Luận văn Hoàn thiện chiến lược Marketing trong hoạt động huy động vốn ở Ngân hàng hiện nay

Ngân hàng thương mại quốc doanh với mạng lưới rộng khắp để đẩy mạnh việc huy động vốn trong nước để đáp ứng nhu cầu cho vay phát triển kinh tế, thực hiện phương châm "đi vay để cho vay" và phát huy nội lực của đất nước. Từ chỗ dùng vốn phát hành là chủ yếu để cho vay trong thời kỳ bao cấp, chuyển sang thực hiện phương châm "đi vay để cho vay" đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng lớn. Ngân hàng thương mại quốc doanh đã tăng cường huy động vốn trong nước bằng việc mở rộng mạng lưới, đổi mới phương thức huy động như tiền gửi tiết kiệm, nhiều công cụ như kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, cải tiến thủ tục và thái độ phục vụ, có chính sách lãi suất hấp dẫn. Do vậy, nguồn vốn huy động của các ngân hàng tăng lên nhanh chóng đến cuối năm 2000 tổng số dư nguồn vốn huy động tăng gấp 1250 lần so với năm 1986; gấp 21 lần so với năm 1990, tốc độ tăng bình quân hằng năm là 25% trong đó tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn chiếm trên 30% trong tổng số nguồn vốn huy động.

 

doc71 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1985 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện chiến lược Marketing trong hoạt động huy động vốn ở Ngân hàng hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N) vào hệ thống Ngân hàng nhà nước (NHNN) của chính phủ nước CHXHCN VN, trở thành hệ thống NHNN duy nhất của cả nước. Hệ thống NHNN Việt Nam thống nhất xây dựng theo mô hình Ngân hàng Trung ương (NHTƯ), Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố và Chi nhánh NHNN quận huyện, thị xã. Toàn ngành đã thực hiện thắng lợi 05 cuộc cải cách tiền tệ có ý nghĩa quan trọng cả về chính trị, kinh tế và lịch sử, mà trong đó cuộc cải cách tiền tệ lần thứ năm ngày 01/09/1985 phát hành tiền mới để thay đổi đơn vị tiền tệ, nâng cao giá trị của đồng tiền lên mười (10) lần do lạm phát phi mã quá nhiều năm làm cho đồng tiền mất giá, nhằm tạo ra môi trường tiền tệ lành mạnh, góp phần ổn định kinh tế và đời sống của nhân dân theo nghị quyết của Trung ương về cải cách tiền lương và quyết định 01/HĐBT của hội đồng bộ trưởng, được xem là đột phá mạnh đối với công tác tín dụng đó là xoá bỏ bao cấp để chuyển sang phương thức quản lí theo chế độ hạch toán kinh tế, nâng cao hiệu quả đồng vốn tín dụng trong trao đổi để bước vào công cuộc đổi mới sau này. Trong thời kỳ này công tác đối ngoại, ngoài việc tiếp thu, mở rộng và tăng cường hợp tác với các Ngân hàng các nước XHCN, ta còn quan hệ với các tổ tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB, mở rộng quan hệ mới ngoài các nước trong hệ thống XHCN, đến cuối năm 1985 đã có quan hệ với 520 Ngân hàng của 67 quốc gia trên thế giới. b. Ngành Ngân hàng trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2001) Dưới ánh sáng nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của đổi mới toàn diện nền kinh tế, Ngân hàng là ngành đã đi đầu trong sự nghiệp đổi mới này. Có thể xem phần đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới là đổi mới một cách căn bản, hệ thống tổ chức Ngân hàng, trọng tâm là tách hệ thống Ngân hàng một cấp: nhà quản lý, nhà kinh doanh tiền tệ thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, tách ranh giới nhà quản lý và người kinh doanh tiền tệ. Sau một thời gian làm thí điểm ở một số địa phương, tổng kết các kinh nghiệm ngày 26/08/1988 Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng cũng là Chính phủ ban hành nghị định số 53/HĐBT tách hệ thống NHNN làm chức năng NHTƯ, chức năng quản lý nhà nước và bốn Ngân hàng chuyên doanh làm chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Đây được coi là bước khởi đầu rất quan trọng của ngành Ngân hàng trong qua trình đổi mới, làm cơ sở cho sự hình thành hệ thống Ngân hàng hai cấp chính thức khi có hai pháp lệnh NHNN Việt Nam như là pháp lệnh hợp tác xã tín dụng (HTXTD) và công ty tài chính có hiệu lực từ ngày 01/10/1990. Trên cơ sở hai pháp lệnh về Ngân hàng trước đây và hai luật về Ngân hàng hiện nay. Hệ thống Ngân hàng hai cấp được hình thành và phát triển cả về số lượng và chất lượng. NHNN gồm Ngân hàng Trung ương và chi nhánh ở 61 tỉnh, thành. Các tổ chức tín dụng (TCTD) đã phát triển theo hướng đa dạng hóa, đa thành phần, đa chức năng. Hệ thống TCTD bao gồm : bốn Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng Nhà Đồng bằng sông Cửu long, 48 Ngân hàng thương mại cổ phần, 02 Công ty tài chính cổ phần, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 05 Ngân hàng liên doanh, 09 Công ty cho thuê tài chính, 960 quỷ tín dụng Ngân hàng cơ sở, với mạng lưới các TCTD rộng khắp đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ Ngân hàng đến khắp mọi vùng, từ thành thị đến nông thôn, các vùng kinh tế trọng điểm, khu dân cư tập trung, từ vùng đồng bằng đến vùng núi xa xôi, vùng biên giới hải đảo trong cả nước đều có Ngân hàng phục vụ. Lực lượng cán bộ của Ngân hàng phát triển cả về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu đổi mới và phát triển Ngân hàng hiện đại, từ chỗ toàn hệ thống chỉ có 2.670 cán bộ (năm 1957) đến nay đã có trên 60.000 cán bộ làm việc trong lĩnh vực Ngân hàng với trên 60% có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học.Với nữa thế kỷ xây dựng và phát triển, ngành Ngân hàng Việt nam đã góp phần xứng đáng phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như trong sự nghiệp xây dựng và phát triển, nâng cao đời sống nhân dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Do có sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước cũng như sự nổ lực phấn đấu của thế hệ cán bộ đã và đang công tác trong hệ thống Ngân hàng, sự phối hợp có hiệu quả với các bộ, ngành, các cấp chính quyền ngành Ngân hàng đã hoàn thành xuất sắc được Đảng và nhà nước giao phó. 2. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức Theo luật NHNN Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCNVN khóa X kỳ họp thứ hai thông qua ngày 12/12/1997 quy định chức năng, nhiệm vụ của NHNN và các TCTD như sau. 2.1. Chức năng, nhiệm vụ của NHNN và các TCTD như sau: + Chức năng: NHNN Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương của nước CHXHCN Việt Nam. - NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, là Ngân hàng phát hành tiền, Ngân hàng của các TCTD và Ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. - Hoạt động của NHNN nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn cho hoạt động Ngân hàng và các TCTD, thúc đẩy phát triển xã hội theo định hướng XHCN - NHNN là một pháp nhân có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại thủ đô Hà Nội + Nhiệm vụ: Trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước: a.Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước. b. Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này, xây dựng chiến lược phát triển hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam. c. Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng theo thẫm quyền. d. Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các TCTD, trừ trường hợp do thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động Ngân hàng của các tổ chức khác; quyêt định giải thể, chấp thuận chia, tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. đ. Kiểm tra, thanh tra hoạt động Ngân hàng, kiểm soát tín dụng, xữ lí các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng theo thẩm quyền. e. Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ. g. Chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế. h. Quản lý hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động kinh doanh vàng. i. Ký kết, tham gia điều ước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng theo quy định của pháp luật. k. Đại diện cho CHXHCNVN tại các tổ chức tiền tệ và Ngân hàng quốc tế trong những trường hợp được Chủ tịch nước, Thủ tướng ủy quyền. l .Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Ngân hàng, nghiêu cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ Ngân hàng. Trong việc thực hiện chức năng Ngân hàng Trung ương: a. Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu hủy tiền. b. Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. c. Điều hành thị trường tiền tệ, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. d. Kiểm soát Dự trữ quốc tế, quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước. đ. Tổ chức hệ thống thanh toán qua Ngân hàng làm dịch vụ thanh toán, quản lý việc cung ứng các phương tiện thanh toán. e. Làm đại lý và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng cho Kho Bạc nhà nước. g. Tổ chức hệ thống thông tin và làm các dịch vụ thông tin Ngân hàng. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất gồm bộ máy điều hành và hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các văn phòng đại diện ở trong nước, ở ngoài nước và các đơn vị trực thuộc. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy điều hành của Ngân hàng Nhà nước do Chính phủ quy định. + Cơ cấu tổ chức: Hệ thống tổ chức NHNN thực hiện theo quy định pháp luật nước CHXHCN Việt Nam . 2.2. Chức năng, nhiệm vụ của các Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam: + Chức năng: Kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh và tự chủ tài chính. + Nhiệm vụ: Chấp hành đầy đủ các quy định về hoạt động Ngân hàng do Ngân hàng hoặc các TCTD quy định. Bảo đảm hoạt động lành mạnh, an toàn và hiệu quả. + Cơ cấu tổ chức: Bao gồm Hội sở chính và các chi nhánh ở một số địa phương phù hợp yêu cầu và quy mô hoạt động của TCTD được NHNN Việt Nam cho phép. II/ HOạT ĐộNG CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI QDVN: 1. Khái quát hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh: a. Tình hình kinh tế -xã hội : Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đánh giá khái quát tình hình kinh tế -xã hội trong thời kỳ 1996-2000 như sau : *. Nền kinh tế nước ta trong thời gian qua vẫn giữ nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực. Nổi bật là nông nghiệp phát triển liên tục, góp phần quan trọng vào mức tăng trưởng chung và giữ vững ổn định kinh tế xã hội. Giá trị sản xuất nông ngư nghiệp tăng bình quân hằng năm 5,7%. Cơ cấu mùa vụ đã chuyển dịch theo hướng tăng diện tích lúa đông xuân và hè thu có năng suất cao ổn định. - Công nghiệp và xây dựng vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được nhiều tiến bộ. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm 13,5%, trong đó công nghiệp quốc doanh tăng 9,5%, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8%. - Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển trong điều kiện khó khăn hơn trước, góp phần tích cực tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống. Giá trị các ngành dịch vụ tăng 6,8%/năm. Thương mại phát triển khá, bảo đảm lưu chuyển, cung ứng vật tư hàng hóa trong cả nước và trên từng vùng. Tổng mức bán lẻ tăng bình quân 6,2%/năm. - Du lịch phát triển đa dạng, phong phú, chất lượng dịch vụ được nâng lên. Dịch vụ vận tải về cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao lưu hàng hóa và đi lại của nhân dân. Khối lượng luân chuyển hàng hóa tăng 12%/năm và luân chuyển hành khách tăng 5,5%/năm. - Các dịch vụ tài chính, kiểm toán, ngân hàng, bảo hiểm được mở rộng. Thị trường dịch vụ bảo hiểm đã được hình thành với sự tham gia của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, dịch vụ tài chính ngân hàng đã có những đổi mới quan trọng, tăng bình quân hàng năm 7,0%. - Các dịch vụ khác như tư vấn pháp luật khoa học và công nghệ… bắt đầu phát triển. - Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực, cơ cấu các ngành kinh tế đã từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá.Tỷ trọng nông lâm, ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 27,7% năm 1995 xuống còn 24,3% năm 2000, công nghiệp xây dựng từ 28,7% tăng lên 36,6% và dịch vụ từ 44,0% còn 39,1%. Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. * Các cân đối chủ yếu trong nền kinh tế đã được điều chỉnh thích hợp để duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế và ổn định đời sống nhân dân. - Đã cải thiện một bước quan hệ tích luỹ và tiêu dùng theo hướng tăng tích luỹ cho phát triển. Tỉ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP từ 18,2% năm 1995 tăng 27% năm 2000. Tổng quỹ tích luỹ tăng bình quân hàng năm trên 9,5%, toàn bộ tích luỹ tài sản do GDP chiếm 29,5%. - Với cân đối tài chính, tiền tệ có tiến bộ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và khai thác tốt các nguồn lực. Ngân sách Nhà nước bước đầu được cơ cấu lại theo hướng tích cực và hiệu quả hơn. Tổng ngân sách Nhà nước tăng bình quân hằng năm trên 8,7%, cao hơn mức tăng bình quân GDP. Các chính sách tiền tệ, tín dụng tiếp tục được đổi mới, việc điều chỉnh các cân đối tiền tệ, theo tín hiệu thị trường bước đầu đạt được các kết quả tích cực. Cơ chế quản lý và điều hành lãi suất ngoại hối, tỷ giá từng bước được đổi mới theo các nguyên tắc của thị trường. Hệ thống ngân hàng bước đầu được chấn chỉnh và đổi mới, các tổ chức tín dụng phát triển, chất lượng và hiệu quả tín dụng được nâng lên. Đã hình thành thị trường tiền tệ liên ngân hàng, bắt đầu áp dụng công cụ thị trường mở và thành lập trung tâm chứng khoán. Cân đối ngoại tệ được cải thiện, từ chỗ thâm hụt lớn, đến nay,cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế đã có kết dư, tuy nhiên chưa thật ổn định và vững chắc. - Đã có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển, nhất là nguồn vốn trong nước. Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội thực hiện trong 5 năm qua khoảng 440 nghin tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách chiếm 22,7%, vốn tín đụng đầu tư chiếm 14,2%, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước chiếm 17,8%, vấn đầu tư của tư nhân và dân cư chiếm 21,3%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 24%. Nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn, chiếm hơn 60% tổng vốn đầu tư, tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng. * Kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt trên 51,6 tỷ USD, tăng bình quân 21%. Khối lượng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã tăng khá. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi một bước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế xã hội. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện đạt khoảng 10 tỷ USD (1996-2000). * Nguồn vốn ODA đã được đưa vào sử dụng, góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. * Các mặt hoạt động khác như : giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng đã có những bước chuyển tích cực. * Và vấn đề quan trọng là cơ chế quản lý đang được đồng bộ hoá và hoàn thành bước đầu. Nhiều đạo luật về kinh tế, xã hội được ban hành đã thể chế, cụ thể hoá đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước hình thành cơ bản về khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tuy nhiên tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn còn những khó khăn yếu kém. * Chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế còn thấp; nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chưa đủ sức cạnh tranh. - Cơ chế, chính sách về thị trường tài chính, tiền tệ chưa tiến bộ mà trong đó hoạt động của các ngân hành thương mại còn nhiều