Luận văn Hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Huyện Đông Anh giai đoạn 2006-2010

MỤC LỤC

Trang

Phần mở đầu

Tóm tắt Luận văn

PHẦN MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: NGUỒN NHÂN LỰC VÀ ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG ĐIỀU KIỆN CNH, ĐTH 4

1.1. Nguồn nhân lực và các đặc điểm cơ bản nguồn nhân lực trong quá trình CNH, ĐTH nhanh 4

1.1.1. Nguồn nhân lực và các đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực 4

1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực 8

1.2. Những vấn đề cơ bản của chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực 15

1.2.1. Cấu trúc, chức năng và yêu cầu của chính sách 15

1.2.2. Đô thị hóa nhanh và các yêu cầu đối với nhiệm vụ đào tạo phát triển nguồn nhân lực 17

1.3. Kinh nghiệm đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở các nước châu Á và khu vực Đông Nam Á 23

1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc 23

1.3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản 25

1.3.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc 28

1.3.4. Kinh nghiệm của các nước ASEAN 30

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở HUYỆN ĐÔNG ANH NGOẠI THÀNH HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2000-2005 32

2.1. Tổng quan về sự phát triển kinh tế - xã hội huyện Đông Anh giai đoạn 2000 - 2005 35

2.1.1. Một số đặc điểm tự nhiên kinh tế, xã hội 35

2.1.2. Thực trạng phát triển kinh tế xã hội 36

2.2. Thực trạng chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực của huyện Đông Anh thời kỳ 2000 - 2005 47

2.2.1. Thực trạng nguồn nhân lực giai đoạn 2001 - 2005 ở Đông Anh 47

2.2.2. Thực trạng chủ trương chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực của Hà Nội và Đông Anh 2.2.3. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh 58

2.3. Những vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu thực trạng chính sách đào tạo phát triển ở huyện Đông Anh ngoại thành Hà Nội trong thời kỳ 2001-2005 69

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC HUYỆN ĐÔNG ANH 70

3.1. Dự báo nhu cầu đào tạo thời kỳ 2006-2010 của huyện Đông Anh 73

3.1.1. Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của huyện Đông Anh đến 2010 73

3.1.2. Dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực thời kỳ 2006-2010 của huyện Đông Anh 86

3.2. Hoàn thiện hệ thống chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh giai đoạn 2006 - 2010 93

3.2.1. Quan điểm cần quán triệt trong quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực 93

3.2.2. Đề xuất hoàn thiện, bổ xung các chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực từ thực tiễn của Đông Anh và Hà Nội 101

3.3. Một số kiến nghị về điều kiện để bảo đảm việc thực thi các chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh trong giai đoạn 2006 - 2010 108

3.3.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. 109

3.3.2. Sớm khắc phục các trở ngại để hình thành thị trường đất đai 110

3.3.3. Hoàn thiện các chính sách tạo việc làm cho nông dân gắn liền với thực hiện các chính sách về đào tạo 111

KẾT LUẬN 114

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 116

 

 

