Lời cam đoan. i
Lời cảm ơn . ii
Tóm lược luận văn . iii
Danh mục các từ viết tắt và ký hiệu. iv
Danh mục các bảng . vi
Mục lục. viii
PHẦN MỞ ĐẦU.1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU NSNN VÀ CƠ CHẾ PHÂN
CHIA NGUỒN THU NSNN .5
1.1. THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CƠ CHẾ PHÂN CHIA NGUỒN THU
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC .5
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thu ngân sách nhà nước.5
1.1.1.1. Khái niệm về thu ngân sách nhà nước .5
1.1.1.2. Đặc điểm của thu ngân sách nhà nước.6
1.1.2. Cơ chế phân chia nguồn thu NSNN.7
1.1.3. Nội dung của thu NSNN và các nhân tố ảnh hưởng .8
1.1.3.1. Nội dung của thu NSNN .8
1.1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN.13
1.2. Phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách .15
1.2.1. Sự cần thiết phải phân chia nguồn thu .15
1.2.2. Các nguyên tắc phân chia nguồn thu .16
1.2.3. Các cơ chế chính trong phân chia nguồn thu .17
1.3. Vai trò của thu ngân sách nhà nước và phân chia nguồn thu ngân sách đối với
phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường .21
1.3.1. Thu ngân sách và phân chia nguồn thu ngân sách góp phần điều chỉnh nền
kinh tế, phân bổ nguồn lực xã hội .22
1.3.2. Thu ngân sách và phân chia nguồn thu ngân sách góp phần điều hòa thu nhập,
thực hiện công bằng xã hội trong phân phối .23
123 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 551 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện cơ chế phân chia nguồn thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu từ cấp quyền sử dụng đất... Vì
vậy, trong quá trình đánh giá cơ chế phân chia nguồn thu, tác giả chỉ sử dụng những
khoản thu trong phần thu cân đối để đánh giá, phân tích.
2.2.4.1. Đánh giá tình hình thu cân đối ngân sách các huyện, thành phố tỉnh
Quảng Bình giai đoạn 2004 - 2006 và giai đoạn 2007 - 2010
Với nguồn thu được phân chia giữa các cấp ngân sách trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình giai đoạn 2004 - 2006 và giai đoạn 2007 - 2010, ta có phần số liệu
được thể hiện ở bảng 2.5.
Nhìn vào bảng số liệu 2.5 ta thấy: Tổng thu cân đối giai đoạn 2007 - 2009
đạt 922.598 triệu đồng, tăng 86,76% so với giai đoạn 2004 - 2006. Hầu hết các
khoản thu trong giai đoạn ổn định 2007 - 2009 đều vượt so với giai đoạn ổn định
2004 - 2006. Trong đó, các khoản thu đạt tỷ lệ tăng khá cao là thu DNQDĐP đạt
2.236 triệu đồng (tăng 117,9%), thuế CTN và DVNQD đạt 198.640 triệu đồng (tăng
81,35%), lệ phí trước bạ đạt 79.358 triệu đồng (tăng 327,17%), thuế nhà đất đạt
14.434 triệu đồng (tăng 68,44%), thuế chuyển quyền sử dụng đất đạt 17.709 triệu
đồng (tăng 83,97%), thu tiền sử dụng đất đạt 543.187 triệu đồng (tăng 102,03%).
Các khoản thu còn lại giảm là do chính sách, chế độ nhà nước ban hành có sự thay
đổi như miễn thu thuế sử dụng đất nông nghiệp, các khoản thu phí trước đây (phí
cầu phà) nộp vào ngân sách nhà nước nay đã chuyển sang hình thức BOT.
