Mục lục
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG I
KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH VÀ NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ DOANH THU CHI PHÍ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH. 5
1.1. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 5
1.1.1 Khái niệm và phân loại DN-NQD: 5
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế: 7
1.2. Nội dung của công tác quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD: 9
1.2.1. Quản lý doanh thu đối với doanh nghiệp NQD: 10
1.2.2. Quản lý chi phí đối với doanh nghiệp NQD: 11
1.2.3. Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp: 16
1.3. Mục đích của cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD: 17
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ DOANH THU CHI PHÍ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 19
2.1. Quy trình quản lý doanh thu chi phí DNNQD hiện nay: 19
2.1.1 Đối với các doanh nghiệp: 19
2.1.2. Đối với hộ kinh doanh 29
2.2. Đánh giá, thực trạng công tác quản lý doanh thu chi phí DNNQD 31
2.2.1 Quản lý doanh thu 31
2.2.2. Quản lý chi phí 36
2.3. Đánh giá nhận xét về những nguyên nhân cơ bản của những yếu kém còn tồn tại 43
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ DOANH THU CHI PHÍ ĐỐI VỚI KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 48
3.1. Nâng cao hiệu quả xác định doanh thu, chi phí chịu thuế 48
a) Đối với doanh nghiệp NQD 48
b) Đối với hộ kinh doanh cá thể 49
3.2. Về quy trình quản lý doanh thu chi phí 51
3.3. Tập trung chỉ đạo tốt việc quản lý những ngành nghề và lĩnh vực mang tính đặc thù 53
3.4. Hoàn thiện chế độ quản lý hoá đơn chứng từ 56
3.5. Tăng cường công tác kế toán kiểm toán 57
3.6. Các giải pháp hỗ trợ khác 58
Kết luận 60
Danh mục tham khảo 61
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2378 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7. Thuế suất
8. Thuế thu nhập (6x7)
9. Thu nhập tính thuế bổ sung
10. Thuế suất bổ sung
11. Thuế thu nhập bổ sung
12. Tổng thuế thu nhập phải nộp (8 + 11)
13. Thanh toán thuế
- Năm trước chuyển sang
[nộp thiếu (+), nộp thừa (-)]
- Phải nộp năm nay
- Đã tạm nộp trong năm
- Trừ thuế đã nộp ở nước ngoài
- Số còn phải nộp
Các số liệu trên đây bảo đảm chính xác, trung thực. Nếu cơ quan thuế kiểm tra phát hiện không đúng thực tế, cơ sở sẽ chịu xử phạt vi phạm theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
...., ngày....tháng...năm 199...
Người lập biểu Kế toán trưởng Giám đốc
(Ký và ghi rõ họ tên) (Ký và ghi rõ họ tên) (Ký và ghi rõ họ tên
đóng dấu)
Mẫu 2b Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tổng cục thuế Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Tờ kê khai chi tiết doanh thu, chi phí,thu nhập năm 199...
(Kèm theo quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm.....của cơ sở kinh doanh
Đơn vị tính:
Chỉ tiêu Tổng số tiền Ghi chú
1. Doanh thu
a. Doanh thu bán hàng
b. Doanh thu bán thành phẩm
c. Doanh thu cung cấp dịch vụ
2. Các khoản giảm trừ
a. Chiết khấu bán hàng
- Chiết khấu hàng hoá
- Chiết khấu thành phẩm
- Chiết khấu dịch vụ
b. Giảm giá bán hàng
c. Hàng bán bị trả lại
3. Chi phí sản xuất kinh doanh hợp lý
- Khấu hao TSCĐ
- NVL
- Tiền lương
- Chi phí khác
Trong đó:
+ Lãi tiền vay
+ Trích các khoản dự phòng
+ Chi phí quảng cáo
+ Chi phí khác
4. Tổng thu nhập từ SX, KD (1-2-3)
5. Thu nhập khác
- Chênh lệch mua bán chứng khoán
- Thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản
- Thu nhập từ chuyển nhượng, thanh lý tài sản
- Lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, lãi bán hàng trả chậm
- Chênh lệch do bán ngoại tệ
- Kết dư các khoản trích trước chi không hết, các khoản dự phòng
- Thu về tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế
- Thu các khoản thu khó đòi nay đòi được
- Thu các khoản nợ phải trả không còn chủ
- Các khoản thu nhập bỏ sót từ những năm trước
- Các khoản thu nhập nhận được từ nước ngoài
- Các khoản thu nhập không tính vào doanh thu
- Các khoản thu nhập khác
6. Lỗ năm trước chuyển sang
7. Tổng thu nhập chịu thuế (4+5-6)
8. Thu nhập chịu thuế thu nhập bổ sung
Trong đó: Thu nhập từ góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết kinh tế
Các số liệu trên đây bảo đảm chính xác, trung thực. Nếu cơ quan thuế kiểm tra phát hiện không đúng thực tế, cơ sở sẽ chịu xử phạt vi phạm theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
..., ngày... tháng... năm 199...