docx132 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3724 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực ở Huyện Đông Anh giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyến khích và tạo điều kiện để các trường đại học, cao đẳng chủ động, tích cực tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo và kinh tế - xã hội của thủ đô. · Đẩy mạnh xã hội hoá đào tạo, thực hiện công bằng xã hội đào tạo; * Đối với đào tạo nghề, các chủ trương của Thành uỷ là: · Xây dựng và triển khai có hiệu quả chiến lược đào tạo nghề; · Phát triển mạng lưới tạo nghề của thành phố, khắc phục bố trí không đồng đều giữa các quận, huyện · Xây dựng mới các trường đào tạo nghề CNKT bậc cao với cơ cấu đa ngành nghề, có công nghệ hiện đại, có đội ngũ giáo viên, chương trình giảng dạy ngang tầm khu vực và quốc tế. Tăng cường đào tạo CNKT lành nghề và lành nghề cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xuất khẩu lao động. · Phát triển các trung tâm đào tạo nghề tại các huyện ngoại thành. · Có cơ chế đầu tư, cơ chế huy động cơ sở vật chất, cơ chế đãi ngộ… để phát triển đào tạo nghề. · Phát triển thêm các cơ sở đào tạo các ngành nghề dịch vụ chất lượng cao theo yêu cầu xã hội, các cơ sở đào tạo nghề để phát triển các làng nghề truyền thống và các nghề mới. · Phát triển quy mô đào tạo nghề ở các diện đại trà và mũi nhọn · Thực hiện các giải pháp đồng bộ để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của cơ sở đào tạo, dạy nghề. Năm 2005, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của thành phố đã đạt 40 -45%. Thành uỷ còn có các chương trình công tác riêng biệt chỉ đạo nội dung biện pháp tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của thủ đô Hà Nội. Chương trình số 11-Ctr/TU về "nâng cao hiệu quả đầu tư, phát triển các ngành dịch vụ, chủ động hội nhập quốc tế" và chương trình số 13 - CTr - TU về "tiếp tục củng cố, đổi mới quan hệ sản xuất, phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực" của Thành uỷ đã xác định: - Phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng để củng cố, phát triển quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện quan hệ phân phối phù hợp với sự phát triển của lượng sản xuất và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo điều kiện để hình thành các quan hệ quản lý và quan hệ phân phối mới phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường, theo hướng khai thác ngày càng cao và có hiệu quả năng lực sản xuất. - Phát triển nguồn nhân lực là động lực để thực hiện thành công xây dựng các ngành dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, bưu chính viễn thông, du lịch, thương mại, y tế, giáo dục; xây dựng các ngành dịch vụ chất lượng cao: dịch vụ thương mại, dịch vụ du lịch thông thường; dịch vụ ngân hàng, tài chính thông thường; vận tải hành khách công cộng, cấp nước, dịch vụ ẩm thực… Các chương trình công tác của Thành uỷ nhấn mạnh vào các vấn đề: · Tăng cường và mở rộng các hình thức đào tạo, nhất là hình thức đào tạo tại các cơ sở sản xuất kinh doanh. · Giành một phần ngân sách cho công tác đào tạo đội ngũ quản lý doanh nghiệp (giám đốc, cán bộ nghiên cứu và ứng dụng) thuộc các thành phần kinh tế. · Phát triển các loại hình đào tạo, đào tạo lại đội ngũ khoa học, công nghệ , các nhà quản lý kinh doanh, quản lý xã hội, công nhân kỹ thuật. · Chú trọng đào tạo một cách cơ bản, chính quy, theo từng chuyên ngành sâu, nắm bắt và am hiểu luật pháp, kỷ cương làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật, không chỉ đối với các cán bộ quản lý hành chính Nhà nước mà đối với cả đội ngũ giám đốc, cán bộ quản lý kỹ thuật, cán bộ tổ chức, tài chính ngân hàng. · Chú