yếu kém. Chất lượng tín dụng thấp, tỉ lệ nợ quá hạn lớn, tình hình tài chính của một số ngân hàng thương mại khó khăn. Thị trường vốn phát triển chậm, tỉ lệ sử dụng tiền mặt còn lớn. Thị trường chứng khoán đã mở ra song hoạt động còn lúng túng. Nguồn vốn trong dân cư chưa được huy động đúng mức, chưa có chính sách đủ mạnh để khuyến khích dân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh . Đầu tư còn phân tán làm cho hiệu quả sử dụng vốn, nhất là vốn từ ngân sách chưa cao. - Công tác giáo dục đào tạo khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập, chuyển biến còn chậm, tỉ lệ lao động qua đào tạo mới ở mức 20%. Nhiều vấn đề xã hội và môi trường đặt ra rất bức xúc, tỉ lệ thất nghiệp còn ở mức 6,4% (thành thị) ở nông thôn tỉ lệ sử dụng thời gian lao động mới đạt 73,8%. - Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại và tệ tham những không giảm, đấu tranh chưa mang lại hiệu quả. Môi trường đô thị còn có dấu hiệu ô nhiễm ngày càng nặng, cơ chế chính sách bảo vệ môi trường còn thiếu. b. Hoạt động của ngân hàng thương mại quốc doanh trong những năm qua Trên cơ sở 2 pháp lệnh về Ngân hàng trước đây và 2 luật về Ngân hàng hiện nay, hệ thống ngân hàng 2 cấp chỉ được hình thành cả về số lượng và chất lượng. Hệ thống tổ chức tín dụng làm chức năng kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh và tự chủ tài chính. Trong đó tổ chức tín dụng Nhà nước làm nền tảng gần 4 ngân hàng thương mại quốc doanh (Ngân hàng No và PTNT, ngân hàng Công thương, ngân hàng ĐT và PT và ngân hàng Ngoại thương). Ngân hàng thương mại quốc doanh với mạng lưới rộng khắp để đẩy mạnh việc huy động vốn trong nước để đáp ứng nhu cầu cho vay phát triển kinh tế, thực hiện phương châm "đi vay để cho vay" và phát huy nội lực của đất nước. Từ chỗ dùng vốn phát hành là chủ yếu để cho vay trong thời kỳ bao cấp, chuyển sang thực hiện phương châm "đi vay để cho vay" đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng lớn. Ngân hàng thương mại quốc doanh đã tăng cường huy động vốn trong nước bằng việc mở rộng mạng lưới, đổi mới phương thức huy động như tiền gửi tiết kiệm, nhiều công cụ như kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, cải tiến thủ tục và thái độ phục vụ, có chính sách lãi suất hấp dẫn. Do vậy, nguồn vốn huy động của các ngân hàng tăng lên nhanh chóng đến cuối năm 2000 tổng số dư nguồn vốn huy động tăng gấp 1250 lần so với năm 1986; gấp 21 lần so với năm 1990, tốc độ tăng bình quân hằng năm là 25% trong đó tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn chiếm trên 30% trong tổng số nguồn vốn huy động. + Ngân hàng thương mại quốc doanh đã đẩy mạnh việc cho vay phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật với số lượng vốn ngày càng lớn, cơ cấu đầu tư tín dụng đã thay đổi theo hướng đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng vốn cho vay trung và dài hạn để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh đã tập trung đầu tư cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ đối với mọi thành phần kinh tế. Tính đến cuối năm 2000, tổng số dư nợ cho vay nền kinh tế tăng gấp 1075 lần so với của năm 1986, tăng 28 lần so với năm 1990, bằng 40% GDP, cho vay trung dài hạn chiếm gần 40% tổng dư nợ, cho vay khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm 39%. Ngân hàng tăng trong vốn trung và dài hạn cho vay các dự án then chốt của nền kinh tế như: ngành điện, dầu khí, công nghiệp xây dựng, cơ sở hạ tầng ngân hàng. Vốn cho vay của ngân hàng góp phần phát triển nông nghiệp,nông thôn thông qua hệ thống cho vay của ngân hàng No & PTNT Việt Nam đã thực hiện cho vay phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại với gần 10 triệu lượt hộ được vay, gần 6 triệu hộ đang dư nợ tại ngân hàng gần 40.000 tỷ đồng. Vốn ngân hàng tập trung vào sản xuất lương thực, thực phẩm, cây