Thu cân đối NSĐP được hưởng (bao gồm: thuế sử dụng ĐNN, tiền thuê đất
được điều tiết từ Cục thuế tỉnh) giai đoạn 2007 - 2009 đạt 657.297 triệu đồng, tăng
51,32% so với giai đoạn 2004 - 2006. Tuy nhiên, tỷ lệ thu cân đối NSĐP được
hưởng so với tổng thu cân đối giai đoạn 2007 - 2010 đạt 71,24%, thấp hơn so với
giai đoạn 2004 - 2006 (87,93%). Sở dĩ như vậy là do thu tiền đất trong giai đoạn
2007 - 2009 tăng cao (chủ yếu ở địa bàn thành phố Đồng Hới), vì thế khoản thu này
được điều tiết về cho tỉnh nhiều hơn.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
H T
Ế H
UÊ
́
45
Bảng 2.5: Tổng hợp thu cân đối các huyện, thành phố tỉnh Quảng Bình
Đơn vị tính: triệu đồng
STT Chỉ tiêu
Thu giai đoạn 2004 - 2006 Thu giai đoạn 2007 - 2009 So sánh
(%) giai
đoạn 07- 10
và giai
đoạn 04-06
Tổng số
TH
2004
TH
2005
TH
2006
Tổng số
TH
2007
TH
2008
TH
2009
A B 1=2+3+4 2 3 4 5=6+7+8 6 7 8 9=5/1x100
Tổng thu cân đối (1 đến 9) 494.005 124.214 168.036 201.755 922.598 260.687 320.496 341.415 186,76
Tr.đó: Thu cân đối NSĐP được hưởng 434.379 111.750 149.286 173.343 657.297 191.876 246.005 219.416 151,32
1 Thu DNQD ĐP (thuế tài nguyên) 1.030 230 250 550 2.236 1.500 469 267 217,09
2 Thuế CTN và DV NQD 109.535 26.395 36.620 46.520 198.640 60.810 72.680 65.150 181,35
3 Lệ phí trước bạ 18.569 3.465 3.622 11.482 79.358 18.178 25.200 35.980 427,37
4 Thuế sử dụng ĐNN 634 190 215 229 564 218 338 8 88,96
5 Thuế nhà đất 8.569 2.077 3.254 3.238 14.434 3.564 4.275 6.595 168,44
6 Thu tiền thuê đất 21.447 4.510 6.275 10.662 14.160 13.064 483 613 66,02
7 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 9.626 3.892 2.970 2.764 17.709 3.685 7.216 6.808 183,97
8 Thu tiền Sử dụng đất 268.870 64.470 96.700 107.700 543.187 146.038 188.685 208.464 202,03
9 Thu phí và lệ phí 24.960 7.675 7.710 9.575 16.430 5.410 5.140 5.880 65,83
10 Thu khác của các huyện và xã 30.765 11.310 10.420 9.035 35.880 8.220 16.010 11.650 116,63
(Nguồn: Sở Tài chính và tính toán của tác giả)
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
46
2.2.4.2. Đánh giá tình hình phân chia thu cân đối ngân sách tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2007 – 2010
Bảng 2.6: Tổng hợp thu cân đối ngân sách tỉnh Quảng Bình
Đơn vị tính: triệu đồng
STT Chỉ tiêu
Thực hiện qua các năm
Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Ước TH năm 2010
A B Tổngsố
NS
tỉnh
NS
huyện,
xã
Tổng
số
NS
tỉnh
NS
huyện,
xã
Tổng
số
NS
tỉnh
NS
huyện,
xã
Tổng
số
NS
tỉnh
NS
huyện,
xã
Tổng thu cân đối 574.104 313.417 260.687 640.016 319.520 320.496 747.486 406.071 341.415 921.300 476.660 444.640
1 Thu DNQD TW 92.511 92.511 100.400 100.400 128.980 128.980 113.000 113.000
2 Thu DN QD ĐP 92.674 91.174 1.500 110.000 109.531 469 122.845 122.578 267 133.500 133.100 400
3 Thu từ DN có vốn
ĐTNN
1.013 1.013 800 800 663 663 300 300
4 Thu ngoài QD 94.897 34.087 60.810 124.000 51.320 72.680 141.900 76.750 65.150 215.000 125.820 89.180
5 Thuế SD đất NN 1.264 1.046 218 1.600 1.262 338 1.808 1.800 8 2.000 2.000
6 Lệ phí trước bạ 21.178 3.000 18.178 25.200 0 25.200 35.980 0 35.980 52.700 50 52.650
7 Thuế chuyển
quyền SD đất
4.736 1.051 3.685 7.216 0 7.216 1.219 0 1.219 200 70 130
8 Thuế nhà đất 3.564 0 3.564 4.300 25 4.275 6.595 0 6.595 7.200 62 7.138
9 Thu tiền thuê đất 13.064 0 13.064 14.000 13.517 483 14.413 13.800 613 18.500 17.443 1.057
10 Tiền bán nhà
thuộc SHNN
1.497 1.497 0 0 0
11 Thuế thu nhập 1.265 1.265 3.000 3.000 10.589 5.000 5.589 19.800 7.545 12.255