trọng đào tạo công nhân kỹ thuật, công nhân bậc cao, nhất là đối với lĩnh vực điện tử, tin học - công nghệ thông tin. · Chăm lo đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, phấn đấu Hà Nội phảid di đầu trong đào tạo nhân tài và nguồn nhân lực chất lượng cao đất nước, trở thành một trung tâm đào tạo có uy tính ở khu vực. Đào tạo nghề là nội dung quan trọng mà các chương trình công tác của Thành uỷ đặc biệt nhấn mạnh, nhằm tạo ra đội ngũ CNKT có tri thức, kỹ năng tiên tiến và thành thạo, đáp ứng được nhu cầu phát triển của thành phần kinh tế. Đặc biệt là nhu cầu sử dụng CNKT lành nghề và lành nghề cao trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp làng nghề. Các chương trình công tác của Thành uỷ (chương trình số 11 - Ctr/TU…) đã xác định các nhiệm vụ trọng tâm của đào tạo nghề cần phải triển khai thực hiện là: · Xây dựng và triển khai có hiệu quả chiến lược đào tạo nghề phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xuất khẩu lao động. · Khắc phục tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về cơ cấu đào tạo nghề; · Đào tạo nghề phải đáp ứng cho các chương trình phát triển kinh tế của thành phố, cung ứng nhân lực CMKT cho các ngành công nghiệp chủ lực phát triển có tính đồng bộ, sử dụng các loại hình công nghiệp tiên tiến và loại hình công nghệ sử dụng nhiều lao động. · Đào tạo nghề đáp ứng cho phát triển các ngành dịch vụ như du lịch, thương mại, tài chính - ngân hàng, y tế, giáo dục, đào tạo, tư vấn, dịch vụ công cộng đô thị; · Đào tạo nghề đáp ứng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nông thôn, phát triển các làng nghề và ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là công nghệ sinh học (nuôi cấy mô, cấy truyền phôi bò sữa, công nghệ trồng rau, hoa trong nhà lưới…) - Đối với ngoại thành Thành phố đều đưa ra các chủ trương về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngoại thành nhằm đáp ứng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các Nghị quyết Đại hội khoá XII, XIII đã xây dựng chương trình 06/CTr-TU, 05 - Ctr - TU, 12-CTr-TU về phát triển kinh tế ngoại thành trong đó khẳng định chủ trương tăng cường đào tạo phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm. · Xây dựng chính sách ưu tiên đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho những vùng chuyển đất nông ngiệp đang phát triển đô thị và công nghiệp. · Khuyến khích đào tạo nghề cho phát triển ngành nghề, phát triển dịch vụ nông thôn; · Xây dựng các chính sách đầu tư xây dựng và nâng cấp các trung tâm dạy nghề, đào tạo nghề mới; · Khuyến khích doanh nhân, cơ sở sản xuất - kinh doanh đào tạo và thu hút lao động nông thôn; · Lập quỹ hỗ trợ đào tạo, chuyển nghề… · Thành lập quỹ khuyến nông để chủ động đầu tư cho các mô hình có hiệu quả, thúc đẩy đào tạo nhân lực và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất; · Khuyến khích và kết hợp chặt chẽ với các Trung tâm khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học trong đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ngoại thành. Cụ thể hơn, các đề án (15 - ĐA/TU) đã nhấn mạnh: Đào tạo nhân lực nông thôn nhằm tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, các công nghệ mới tiên tiến, đặc biệt là công nghệ sinh học nhằm lai tạo, tuyển chọn các giống cây, con mới có chất lượng cao và giá trị kinh tế lớn; công nghệ cao, công nghệ sạch, công nghệ sinh học trong việc tạo và nhân nhanh cây trồng vật nuôi có năng suất, chất lượng tốt, đảm bảo cho sản phẩm sạch an toàn trong sản xuất và bảo quản chế biến nông sản. Đào tạo nhân lực nông thôn cho đáp ứng mở rộng và nâng cao chất lượng ứng dụng công nghệ sau thu hoạch, bảo quản chế biến