực hiện âm mưu của mình. Do đó vấn đề bình thường hoá quan hệ thương mạI không chỉ nầm trong những vấn đề kỹ thuật hay chuyên môn mà là một chủ trương chiến lược người mỹ vẫn có những quan niệm cũ về một nước Việt Nam mới. Vẫn còn một bộ phận dân cư Mỹ thậm chí là một số quan chức Mỹ vẫn mang “hội chứng Việt Nam ” vẫn chưa coi Việt Nam là một đất nước hoà bình mà vẫn coi và nghĩ tới Việt Nam như một cuộc chiến tranh một phần lịch sử của Hoa Kỳ họ vẫn bị ám ảnh bởi nỗi đau trong quá khứ ám ảnh bởi vấn đề quân nhân Mỹ mất tích tù binh chiến tranh và người tị nạn…Chính vì vậy việc đàm phán thương mạI kéo ra rất dàI bởi lẽ họ vẫn cố tình gắn vấn đề POW/MIA vào hiệp định thương mạI coi đó là một đIều kiện để tiến hành quan hệ thương mạI thông thường giữa hai nước chính nhóm người mang hội chưng Việt Nam này luôn phản đối hiệp định thương mạI của Hoa Kỳ và Việt Nam và luôn chống đối Việt Nam thẻe hiện ở việc Hạ nghị viện Mỹ phê chuẩn hiệp định thương mạI nhưng kèm theo đó là đòi hỏi phảI thông qua luật nhân quyền chông Việt Nam theo luật này hàng năm Mỹ sẽ trính một khoản tiền lớn từ ngân sách nhà nước để viện trợ cho các tổ chức phản động chống phá Việt Nam đIều này cho thấy Mỹ không thiện chí trong quan hệ hợp tác song phương vi phạm vào nguyên tắc kí kết- can thiệp vào công việc nôI bộ của Việt Nam –Do đó Việt Nam bước vào sân chơI này phảI thật cẩn trọng.
Tuy nhiên với vị trí có lợi thế của Việt Nam và lợi ích cuả công ty Mỹ sẽ có được sau hiệp định thương mạI ,Thượng nghị viện Mỹ ngày3/10 vừa rồi đã phê duyệt hiệp định thương mạI với tỷ lệ 88 thuận/12 phiếu không mà không kèm theo đạo luật nhân quyền. đây là một đIều đáng hoan nghênh nhưng không phảI vì thế mà đạo luật này sẽ không có khả năng đưa ra Thượng nghi viện trong thời gian tới cũng cần nói thêm rằng, dù hiệp định có hiệu lực thi hành hàng năm Quốc hội và Tổng thống Mỹ vẫn phảI xem xét táI gia hạn vviệc miễn áp dụng đIều luật bổ sung Jackson-vanik, khi đó quy chế quan hệ thương mạI mới có hiệu lực.
III.5Tình hình thế giới hiện nay:
Mặc dù hiệp định thương mại Việt Mỹ gần đI tới đích, nó chỉ còn phê duyệt bởi tổng thống Hoa Kỳ nhưng quan hệ thương mại Việt Mỹ vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, khó khăn này không phảI do phía Việt Nam hay do phía Mỹ, mà là do tình hình chính tri xã hội hiện nay. Việc nền kinh tế Mỹ sau hơn 112 tháng liên tục tăng trưởng, nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu suy thoáI từ đầu năm 2001 và nguy cơ khủng bố trầm trọng hơn sau vụ khủng bố 11/9.Với việc tấn công vào AFGHANISTAN của liên quân Mỹ Anh vào sáng 8/10, tình hình kinh tế mỹ cung bị đặt trước nhiều yếu tố không xác địng được đIều này cho thấy Mỹ có thể sớm lún sâu hơn vào cuộc suy thoái. Chi phí tái thiết NEWYORK sau vụ khủng bố 11/9 và chi tiêu quân sự cho tấn công AFGHANISTAN sẽ tạo ra nhiều nhu cầu mới kích thích một bộ phận kinh tế phát triển. Tuy nhiên, các nhu cầu này ít có tác dụng đến nhập khẩu hàng hoá từ những nước có trình độ phát triển còn thấp như Việt Nam chi tiêu cá nhân chiếm gần 70% tổng nhu cầu của nền kinh tế Hoa Kỳ đã giảm và có khuynh hướng giảm nhanh hơn sau ngày 11/9 và sẽ khó phục hồi trước tình hình hiện nay đây là những khó khăn, bắt lợi trong quan hệ thương mại Việt Mỹ và hiệp định thương mạI chưa thể phát huy tác dung trong một đến hai năm tới.
Phần III Biện pháp phát triển thương mại Việt - Mỹ
Mặc dù có nhiều thách thức đặt ra đối với phía Việt Nam ,nhưng việc kí kết hiệp định thương mạI vào thời đIểm này có lợi hơn là có hạI. Hàng hoá Việt Nam với mức thuế xuất rất thấp đã có thể tiếp cận thị trường rông lớn của Mỹ một cách bình đẳng so với các quốc gia khác. hiệp định thương mạI này đẩy nhanh hơn tiến trình công nghiệp hoá hiện đạI hoá Việt Nam .Mặt khác thế lực của Việt Nam đã khác 10 năm trước. Việt Nam có một vị trí quan trọng ở Đông Nam á và là một thị trường đầy tiềm năng. Những người có tầm nhìn xa trông rộng ở Hoa Kỳ chắc hiểu rõ đIều đó. Quan hệ thương mại từ trước tới nay vẫn chưa xứng với tiềm năng của nó, việc có được hiệp định thương mạI chỉ là đIều kiện cầ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37.DOC