12 Phí và lệ phí 17.136 11.726 5.410 16.500 11.360 5.140 18.880 13.000 5.880 26.400 21.090 5.310
13 Thu tiền cấp đất 189.594 43.556 146.038 190.000 1.315 188.685 208.464 0 208.464 270.000 3.800 266.200
14 Phí xăng dầu 23.389 23.389 24.000 24.000 38.500 38.500 48.000 48.000
15 Thu khác 16.322 8.102 8.220 19.000 2.990 16.010 16.650 5.000 11.650 14.700 4.380 10.320
(Nguồn : Sở Tài chính và tính toán của tác giả)
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
47
Với số liệu ở bảng 2.6, chúng ta thấy rằng các khoản thu chiếm tỷ trọng lớn
như: thu từ DNQDTW, thu từ DNQDĐP trong giai đoạn 2007 - 2010 đều được điều
tiết về cho tỉnh hưởng gần như 100%, ngân sách cấp huyện chỉ thu được phần điều
tiết từ thuế sử dụng đất nông nghiệp của các DNQDĐP. Đối với khoản thu ngoài
quốc doanh, mặc dù đã được phân cấp nhiều hơn cho huyện quản lý. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế, số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh
phát triển tăng nhanh, nhưng tỷ lệ khoản thu này lại giảm dần qua các năm, năm
2007 chiếm tỷ lệ 64,08%, năm 2008 chiếm tỷ lệ 58,61%, đến năm 2010 tỷ lệ này
chỉ còn 41,48% trong tổng số thu ngoài quốc doanh của toàn tỉnh. Đây là những
khoản thu mang tính chất định hướng của nền kinh tế. Tuy nhiên, ngân sách cấp
huyện chỉ được phân chia một phần rất nhỏ bé. Các khoản thu còn lại vừa thực hiện
điều tiết cho huyện hưởng 100%, vừa thực hiện phân chia như thu tiền sử dụng đất,
lệ phí trước bạ, tiền thuê đất. Ngoài khoản thu tiền sử dụng đất có số thu lớn, các
khoản thu còn lại chỉ chiếm một phần không đáng kể.
Với nguồn thu được phân chia trong tổng thu cân đối, ngân sách huyện và xã
chiếm tỷ lệ bình quân trong giai đoạn 2007 - 2010 là 47% (xem số liệu ở bảng 2.7).
Tuy nhiên, sau khi trừ đi phần điều tiết về cho tỉnh (căn cứ vào số liệu ở bảng 2.5)
năm 2007: 68.881 triệu đồng, năm 2008: 74.491 triệu đồng, năm 2009: 121.999
triệu đồng, năm 2010: 158.870 triệu đồng thì ngân sách huyện và xã chỉ được
hưởng bình quân khoảng 33% trong tổng thu cân đối ngân sách toàn tỉnh giai đoạn
2007 - 2010..
Qua phần số liệu phân tích ở trên cho chúng ta thấy rằng, với cơ chế phân
chia nguồn thu hiện tại, tỷ lệ các khoản thu được phân cấp cho ngân sách cấp
huyện và xã đang còn ở mức khiêm tốn. Vì thế, chưa tạo ra động lực cho chính
quyền cấp dưới trong khai thác các nguồn thu. Do vậy, cần thiết phải có sự đổi
mới theo hướng phân cấp nhiều hơn các khoản thu điều tiết cho ngân sách cấp
huyện và xã.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
48
Bảng 2.7: Bảng tổng hợp phân chia phần thu cân đối ngân sách
tỉnh Quảng Bình
Đơn vị tính: triệu đồng
STT Chỉ tiêu Giai đoạn 2007 - 2010
TH 2007 TH 2008 TH 2009 ƯTH 2010
A B 1 2 3 4
Tổng thu cân đối 574.104 640.016 747.486 921.300
1 Ngân sách tỉnh 313.417 319.520 406.071 476.660
2 Ngân sách huyện 260.687 320.496 341.415 444.640
3 Tỷ lệ %
- Tỉnh 55 50 54 52
- Huyện 45 50 46 48
(Nguồn: Sở Tài chính và tính toán của tác giả)
2.2.4.3. Đánh giá thu nội địa với tổng chi ngân sách tỉnh Quảng Bình giai đoạn
2007 - 2010
Do nguồn thu ngân sách trên địa bàn toàn tỉnh đang còn hạn chế, chủ yếu
được bổ sung từ NSTW để thực hiện các nhiệm vụ chi. Do vậy, để có một cách nhìn
cụ thể và thực tế hơn, chúng ta chỉ đánh giá phần thu nội địa so với tổng nhu cầu chi
trên địa bàn. Bởi vì, nguồn thu này được xem như là xương sống của nền kinh tế,
bao quát được tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn tỉnh.