nông sản, lâm sản như thịt, rau quả… để thúc đẩy sản xuất hàng hoá, nâng cao giá trị nông sản; công nghệ áp dụng tại các Liên hiệp chế biến thực phẩm hiện đại sẽ xây dựng, công nghệ dây chuyền giết mổ và chế biến thịt gà, bò, lợn, công nghệ chế biến rau quả. Phát triển nhân lực nông thôn cung ứng cho các khu công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tập trung (Vĩnh Tuy, Phú Thuỵ, Ninh Hiệp, Cầu Giấy, Từ Liêm, Ngọc Hồi, Cầu Bươu), khu làng nghề tập trung (Bát Tràng, Kiêu Kỵ, Tân Triều, Liên Hà, Vân Hà, Xuân Phương, Hữu hoà Vạn Phúc, Ninh Hiệp, Đình Xuyên), khu công nghệ cao về chế biến nông nghiệp và chế biến nông sản. Đào tạo nhân lực cho phát triển các vùng sản xuất hàng hoá trang trại gắn với thị trường tiêu thụ, công nghiệp chế biến và công nghệ sau thu hoạch. Cung ứng dịch vụ đào tạo, chuyển giao công nghệ cho nông dân các trang trại sản xuất hàng hoá tập trung ở Từ Liêm, Đông Anh; sản xuất rau an toàn tập trung ở Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn; cây ăn quả tập trung ở Sóc Sơn; chăn nuôi bò sữa tập trung ở Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn; chăn nuôi lợn nạc tập trung ở Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn; Thuỷ sản tập trung ở Thanh Trì và vùng trũng ở các huyện Đông Anh, Gia Lâm, Sóc Sơn. Để thực hiện được các chủ trương đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ngoại thành cho các chương trình phát triển kinh tế, cácgiải pháp chính được thành phố đưa ra là: · Tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân viên ngành nông nghiệp và nông dân được tham quan học tập kinh nghiệm của các địa phương trong nước và nước ngoài. · Tăng cường đào tạo nghề cho lớp trẻ ở nông thôn; đầu tư các trung tâm dậy nghề ở các huyện đủ mạnh. Có chính sách đào tạo nghề cho người lao động khi bị thu hồi đất phục vụ công nghiệp hóa, dô thị hoá. · Tiếp tục tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, hợp tác xã và các chủ doanh nghiệp. 2.2.3. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở huyện Đông Anh Hà Nội (trong đó có huyện Đông Anh) là một địa phương có nhiều cố gắng trong đào tạo. Số lượng đào tạo trong 5 năm qua là rất lớn. Tuy nhiên, quy mô của các cơ sở đào tạo tập trung hầu như không thay đổi năm 2005, cũng tương tự như năm 2001. Biểu số 16: Kết quả đào tạo của Hà Nội (và Đông Anh) trong 5 năm 2001 - 2006 Đơn vị: số người tốt nghiệp Hệ đào tạo Tổng số 2001 - 2005 Năm 2001 Năm 2005 Tổng số Hà Nội Trong đó ĐA Tổng số Hà Nội Trong đó ĐA Tổng số Hà Nội Trong đó ĐA 1. Hệ đại học, cao đẳng 280.500 3.000 75.209 340 75.455 577 2. Trung học nghiệp vụ + kỹ thuật 125.620 5.500 31.520 820 31.826 1039 3. Các trường dạy nghề 75.850 4.700 15.976 840 18.500 800 4. Các trung tâm dạy nghề 25.600 1.500 5.700 203 6.900 355 5. Trung tâm dạy nghề tư nhân 5.000 1.000 1.050 200 1.400 250 6. Kèm cặp dạy nghề tư nhân 105.000 5.000 20.000 1.000 23.000 1.030 7. Các hình thức khác 37.000 6.000 5.000 50 9.500 300 Nguồn tài liệu: Báo cáo của UBND huyện Các trường và cơ sở dạy nghề chưa thu hút được hết số học sinh tốt nghiệp cấp III và cấp II thí dụ: theo số liệu 17 - năm học 2004 - 2005 có khoảng 1600 em tốt nghiệp cấp II nhưng được vào cấp III, gần 2000 em tốt nghiệp cấp III không được vào Đại học, cao đẳng. Vậy là số có trình độ văn hoá để học nghề là 3600 em, nhưng chỉ có trên 2000 em vào các cơ sở dạy nghề (đạt khoảng 55%). Qua điều tra thấy rằng: Biểu 17: Số lượng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở/trung học phổ thông/ bổ túc văn hoá/ vào đại học, trung học nghiệp vụ, dạy nghề 2001 - 2005. Năm học Học sinh tốt nghiệp Học sinh vào lớp 10 Học sinh tốt nghiệp PTTH, BTVH (người) Học sinh vào đại học, cao đẳng, THCN, dạy nghề Tổng số (người) Tỷ lệ (%) Vào đại học Vào TH công nghiệp Vào các cơ sở dạy nghề Tổng số (người) Tỷ lệ (%) Tổng số (người) Tỷ lệ (%) Tổng số (người) Tỷ lệ (%) 2001-2002 4.265 2.558 60 3.747 337 10 742 22 843 25 2002-2003 4.196 2.601 62 3.304 363 11 826 25 842 25,5 2003-2004 4.358 2.833 65 5.750 805 14 1.322 23 1.495 26 2004-2005 5.180 3.626 70 3.850 577 15 1.039 27 1.155 30 * Nguồn tài liệu: Báo cáo của UBND huyện Nhiều em không có điều kiện đi học tập trung, lí do quan trọng nhất là thiếu kinh phí học tập. Biểu số 18: Các khó khăn khi tham gia đào tạo của Lao động ở Đông Anh Đơn vị tính: % so với tổng số hộ điều tra Các khó khăn K/v thuần nông K/v có thêm nghề TCN Khu vực đô thị hoá nhanh Ghi chú 1. Thiếu kinh phí cho học tập 52.27 55.00 46.51 2. Không có thời gian thích hợp 27.27 20.00 27.91 3. Không có nghề đào tạo thích hợp 20.45 40.00 18.60 4. Trường đào tạo quá xa 54.55 45.00 27.91 5. Khó khăn khác 2.27 20.000 6.98 Nguồn: phỏng vấn qua phiếu hỏi mỗi khu vực 100 hộ x 3 = 300 hộ Theo biểu 18 có ít nhất 5 khó khăn, cản trở các em đi học nghề trong đó, do thiếu kinh phí học tập; trường quá xa; và không có nghề đào tạo thích hợp là những nguyên nhân đáng quan tâm nhất. Các cơ sở đào tạo tập trung ở Hà Nội mấy năm qua phát triển nhanh, nhưng số cơ sở đào tạo trên đất Đông Anh tăng chậm, trong đó, số cơ sở dạy nghề không thay đổi (theo biểu số 19). Biểu 19: Số lượng cơ sở đào tạo trên địa bàn Hà Nội trong đó có Đông Anh năm 2001 - 2005. Loại cơ sở Số cơ sở có ở năm 2001 Số cơ sở có ở năm 2005 Ghi chú 1. Trường đại học TS Trong đó ở ĐA TS Trong đó ở ĐA 2. Trường cao đẳng 43 49 3. Trường Trung học kinh tế +Nghiệp vụ 30 2 38 3 4. Trường dạy nghề kinh tế - nghiệp vụ 21 2 21 2 5. Trung tâm dạy nghề kinh tế 25 2 25 2 6. Trung tâm dạy nghề các đoàn thể 6 - 7 - 7. Trung tâm dạy nghề tư nhân 45 3 60 4 8. Các hình thức đào tạo khác 140 7 175 12 * Nguồn tài liệu: Niên giám Thống kê Thành phố Hà Nội Biểu 19 cho thấy số lượng cơ sở đào tạo trên địa bàn Đông Anh và cả Hà Nội. Theo điều tra của Trường cao đẳng nay là Đại học Lao động xã hội tháng 11/2003 thì địa chỉ học tập của lao động đã qua đào tạo trong huyện chủ yếu là ở các trường trên địa bàn Hà Nội (số học sinh tại các trường ngoài Hà Nội qua các năm chỉ chiếm 6 - 8%). Lao động đã qua đào tạo tại các khu vực thuần nông chủ yếu học tại các trường đóng trên địa bàn huyện (> 50%); còn ở các vùng có nghề tiểu thủ công nghiệp là 24%, các vùng đô thị hoá nhanh là 22%. Về mặt số lượng theo biểu số 16 thành tích là rất lớn. Cơ cấu ngành nghè ngày càng đa dạng hơn. Mức độ đáp ứng nhu cầu về số lượng theo các ngành nghề thì có sự khác nhau. Theo điều tra ở các xã trong huyện thì ở nghề vật liệu xây dựng là 83,3%; thương mại là 83%; xây dựng 75%; nông lâm nghiệp 75%; các dịch vụ tài chính, ngân hàng 71,3%; kỹ thuật điện 59%; công nghệ thông tin 43%; Dệt may, da giầy 66,3%; chế biến thực phẩm 55%; Nhà hàng, khách sạn 66%. Như vậy, ở các ngành nghề dịch vụ, dệt may, công nghệ thông tin v.v.. tỷ lệ đáp ứng nhu cầu về lượng còn thấp. Một vấn đề nữa cần xem xét là: sự phù hợp giữa ngành nghề được đào tạo và công việc hiện đang làm của người lao động (khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng). Điều tra trên địa bàn các huyện ngoại thành của Hà Nội (trong đó có Đông Anh) Báo cáo của Trường Cao đẳng (nay là đại học) Lao động Hà Nội tháng 11/2003 đã cho các số liệu sau: - Phù hợp là 72,9%; 53,14%; 73,33% tương ứng với 3 khu vực (thuần nông; có nghề tiểu thủ công; đô thị hoá nhanh). - Không phù hợp: 4,65%; 21,88%; 16,67% tương ứng với 3 khu vực (thuần nông, có nghề tiểu