dài ngày như : cà phê, chè, cao su, cây ăn quả… nuôi trồng khai thác thuỷ sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Cho vay các chương trình kinh tế nông nghiệp như chương trình 1 triệu tấn đường 480 tỉ đồng, chương trình xoá đói giảm nghèo 4704 tỉ, chương trình đánh bắt hải sản xa bờ 285 tỷ, cho vay khắc phục bão số 5 ở Nam Bộ 1.300 tỷ, cho vay thu mua lương thực 4000 tỷ, cho vay nhập khẩu phân bón 1700 tỷ, cho vay khắc phục hậu quả lũ lụt miền Trung năm 1999 gần 700 tỷ đồng. - Kết quả kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân hàng của các NHTMQD, ngày càng có hiệu quả về mặt tài chính, các ngân hàng đã khắc phục được tình trạng thua lỗ từ những năm đầu khi chuyển sang cơ chế thị trường, không còn ngân hàng bị thua lỗ. Tính chung từ 1990 đến năm 2000 hệ thống ngân hàng trong cả nước đã nộp vào ngân sách Nhà nước hơn 11.000 tỷ đồng, trong đó 4 ngân hàng Thương mại Quốc doanh nộp 3500 tỷ. (bình quân mỗi năm nộp 350 tỷ). Ngoài ra 4 NHTMQD đã miễn giảm lãi cho khách hàng vay khoảng 200 tỷ đồng, trong đó giảm lãi suất 15% cho khu vực 2 miền núi và giảm 30% cho khu vực 3 miền núi, hải đảo vùng đồng bào dân tộc mỗi năm khoảng 70 tỷ đồng, không thu lãi đối với đối tượng được khoanh nợ bình quân mỗi năm trên 400 tỷ đồng. * Từng bước hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, một trong 4 nhiệm vụ lớn của hệ thống ngân hàng trong thời gian qua là "đổi mới công nghệ và hiện đại hóa nghiệp vụ ngân hàng", mà nền tảng là 4 NHTMQD đã đưa công nghệ tiên tiến và các dịch vụ tiện ích ngân hàng trên thế giới vào ngân hàng trong nước, phổ cập tin học trong các khâu hoạt động dịch vụ và quản trị ngân hàng. Đến nay các khâu thanh toán, chuyển tiền, kế toán, quản trị và các giao dịch khác đã được tin học hoá. Từng bước áp dụng mô hình quản trị kinh doanh ngân hàng hiện đại và sử dụng các công cụ hiện đại như: Tiền điện tử, máy rút tiền tự động, mở rộng thanh toán thẻ, thẻ tín dụng, chuyển tiền điện tử, thanh toán liên ngân hàng, xây dựng ngân hàng điện tử. Hiện nay đang triển khai giai đoạn một của dự án hiện đại hóa ngân hàng với 6 tiểu dự án, theo đó hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đưa các NHTMQD tiến kịp với công nghệ hiện đại trên thế giới. Ngân hàng TMQD đã và đang trở thành ngân hàng của tất cả các thành phần kinh tế, các tiện ích và công nghệ ngân hàng không ngừng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa góp phần vào sự lớn mạnh không ngừng của ngành ngân hàng Việt Nam. 2. Hoạt động Marketing tại các ngân hàng thương mại quốc doanh trong công tác huy động vốn : 2.1. Môi trường marketing : - Sau hai pháp lệnh ngân hàng, luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng được Quôc hội nước CHXHCNVN, thông qua ngày 12/12/1997 lập cơ sở pháp lý quan trọng có tính quyết định trong việc tổ chức các chiến lược huy động vốn của các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng thương mại quốc doanh nói riêng. Trong những năm qua chính phủ cũng như các Bộ ngành hữu quan và ngân hàng Nhà nước, đã tiến hành có hiệu quả việc cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý lưu thông tiền tệ tạo hành lang pháp lý rõ ràng, an toàn cho người gửi, việc thành lập cơ quan bảo hiểm tiền gửi là một minh chứng của việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, xoá bỏ mọi tư duy còn tỏ ra quan ngại hoặc còn hiểu lệch lạc về hoạt động ngân hàng trong dân chúng. - Quy mô hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh trên nhiều lĩnh vực đã được nâng lên như vốn điều lệ, trụ sở khang trang, thuận tiện và mỗi ngân hàng đã có biểu tượng mang màu sắc hấp dẫn riêng. Các tiêu chuẩn kiểm toán đã được xác lập trong hoạt động ngân hàng, việc công khai năng lực tài chính theo định kỳ của các ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng và đội ngũ cán