Nhìn vào số liệu ở bảng 2.8, ta thấy rằng tổng thu nội địa trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình tăng bình quân 14,28% qua các năm, tỷ lệ này đã đáp ứng được yêu cầu
tăng thu hàng năm của Chính phủ. Tuy nhiên, tốc độ tăng chi trong giai đoạn này khá
cao với tỷ lệ bình quân 29,94% nên nguồn thu của tỉnh chỉ đáp ứng được khoảng một
phần ba (1/3) nhiệm vụ chi. Vì thế, trong những năm sắp tới, để đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của tỉnh và chủ động hơn trong điều hành ngân sách của các cấp chính quyền địa
phương, điều cần thiết là phải làm thế nào để khuyến khích các địa phương khai thác
tốt nguồn thu này.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
49
Bảng 2.8: Tổng hợp thu nội địa và tổng chi ngân sách tỉnh Quảng Bình
Đơn vị tính: triệu đồng
STT Chỉ tiêu
Giai đoạn 2007 - 2010
TH 2007 TH 2008 TH 2009 ƯTH 2010
A B 1 2 3 4
1 Thu nội địa 790.836 835.271 952.524 1.173.300
Bao gồm:
- Thu cân đối 574.104 640.016 747.486 921.300
- Các khoản thu để lại chi
quản lý qua NSNN 216.732 195.255 205.038 252.000
2 Tổng chi NSĐP(*) 1.966.447 2.363.678 3.533.148 4.245.065
Tr.đó: - Chi đầu tư phát triển 273.226 281.190 702.432 753.600
- Chi thường xuyên 1.080.821 1.279.145 1.770.698 2.244.685
3 Tỷ lệ %(Thu/Chi x 100) 40 35 27 28
(Nguồn : Sở Tài chính và tính toán của tác giả)
(*) : Đã loại trừ phần chi tiền vay, chi chuyển nguồn sang năm sau, chi kết
dư ngân sách năm trước
2.2.4.4. Nhận xét chung về tình hình thực hiện cơ chế phân chia nguồn thu ngân
sách trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2007 - 2010
* Ưu điểm:
Các khoản thu phân, chia đã phân cấp nhiều hơn so với giai đoạn 2004 -
2006 cho chính quyền cấp dưới, góp phần nâng cao tính chủ động cho các địa
phương trong cân đối ngân sách, phát huy tính tích cực, sáng tạo trong khai thác
nguồn thu. Cụ thể: Các khoản thu trước đây ngân sách tỉnh được hưởng 100%, nay
điều tiết cho ngân sách cấp huyện hưởng 100% hoặc phân chia theo tỷ lệ phần trăm
(%) cho ngân sách cấp huyện như: Tiền thuê mặt đất, mặt nước; Thu xử phạt
ATGT; Thu tiền cấp quyền sử dụng đất ở các phường và giảm dần các khoản thu
phân chia giữa ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp huyện. Đặc biệt, trong đó phải
kể đến các khoản thu về thuế GTGT, thuế TNDN, thuế TTĐB, thuế tài nguyên của
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
50
doanh nghiệp NQD và HTX đã chuyển từ phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) nay đã
chuyển sang hình thức điều tiết 100% cho ngân sách cấp huyện đối với những đơn
vị do Chi cục thuế cấp huyện thu hay nói cách khác là vừa phân vừa chia để quản lý
thu giữa cấp tỉnh và cấp huyện.
Với sự phân cấp đó, nguồn thu trong giai đoạn 2007 - 2010 đã tăng cao hơn
rất nhiều so với thời kỳ ổn định giai đoạn 2004 - 2006, góp phần đáp ứng nhiệm vụ
chi cho ngân sách cấp huyện (bao gồm cả xã). Chính quyền cấp xã đã thực sự trở
thành một cấp ngân sách trong hệ thống NSNN, được phân chia nguồn thu nhiều
hơn. Trên địa bàn toàn tỉnh đã có 7/159 xã tự cân đối được thu, chi thường xuyên,
một số xã có giành phần cho chi đầu tư phát triển như điện, đường, trường,
trạm....Trong khi đó, giai đoạn 2004 - 2006 chỉ có một vài xã tự túc được ngân sách.