thủ công nghiệp, đô thị hoá nhanh). Như vậy, tỷ lệ % phù hợp đối với khu vực ngành nghề là thấp nhất. Ở các vùng này theo yêu cầu của thị trường, nghề nghiệp của người lao động được đổi mới liên tục, khả năng cơ động nghề đào tạo của trường khó có thể đáp ứng được. Biểu 20: Cơ cấu ngành nghề đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề ở Hà Nội Đơn vị: % tổng số người Tên ngành nghề 1999 2001 2002 Ghi chú 1. Tin học, điện tử 19 22.5 22.0 2. Lái xe 18.5 18.2 15.0 3. Xây dựng 15.0 13.2 14.0 4. Cơ khí 11.5 10.5 11.0 5. May mặc 8.5 8.6 9.0 6. Điện, nhiệt 8.0 7.6 8.0 7. Ăn uống, dịch vụ 8.2 8.4 9.2 8. Sửa chữa ô tô, xe máy 5.0 5.1 5.0 9. Nông nghiệp 1.8 1.7 1.8 10. Nghề khác 4.5 4.2 5.0 Nguồn: Báo cáo đào tạo nghề năm 2002 của Sở Lao động thương binh và xã hội Theo biểu số 20, thì chỉ có các ngành nghề: Tin học, may mặc, dịch vụ ăn uống là có sự gia tăng ít nhiều Về chất lượng Theo điều tra của Trường cao Đẳng (nay là Đại học) Lao động xã hội (tháng 11/2003) thì 63.16% nguồn lao động đã tốt nghiệp đang công tác tại các vùng thuần nông đánh giá tốt về cơ cấu và chất lượng đào tạo (số đánh giá trung bình là 36.84%); ở khu vực có nhiều nghề thủ công thì sự đánh giá có khác: đánh giá tốt chỉ còn 59.52%; ở khu vực đang đô thị hoá nhanh chỉ là 49.44%. Như vậy, ở các khu vực mà tiếp cận với những biến động về kinh tế xã hội thì chất lượng đào tạo chưa được đánh giá cao. Đi sâu vào cơ cấu nội dung đào tạo, người sử dụng lao động có ý kiến như sau: Các Doanh nghiệp Nhà nước đánh giá, về lí thuyết ở bậc Đại học 71,4% số người được hỏi đánh giá tốt; về kỹ năng thực hành 42.8% người được đánh giá tốt; ở bậc Cao đẳng các thông số trên là: 75% và 50%; ở bậc trung học các chỉ số trên là: 60% và 40%; ở các trường dạy nghề các thông số trên là: 75% và 50%. Như vậy, với tư cách người sử dụng lao động các doanh nghiệp quốc doanh trong nước đều có chung nhận xét chất lượng đào tạo kỹ năng chưa tốt. Các doanh nghiệp FDI và CNTNHH đánh giá với các thông số tương ứng là: - Đại học: lý thuyết 50% và kỹ năng 50% - Cao đẳng: lý thuyết 60% và kỹ năng 40% - Trung học: lý thuyết 50% và kỹ năng 67% - Dạy nghề: lý thuyết 57% và kỹ năng 42% Với các loại doanh nghiệp này sự đánh giá nghiêm khắc hơn. Các thông số đánh giá về kiến thức lí thuyết và thực hành đều được đánh giá thấp. Về sự phù hợp của các hình thức đào tạo. Theo biểu 16 thì các hình thức đào tạo khá phong phú, đa dạng. Các hình thức chủ yếu là: học tập trung dài hạn; các khoá bồi dưỡng ngắn hạn; kèm cặp tại các loại doanh nghiệp. Có thể do Nhà nước tổ chức, các tổ chức đào tạo do các thành phần kinh tế tập thể tư nhân đảm nhận. Với các trường dạy nghề tập trung dài hạn có kinh nghiệm đào tạo nhiều năm. Tuy nhiên, cũng có những bất cập về chương trình đào tạo, cơ sở vật chất chưa đáp ứng nhu cầu mới; đặc biệt trong điều kiện người lao động khó khăn về kinh phí, không có trình độ văn hoá đủ yêu cầu qui định, không đi xa gia đình dài ngày được thì hình thức này lại không đủ sự mềm dẻo để đáp ứng yêu cầu của nhóm người lao động này. Qua điều tra cho thấy động cơ theo học của người lao động trước hết là tìm việc làm ở khu vực thuần nông nghiệp động cơ này theo điều tra là 98.4% so với tổng số lao động tham gia đào tạo; ở khu vực có nghề tiểu thủ công nghiệp là 60,56%; khu vực đô thị hoá nhanh là gần 80%. Động cơ rời bỏ nghề nông để vào thành phố làm việc với ngành mới (ngành chọn để được đào tạo) chiếm tỷ lệ cao. Ở vùng có ngành nghề tiểu thủ công nghiệp động cơ tiếp tục làm các nghề truyền thống được coi trọng. Nghiên cứu động cơ tham gia đào tạo, những khó khăn của người tham gia đào tạo có thể thấy hình thức đào tạo phù hợp là