bộ ngân hàng từng bước được đào tạo chuẩn mực. - Chính sách mở cửa tạo điều kiện cần thiết cho việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thể giới. Sự ra đời của các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng cổ phần và các kênh huy động vốn của chính phủ, làm thay đổi hình thức độc quyền của các ngân hàng thương mại quốc doanh, chuyển sang hình thức cạnh tranh đa dạng. - Nền kinh tế chưa thật ổn định, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm thấp chưa đủ sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ còn hẹp, ngân sách Nhà nước còn bội chi. Việc cổ phần hóa, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước tiến hành còn chậm. - Hệ thống pháp luật chưa thật đầy đủ, chưa đồng bộ và kém hiệu lực. Nạn tham nhũng, lãng phí chậm được khắc phục. Các mặt về xã hội còn những tồn tại và bức xúc. Tình trạng thất nghiệp còn lớn, dân số và việc làm vẫn còn là vấn đề nóng bỏng. Công tác kiểm toán còn mới mẻ, số lượng công ty kiểm toán còn quá ít gây khó khăn cho việc đánh giá tình hình một cách chính xác trung thực.Tình trạng "lỗ thật lãi giả " còn phổ biến . 2.2. Hoạt động Maketing trong công tác huy động vốn : - Lãi suất là công cụ quan trọng để ngân hàng huy động nguồn vốn hiện có trong các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp… Trong những năm qua đổi mới tổ chức huy động vốn bằng công cụ lãi suất đã cho thấy chính sách lãi suất chỉ phát huy được hiệu lực của nó đối với huy động vốn trong điều kiện tiền tệ ổn định, giá cả ít biến động hay nói cách khác là lạm phát ở mức vừa phải và không có sự biến động thất thường. Trong những năm qua chính sách điều hành lãi suất của ngân hàng Nhà nước dần dần đi đến tự do hóa lãi suất, các ngân hàng TM điều hành lãi suất theo nguyên tắc kinh tế thị trường và mối quan hệ cung cầu về vốn. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn, đảm bảo NHTM kinh doanh có lãi . Cùng với đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa, việc cải tiến nâng cao chất lượng của đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện cho mọi người dân có đủ năng lực pháp lý thuộc mọi thành phần kinh tế được mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng, qua đó tạo điều kiện để mở rộng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào ngân hàng. - Do đặc thù của nước ta, dân chúng chưa quen với các dịch vụ và thanh toán qua ngân hàng. Mặt khác, công tác thanh toán qua ngân hàng hiện nay đang từng bước được hiện đại hoá và chưa thực sự hấp dẫn lôi cuốn khách hàng. Cho nên hiện nay các NHTMQD vẫn trả lãi suất với loại tiền gởi thanh toán không kỳ hạn, để khuyến khích các tầng lớp dân cư thanh toán qua ngân hàng, đồng thời tạo thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng trong hoạt động giao dịch mua bán và thanh toán. - Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với tỉ lệ lạm phát dự kiến (lãi suất dương). Sao cho lãi suất trên thị trường vốn cộng với tỉ lệ trượt giá để có sự điều chỉnh kịp thời và linh hoạt . - Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn. - Lãi suất ngắn hạn phải thấp hơn lãi suất dài hạn. - Các ngân hàng thương mại trong công tác huy động tiền gửi, chỉ quan tâm đến thời hạn của tiền gửi, ứng với mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất, thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao không phân biệt các thành phần kinh tế dân cư trong xã hội. - Xác lập một tỉ giá hợp lý giữa VNĐ với ngoại tệ. Qua đó kéo dần lãi suất đồng Việt Nam và lãi suất ngoại tệ trong điều kiện có tính đến chỉ số lạm phát của hai loại tiền nội tệ và ngoại tệ. - Hiện nay các ngân hàng thương mại đã chú trọng đến vấn đề thông tin đại chúng quảng bá trong công tác huy động. Khai thác triệt để toàn b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100454.doc
Tài liệu liên quan