Do được phân cấp, phân quyền nên chính quyền địa phương đã thực sự quan
tâm, chăm lo nuôi dưỡng và khai thác nguồn thu, xem việc thu ngân sách là công
tác chính trị trọng tâm của mọi cấp ủy và chính quyền các cấp. Các cấp chính quyền
vừa tạo thêm nguồn thu, vừa đôn đốc thu nộp đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu đúng
hạn theo luật định. Chính nhờ vậy, mà liên tục từ năm 2007 đến năm 2010, mặc dù
vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn do thiên tai, những biến động bất thường của thị
trường... nhưng thu cân đối ngân sách của các địa phương và toàn tỉnh luôn vượt dự
toán đề ra.
Luật ngân sách cho phép ổn định tỷ lệ phân chia nguồn thu từ 3 - 5 năm đã
tạo cho các địa phương có điều kiện khai thác tăng các nguồn thu để đáp ứng nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Nhờ số thu vượt, một số địa phương đã
giải quyết được nhu cầu bức bách trong đầu tư và tiêu dùng, có điều kiện đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và giải quyết những vấn đề cấp bách cho xã hội.
Cơ cấu chi cho từng ngành, từng lĩnh vực đã có từng bước chuyển biến tích
cực và dần được bố trí lại phù hợp hơn, đảm bảo tốc độ tăng chi của một số nhiệm vụ
trọng yếu như giáo dục đào tạo, y tế, đảm bảo xã hội, quốc phòng - an ninh..., nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và góp phần ổn định chính trị - xã hội
của tỉnh nhà.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
51
Các cơ quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp huyện như Phòng Tài
chính - Kế hoạch, Chi cục thuế và các ban, ngành liên quan đã làm tốt chức năng và
nhiệm vụ trong việc đề xuất phương án thực hiện cơ chế phân cấp nguồn thu trên
địa bàn mình quản lý; Vai trò, nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân tỉnh
được tăng cường và phân định rõ ràng hơn trong việc xem xét, quyết định cơ chế
phân cấp nguồn thu giữa các cấp ngân sách trên địa bàn tỉnh.
Bộ máy thu nộp của cơ quan thuế ở các địa phương đã ngày càng kiện toàn, năng
lực quản lý từng bước được nâng lên phù hợp với tiến trình phát triển của nền kinh tế, thể
hiện ở việc phân cấp các khoản thu ngân sách được hưởng 100% nhiều hơn, giảm dần
các khoản thu phân chia với chính quyền cấp dưới như đã phân tích ở trên.
Từ những phân tích đó, một lần nữa cho phép chúng ta khẳng định lại, cơ
chế phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2007 -
2010 đã có những bước tiến cơ bản so với thời kỳ trước, mạnh dạn hơn trong việc
phân và chia nguồn thu, tăng tính chủ động và sáng tạo hơn trong khai thác nguồn
thu cho ngân sách cấp dưới. Việc phân công, phân cấp giữa các cấp chính quyền địa
phương ngày càng rõ ràng, minh bạch hơn, hạn chế sự ỷ lại, trông chờ của ngân
sách cấp dưới, đẩy nhanh công cuộc cải cách hành chính công.
* Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cơ chế phân chia nguồn thu giữa ngân
sách chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình vẫn còn một số khiếm
khuyết, chưa phù hợp với tình hình mới, công tác quản lý ngân sách ở một số địa
phương còn một số tồn tại, vướng mắc chủ yếu sau đây:
Tính tự chủ của chính quyền các cấp đang còn bị động, nhất là vào thời kỳ
đầu của giai đoạn ổn định tỷ lệ điều tiết (từ 3 đến 5 năm), hiện tượng giằng co
nguồn thu giữa các cấp vẫn còn xảy ra và căng thẳng trong quá trình phân cấp và
giao dự toán đầu năm. Các địa phương đều muốn phân chia nhiều hơn các khoản
thu về ngân sách cấp mình quản lý, trong khí đó nhiệm vụ chi thì không thay đổi
hoặc có thay đổi không đáng kể làm cho tỷ lệ phân chia trong nội bộ các cấp ngân
sách địa phương rất phức tạp, khó thực hiện và rất dễ tùy tiện, làm cho khó khăn
ngân sách bị đẩy dồn xuống cấp xã.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
52
Mặt khác, do nguồn thu ngân sách của tỉnh còn hạn chế chỉ đáp ứng được
hơn một phần ba (1/3) nhu cầu chi, số còn lại là nhờ vào trợ cấp của ngân sách
Trung ương. Do vậy, để đảm bảo nhiệm chi và có phần chủ động hơn trong việc
điều hành ngân sách. Các địa phương đều “cố gắng đấu tranh” để giành nguồn thu
nhiều hơn là điều tất yếu. Trong khi đó nguồn thu là có hạn, dẫn đến việc phân chia
nguồn thu đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Việc thống nhất ý kiến giữa các địa phương trong toàn tỉnh để xây dựng nên
cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi thường rất phức tạp, giữa cấp xã với
nhau trong từng huyện, giữa từng huyện với nhau trong tỉnh và giữa cấp tỉnh với
cấp huyện. Do vậy, để có một cơ chế thống nhất với sự đồng thuận cao, cần phải có
sự đổi mới trong quy trình xây dựng cơ chế phân chia nguồn thu cũng như nhiệm vụ
chi phù hợp hơn với đặc điểm của từng địa phương là điều cần thiết.
Mặc dù tỷ lệ phân chia nguồn thu đã điều tiết nhiều hơn cho chính quyền cấp
huyện (bao gồm cả xã) so với thời kỳ trước nhưng tỷ lệ động viên vào ngân sách cấp
huyện chỉ chiếm một phần khá khiêm tốn trong tổng thu ngân sách và có xu hướng
ngày càng giảm dần. Hơn nữa, một số khoản thu phân chia chưa hợp lý cùng với nhu
cầu chi ngày càng tăng cao, một số địa phương còn lấy bớt đi những khoản thu đáng
lẽ phân cấp cho chính quyền cấp dưới dẫn đến hiện tượng hụt thu, đặc biệt là ngân
sách cấp xã. Trong quá trình phân chia nguồn thu, dường như các cấp ngân sách chỉ
chú ý đến các khoản thu chiếm tỷ trọng lớn như: Thu từ XNQD trung ương, địa
phương; thu ngoài quốc doanh và thu tiền sử dụng đất mà chưa chú ý đến các khoản
thu có tỷ trọng nhỏ dẫn đến hiện tượng bỏ ngõ hoặc thiếu trách nhiệm trong việc quản
lý một số nguồn thu của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến đến việc hoàn thành dự toán
cũng như thực hiện nhiệm vụ chi đã giao đầu năm.
Việc bổ sung “có mục tiêu" cho ngân sách cấp dưới để thực hiện các nhiệm
vụ chi “đột xuất” từ ngân sách cấp tỉnh cho huyện, từ ngân sách cấp huyện cho xã
vẫn diễn ra hàng năm và có xu hướng ngày càng tăng cao. Cụ thể: ngân sách cấp
tỉnh bổ sung cho ngân sách cấp huyện bình quân năm 2007: trên 13 tỷ đồng; năm
2008: trên 15 tỷ đồng; năm 2009: gần 20 tỷ đồng, năm 2010: trên 20 tỷ đồng. Các
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
53
nhiệm vụ chi này do cấp dưới đảm nhận nhưng không đủ nguồn để thực hiện nên
“bắt buộc” tỉnh phải trích bổ sung.
Trong quan hệ giữa ngân sách cấp tỉnh và cấp huyện, việc điều chuyển các
nguồn thu về tỉnh là hết sức cần thiết để thực hiện những nhiệm vụ chi quan trọng
trong toàn tỉnh. Mặt khác, việc điều chuyển đó nhằm điều hòa nguồn thu giữa các
địa phương. Các địa phương đều nhận thức được rằng, không phải là số thu NSNN
phát sinh ở huyện nào thì huyện đó được hưởng và quyền lợi của huyện bị xâm
phạm khi phần lớn các nguồn thu tại địa phương mình lại điều chuyển về cho tỉnh.
Nhưng do hệ thống chính sách thuế quy định mà những khoản thu đó phân bổ
không đều, có địa phương tập trung nhiều nguồn thu nhưng có địa phương tập trung
ít nguồn thu. Tuy nhiên điều muốn đề cập ở đây là việc điều chuyên các nguồn thu
về ngân sách tỉnh phải đảm bảo mức độ hợp lý để tránh tình trạng nộp lên rồi lại cấp
về (dưới dạng bổ sung ngân sách) và tránh thái độ tiêu cực, không quan tâm đến
nguồn thu của các cấp chính quyền địa phương.