một biện pháp quan trọng để thu hút người lao động tham gia đào tạo. Về phía các cơ sở đào tạo: không kể các cơ sở đào tạo được Nhà nước tổ chức. Các cơ sở đào tạo tư nhân. Theo điều tra của chúng tôi thi tỷ lệ số hộ tham gia đào tạo nghề, chủ yếu là nghề truyền thống, ở khu vực thuần nông là: 2,86%; ở khu vực có nghề tiểu thủ công nghiệp là 28.21%; ở khu vực đô thị hoá nhanh là 8,7%. Như vậy, là số hộ tham gia đào tạo là rất đông. Mục đích tham gia đào tạo ở khu vực thuần nông 25% để có thêm thu nhập; 50% đào tạo để bổ xung cho nguồn nhân lực của gia đình, 25% đào tạo giúp đỡ các hộ khác ở khu vực có nghề tiểu, thủ công nghiệp các tỷ lệ tương ứng là: 4.55%; 90,91%; 4,64%; ở khu vực đô thị hoá nhanh các tỷ lệ tương ứng là: 12,5%; 62,5%; 25%. Như vậy, mục tiêu đào tạo của các gia đình là để phục vụ cho phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho cơ sở nghề nghiệp của chính họ và người thân; Mục tiêu kiếm tiền từ kinh doanh đào tạo còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Vì vậy ở các vùng này truyền nghề là chính chứ chưa phải đào tạo bài bản. - Vấn đề đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp cho nông dân các vùng bị thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp tập trung và các đô thị. Biểu số 21: Tình hình thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở huyện Đông Anh Năm Tổng diện tích bị thu hồi đất (ha) Số hộ bị thu hồi đất Tổng số hộ Trong đó mức độ thu hồi 30% 30-70% Trên 70% 100% 2001 3,5 1.500 1.000 500 - - 2002 60 2.700 800 1.500 400 - 2003 120 3.600 1.500 1.600 500 - 2004 150 4.000 2.000 1.550 450 - 2005 160 4.200 2.200 1.600 400 - Tổng số 493.5 16.000 7.500 6.750 1.750 Nguồn: Báo cáo của UBND huyện Đông Anh Từ năm 2001 đến 2005 Đông Anh đã thu hồi gần 500 ha đất nông nghiệp phục vụ phát triển 78 dự án công nghiệp và đô thị. Ảnh hưởng đến công việc làm của 16.000 hộ nông dân (với gần 50.000 lao động). Đặc biệt có gần 9000 lao động (với gần 30.000 lao động) bị thu hồi đất với tỷ lệ cao, khó có thể tiếp tục nghề nông. Biểu số 22: Tình hình việc làm của dân cư vùng bị thu hồi đất sau khi thực hiện thu hồi Đơn vị tính: % Tên vùng Tổng số lao động Tiếp tục nghề cũ Chuyển hẳn sang nghề mới Xen kẽ cả nghề cũ + mới Số được qua đào tạo Số chưa có nghề nghiệp và chưa có việc làm KCN Bắc Thăng Long 100 25 20 50 5 5 KCN Nguyên Khê 100 50 15 32 3 3 Làng nghề Vân Hà 100 70 10 18 4 2 * Nguồn: Báo cáo của UBND huyện Đông Anh Theo báo cáo của Huyện Đông Anh thì ở các vùng thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp tập trung Bắc Thăng Long chỉ có 25% là có thể tiếp tục nghề nông, số còn lại có nhu cầu chuyển đổi nghề nghiệp. Ở các khu, cụm công nghiệp làng nghề, mặc dù đã có nghề thủ công nghiệp truyền thống nhưng chỉ đủ thu hút được 50-70% số lao động nếu có đào tạo. Thực tế ở các vùng bị thu hồi đất, mặc dù chính quyền và nhân dân đều rất cố gắng sắp xếp, tạo việc làm cho nhân dân nhưng đến nay vẫn còn 2¸3¸5% người bị thu hồi đất chưa có việc làm, gây nên những bất ổn về xã hội. Vấn đề đào tạo ở các vùng bị thu hồi đất đặt ra rất bức xúc vì nó gắn với tạo việc làm, nghề nghiệp mới cho những nông dân đã bị thu hồi mất tư liệu sản xuất cơ bản là ruộng đất. Khối dân cư và lao động lại có những đặc điểm riêng đòi hỏi các phương thức đào tạo phù hợp. Các đặc điểm đó là: độ tuổi, trình độ văn hoá, gánh nặng gia đình v.v.. và đặc biệt là thời gian giải quyết lại rất gấp gáp (gắn với tiến độ thu hồi đất). Thực tế những năm qua dân cư các vùng bị thu hồi đất tự do chuyển đổi nghề nghiệp để kiếm sống là chính, tỷ lệ được qua đào tạo rất thấp 3¸4¸5%, thậm chí đến nay vẫn còn khoảng 5% lao động chưa có việc