Mặt khác, qua thực tiễn cho thấy, dù có phân cấp mạnh cho địa phương thì
đại bộ phận các địa phương đều không có khả năng cân đối thu, chi. Do đó, dù các
địa phương có giữ lại 100% những khoản thu phát sinh trên địa bàn lẽ ra phải điều
tiết về tỉnh thì vẫn phải trợ cấp thêm một phần mới cân đối được ngân sách. Do đó,
phạm vi các khoản thu ngân sách tỉnh hưởng 100% tăng bao nhiêu thì số phải trợ
cấp lại cho huyện (thành phố) bấy nhiêu. Vấn đề đặt ra là có nên đưa về tỉnh những
khoản thu phát sinh ở các địa phương này nữa hay không? Và các khoản thu thuộc
diện phân chia giữa ngân sách tỉnh và ngân sách 7 huyện, thành phố phải được thực
hiện như thế nào để còn mang ý nghĩa điều tiết.
Trong các khoản thu cân đối ngân sách, thu từ tiền sử dụng đât của các địa
phương thường chiếm tỷ trọng lớn (trên 50%) tổng thu cân đối, khoản thu này được
sử dụng để đầu tư cơ sở hạ tầng phúc lợi xã hội quan trọng của địa phương. Tuy
nhiên, với tỷ lệ phân chia như hiện nay vẫn tỏ ra chưa hợp lý, chưa khuyến khích
được các cấp trong quá trình tham gia, đặc biệt là cấp xã làm cho nguồn thu động
viên vào NSNN chưa kịp thời, ảnh hưởng đến nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách.
Tình trạng, dự toán thu tiền đất đã được giao đầu năm nhưng đến quý hai công tác
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
54
san lấp, giải phóng mặt bằng các vùng đất quy hoạch bán đấu giá vẫn chưa được
thực hiện, còn xảy ra ở một số địa phương.
* Nguyên nhân:
Những hạn chế trên xảy ra là do những nguyên nhân chủ quan và khách quan
trong quá trình phân cấp nguồn thu giữa các cấp ngân sách. Nhưng tựu chung lại có
một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước, hệ thống NSNN hiện nay bao
gồm ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Trong đó, ngân sách địa
phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân, cụ thể là ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và ngân sách
cấp xã, ngân sách cấp dưới là một bộ phận hợp thành của ngân sách cấp trên. Quy
định lồng ghép của hệ thống NSNN cơ bản đảm bảo tính thống nhất và tính tuân thủ
của các cấp ngân sách. Tuy nhiên, cũng do tính lồng ghép này mà quy trình ngân
sách khá phức tạp, gây khó khăn trong việc thực hiện cơ chế phân chia nguồn thu
cũng như thực hiện nhiệm vụ chi cho chính quyền cấp dưới.
Luật NSNN quy định nguồn thu cho các cấp ngân sách gồm 3 loại: Thu cố
định, thu phân chia theo tỷ lệ và thu bổ sung. Trong đó nguồn thu cố định của các
cấp ngân sách luật quy định rõ, trong lúc đó hai khoản thu còn lại thì chính quyền
Trung ương quy định cho tỉnh, còn tỉnh quy định cho huyện, huyện quy định cho
xã. Đây thực chất là việc phân chia nguồn thu vừa mang tính chất rõ ràng vừa mang
tính chất lồng ghép, thể hiện sự không rõ ràng, làm cho hệ thống ngân sách bị cắt
khúc, quản lý bị phân tán, không thực sự đảm bảo quyền tự chủ của cấp dưới.
Cơ chế phân chia nguồn thu ngân sách như hiện nay thể hiện tính bao biện
của ngân sách cấp trên. Bởi vì, ngân sách của cấp chính quyền địa phương có những
đặc điểm kinh tế - xã hội khác nhau, nguồn thu và khả năng động viên vào ngân
sách khác nhau. Trong khi đó, chính quyền cấp trên “độc quyền” về ban hành chế
độ chính sách, do đó có những quyết định của cấp trên phù hợp với địa phương này
nhưng lại không phù hợp với địa phương khác, xuất hiện tình trạng “trên bảo dưới
không nghe” làm gián đoạn trong quản lý và điều hành ngân sách và tình trạng này
lặp lại ở ngân sách cấp dưới.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
55
Đặc biệt với hệ thống ngân sách xã còn phức tạp hơn. Sự khác biệt về địa lý,
trình độ phát triển kinh tế - xã hội, khả năng nguồn thu, trình độ quản lý cán bộ...đã
dẫn đến để có nguồn chi tiêu có xã tự đặt ra các khoản thu, thu không đúng chế độ
chính sách.
Thông thường các địa phương đều có tư tưởng lập dự toán thu thấp, dự toán
chi cao để có thể chủ động điều hành ngân sách và để tăng mức hỗ trợ từ ngân sách
cấp tỉnh hoặc phải giảm số điều tiết cho ngân sách cấp tỉnh từ đó tăng khả năng
ngân sách cục bộ cho địa phương mình, tình trạng này đã kéo dài trong nhiều năm
nhưng chậm được khắc phục. Thực tế cho thấy địa phương nào cũng muốn có ngân
sách cao hơn để chi tiêu trong khi nguồn lực NSNN có hạn. Dẫn đến sự đối lập giữa
một bên là vi mô (từng địa phương) và một bên là vĩ mô (tổng thể ngân sách tỉnh).
Trong điều kiện đó, việc xảy ra sự đàm phán và thỏa hiệp giữa các cơ quan soạn lập
ngân sách và cơ quan thẩm tra, tổng hợp dự toán ngân sách là tất yếu. Địa phương
nào thuyết minh giỏi sẽ có mức ngân sách nhiều hơn để chi tiêu và ngược lại. Điều
đó làm cho dự toán NSNN cũng như việc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi do
UBND tỉnh trình HĐND tỉnh có đảm bảo tính độc lập, khách quan và trong một
chừng mực nào đó có ý định chủ quan của người lập.
Các tiêu thức phân cấp quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, trong quá trình thực hiện phân cấp đã đảm bảo yêu cầu của Luật thuế và các
văn bản đã ban hành, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kê khai nộp thuế, quyết
toán thuế và hoàn thuế. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, số lượng
doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển tăng nhanh, quy mô doanh nghiệp khác
nhau. Bên cạnh một số ít các doanh nghiệp có quy mô lớn, phần lớn là doanh
nghiệp nhỏ chủ yếu là kinh doanh dịch vụ, bán lẽ hàng hóa. Trong khi đó, tổ chức
bộ máy thuế và trình độ quản lý ở cơ thuế các cấp đã có sự thay đổi và chuyển biến
tích cực nhất là cấp Chi cục. Bên cạnh đó, văn bản hướng dẫn phân cấp quản lý thu
thuế đối với các doanh nghiệp NQD của Cục thuế Quảng Bình được ban hành vào
quý 2 năm 2005. Do đó, các quy định làm tiêu thức phân cấp quản lý thuế hiện tại
cho các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh không còn phù hợp với tình hình thực tế.
ĐA
̣I H
ỌC
KI
NH
TÊ
́ HU
Ế
56
Vì vậy, đã có tác động không nhỏ đến việc quản lý thuế và nguồn thu của ngân sách
chính quyền cấp dưới.
2.3. ĐÁNH GIÁ CỦA CÁC ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU TRA VỀ CƠ CHẾ PHÂN
CHIA NGUỒN THU NGÂN SÁCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH
2.3.1. Đặc điểm mẫu điều tra
Toàn bộ số liệu điều tra được tiến hành, xử lý dựa trên chương trình
SPSS.11.5 bao gồm thống kê mô tả, đánh giá độ tin cậy các thang đo, phân tích
nhân tố, phân tích hồi quy
Với 210 phiếu điều tra được phát ra và phỏng vấn trực tiếp ở 3 nhóm đối
tượng khác nhau. Số phiếu sau khi thu được, tiến hành kiểm tra, loại bỏ những
phiếu không được điền đầy đủ thông tin, số phiếu sử dụng cho việc nghiên cứu là:
200 phiếu. Từ đó tiến hành nhập 200 phiếu điều tra và mã hoá trong SPSS, sau đó
được xử lý cho các kết quả nghiên cứu như sau:
Bảng 2.9: Cơ cấu đối tượng điều tra
Đối tượng điều tra Số quan sát Tỷ lệ (%)
Cán bộ cơ quan cấp tỉnh 58 29,00
Cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_co_che_phan_chia_nguon_thu_ngan_sach_tren_dia_ban_tinh_quang_binh_103_1909365.pdf