làm. Theo điều tra của chúng tôi thì các hướng tự học hỏi để chuyển nghề như sau: + Một số có độ tuổi lao động trẻ đi làm thuê và qua đó học nghề thủ công ở các làng có nghề. + Một số, nhất là phụ nữ chuyển học các nghề dịch vụ thương mại phục vụ con người, may mặc. Nam giới thì dịch vụ sửa chữa cơ khí, môi trường, vận tải, xây dựng, vi tính, văn phòng quanh các khu công nghiệp đô thị mới. + Một số được tuyển làm việc tại các nhà máy trong các khu công nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ địa phương Đông Anh không nhiều. + Một số sử dụng kinh phí được bồi thường tiếp tục làm nông nghiệp nhưng tính chất nông nghiệp thành thị rõ hơn (như trồng cây ăn quả, hoa, cây cảnh, chăn nuôi công nghiệp v.v..). Chính quyền thành phố và huyện đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên, tác động của nó còn rất hạn chế bởi nhiều khó khăn: + Hướng ngành nghề đào tạo không chủ động trước được, bởi quy hoạch đào tạo không được xây dựng đồng bộ với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế và quy hoạch sử dụng đất, thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Nên các trường đào tạo, các trung tâm dạy nghề rất lúng túng. Những người lao động cũng không biết học nghề gì để bảo đảm là nếu bị thu hồi đất thì chắc chắn có chỗ, có nghề để làm việc. + Theo quy định tại điều 29 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP thì "Hộ gia đình và cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp thì được hỗ trợ đào tạo chuyển dổi nghề nghiệp cho người trong độ tuổi lao động, mức hỗ trợ lao động cụ thể và số lao động cụ thể do UBND tỉnh (thành phố) cho phù hợp với thực tế tại địa phương. Việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu bằng hình thức cho đi học nghề tại các cơ sở dạy nghề…" UBND thành phố qui định: nếu bị thu hồi 30¸50% diện tích đất thì hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiẹp cho 1 lao động; nếu thu hồi từ 50¸70% diện tích đất thì hỗ trợđào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho 2 lao động; nếu thu hồi trên 70% diện tích đất thì hỗ trợ toàn bộ lao động của hộ đó. Mức hỗ trợ cho 1 định xuất lao động là 3,8 triệu đồng. Quy định này của nghị định 197/2004/NĐ-CP là chưa hợp lý ở các điểm sau: về trách nhiệm đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp là để người dân phải tự lo là chính, Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần (bằng kinh phí). Học nghề gì Nhà nước không có trách nhiệm. Về công tác tổ chức và lựa chọn hình thức đào tạo Nhà nước cho rằng: "chủ yếu bằng hình thức cho đi học nghề nghề tại các cơ sở dạy nghề"v.v... Các cơ sở dạy nghề chỉ có thể tiếp nhận các lao động trẻ, có trình độ văn hoá. Vậy với lao động trung niên và hơn nữa thì sao? Qua số liệu điều tra nhu cầu và những khó khăn khi người lao động tham gia đào tạo ta thấy cần phải đa dạng các loại hình đào tạo. Đặc biệt chú ý các hình thức tổ chức đào tạo ngắn ngày và tại chỗ. Nhà nước lại không có chính sách cho loại hình này. Qua nghiên cứu thực trạng đào tạo nhân lực ở Đông Anh cho thấy: - Các cơ sở đào tạo tập trung ở Hà Nội là địa điểm học tập của người lao động Đông Anh. Số lượng đào tạo 5 năm qua là rất lớn, nhưng tỷ lệ đã qua đào tạo của đội ngũ lao động Đông Anh vẫn còn thấp. - Nhu cầu ngành nghề đào tạo ngày càng đa dạng. Ở một số ngành nghề hệ thống đào tạo hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu; Sự phù hợp giữa các ngành nghề đào tạo với công việc đang đảm nhận cũng chưa cao. - Chất lượng đào tạo, đặc biệt chất lượng đào tạo kỹ năng thực hành của các cơ sở đào tạo là t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThS07.docx
Tài liệu liên quan