Người lập biểu Kế toán trưởng Giám đốc
(Ký và ghi rõ họ tên) (Ký và ghi rõ họ tên) (Ký và ghi rõ họ tên
đóng dấu)
Như vậy, công tác quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD được lồng ghép và thực hiện song song với công tác quản lý thuế, là một bộ phận trong công tác quản lý thuế ở nước ta. Đây là một thực tế được chấp nhận và phù hợp vì chúng ta đều biết mối quan hệ khăng khít, nhân quả giữa doanh thu chi phí và Thuế thu nhập doanh nghiệp. Hơn nữa, các cơ quan ngành thuế theo thẩm quyền được phép yêu cầu cơ sở kinh doanh cung cấp sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ và hồ sơ tài liệu có liên quan đến việc hình thành các khoản doanh thu chi phí; yêu cầu các tổ chức tín dụng, ngân hàng và tổ chức, cá nhân có liên quan khác cung cấp các tài liệu có liên quan, có quyền lữu giữ và sử dụng số liệu, tài liệu mà cơ sở kinh doanh và đối tượng khác cung cấp theo chế độ quy định. Nói cách khác, ngành thuế cũng kiêm nhiệm luôn chức năng thanh tra, kiểm soát đảm bảo tính trung thực phản ánh đúng và đẩy đủ các khoản doanh thu chi phí trong các bản kê khai của các DNNQD.
2.1.2. Đối với hộ kinh doanh:
Hộ kinh doanh được hiểu là tất cả các hộ kinh doanh chưa đủ điều kiện lập doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong các lĩnh vực: sản xuất công nghiệp, nông lâm nghiệp, xây dựng, vận tải, khai thác tài nguyên, nuôi trồng thuỷ sản, kinh doanh thương nghiệp, ăn uống, phục vụ và dịch vụ khác như nhà khách, văn hoá, du lịch đào tạo, giáo dục, khám chữa bệnh, tư vấn, sửa chữa, vui chơi, giải trí... Đối với các hộ kinh doanh, đa phần chưa có một hệ thống hoá đơn chứng từ đầy đủ nhưng trong công tác kế toán cũng phải đảm bảo những nội dung chủ yếu sau:
- Số lượng và giá trị tài sản, vật tư, tiền vốn, công nợ và lao động dùng trong sản xuất kinh doanh.
- Số lượng và giá trị vật tư, hàng hoá mua vào, bán ra.
- Chi phí sản xuất, kinh doanh như chi phí về vật liệu, khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền công và các chi phí khác.
- Số lượng và giá trị sản phẩm, công tác lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành, đã cung cấp.
- Kết quả sản xuất kinh doanh, các khoản nộp cho Nhà nước và phân phối kết quả.
Cuối tháng, cuối quý, cuối năm phải cộng sổ, tính doanh thu hàng hoá sản phẩm bán ra và lao vụ dịch vụ đã cung cấp, đối chiếu số liệu giữa các sổ kế toán; đối chiếu số liệu kế toán với số thực tế về tiền mặt trong quỹ và vật tư, sản phẩm, hàng hoá trong khỏ, ở quầy, trên dây chuyển sản xuất.
Nếu các hộ kinh doanh ghi chép, phản ánh số liệu kế toán không chính xác, trung thực cơ quan thuế có quyền không chấp nhận số liệu trên sổ kế toán để tính thuế mà căn cứ vào tài liệu điều tra, cơ quan thuế sẽ ấn định mức doanh thu tính thuế và lợi tức chịu thuế. Nếu chủ hộ kinh doanh không chấp thuận mức doanh thu tính thuế và lợi tức chịu thuế thì có quyền gửi khiếu nại đến cơ quan thuế cấp trên để xem xét giải quyết. Trong thời gian chờ giải quyết, chủ hộ kinh doanh phải nộp thuế theo doanh thu và lợi tức chịu thuế ấn định. Sau khi có ý kiến chính thức của cơ quan thuế cấp trên sẽ điều chỉnh lại số thuế đã nộp.
Hộ kinh doanh cũng phải đảm bảo thực hiện việc ghi chép phản ánh và báo cáo dựa trên một số hoá đơn bắt buộc sau:
1 Hoá đơn bán hàng (dịch vụ)
2 Hoá đơn cước vận chuyển
3 Hoá đơn bán vàng bạc đá quý
4 Hoá đơn khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành
5 Hoá đơn cho thuê nhà
6 Phiếu kê bán hàng
7 Các loại vé (vé tàu, vé xe, vé vui chơi giải trí...)
8 Bảng chấm công
9 Phiếu nhập kho
10 Phiếu xuất kho
11 Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ
12 Phiếu nhận hàng đại lý ký gửi
13 Bảng thanh toán hàng đại lý, ký gửi
Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với các ngành có liên quan ở địa phương giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố hướng dẫn kiểm tra các hộ kinh doanh trong việc thực hiện chế độ kế toán này. Cơ quan thuế căn cứ vào số liệu, tài liệu kế toán của các hộ kinh doanh làm căn cứ tính số thuế phải thu. Chủ hộ kinh doanh phải chấp hành lệnh kiểm tra kế toán của cơ quan có thẩm quyền và có trách nhiệm cung cấp đầy đủ số liệu, tài liệu cần thiết cho công tác kiểm tra kế toán tiến hành thuận lợi. Nếu xét thấy các hộ kinh doanh không thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định của chế độ kế toán hộ kinh doanh, cơ quan thuế có quyền ấn định mức doanh thu tính thuế và lợi tức chịu thuế, đồng thời tiến hành xử phạt hành chính về vi phạm chế độ kế toán và xử phạt về hành vi trốn lậu thuế theo luật định.
2.2. Đánh giá, thực trạng công tác quản lý doanh thu chi phí DNNQD:
2.2.1 Quản lý doanh thu:
Theo cuộc điều tra thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, dịch vụ và du lịch ngoài quốc doanh năm 2000, do liên bộ tổ chức chúng ta có bảng số liệu sau
Bảng 1: Doanh thu bình quân một hộ kinh doanh thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, du lịch và dịch vụ cá thể tháng 7/2000 phân theo ngành hoạt động
Nghìn đồng
Theo tính thuế
Theo chủ hộ kê khai
Theo điều tra viên
Tổng số
10199
10708
15585
Thương nghiệp sửa chữa xe có động cơ, mô tô
13483
13810
20236
Bán bảo dưỡng và sửa chữa xe có động cơ
18063
20418
29077
Bán xe có động cơ
77244
89144
131501
Bảo dưỡng và sửa chữa xe có động cơ
3892
4430
6976
Bán phụ tùng và các bộ phận phụ trợ của xe có động cơ
24404
22705
34370
Bán bảo dưỡng và sửa chữa mô tô xe máy, phụ tùng
13693
14949
20813
Bán lẻ nhiên liệu động cơ
24301
31991
49229
Bán buôn, bán đại lý (Trừ xe có động cơ và mô tô)
50096
51803
71003
Bán đại lý, môi giới, đấu giá
6453
9062
13164
Bán buôn nông,lâm sản, lương thực thực phẩm
61924
67832
89729
Bán buôn đồ dùng cá nhân và gia đình
91190
72469
110149
Bán buôn nguyên liệu, vật liệu phi nông nghiệp, phế liệu
17375
19408
31737
Bán buôn máy móc thiết bị và phụ tùng
108936
104622
125267
Bán buôn khác
18232
21576
27707
Bán lẻ(Trừ xe có động cơ, xe máy, sửa chữa đồ dùng cá nhân và gia đình)
10150
10526
15688
Bán lẻ trong các cửa hàng không chuyên doanh
5807
6878
9610
Bán lẻ hàng LT-TP, đồ uống thuốc lá
5626
7196
10882
Bán lẻ hàng hoá khác trong các cửa hàng
14648
14042
21995
Bán lẻ đồ cũ trong các cửa hàng
4800
6015
9830
Bán lẻ ngoài cửa hàng
4414
4216
8193
Dịch vụ
Sửa chữa vật phẩm tiêu dùng
1360
1912
2765
Dịch vụ phục vụ cá nhân và gia đình
1892
2503
3698
Khách sạn nhà hàng và du lịch
3361
4459
6518
Khách sạn và nhà hàng
3361
4459
6521
Khách sạn nhà trọ, nhà khách, và các dịch vụ nghỉ trọ ngắn ngày
3271
3961
5005
Nhà hàng, Bar, căng tin
3334
4483
6643
Du lịch
3237
4057
5083
Bảng 2: Tỷ lệ doanh thu bình quân một hộ kinh doanh thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng,du lịch và dịch vụ cá thể tháng 7/2000 theo tính thuế so với doanh thu bình quân theo chủ hộ kê khai và so với doanh thu theo điều tra viên thực hiện phân theo ngành
%
Theo tính thuế so với chủ hộ kê khai
Theo tính thuế so với điều tra viên
Tổng số
95,2
65,4
Thương nghiệp sửa chữa xe có động cơ, mô tô
97,6
66,6
Bán bảo dưỡng và sửa chữa xe có động cơ
88,5
62,1
Bán xe có động cơ
86,7
58,7
Bảo dưỡng và sửa chữa xe có động cơ
87,9
55,8
Bán phụ tùng và các bộ phận phụ trợ của xe có động cơ
107,5
71,0
Bán bảo dưỡng và sửa chữa mô tô xe máy, phụ tùng
91,6
65,8
Bán lẻ nhiên liệu động cơ
76,0
49,4
Bán buôn, bán đại lý (Trừ xe có động cơ và mô tô)
96,7
70,6
Bán đại lý, môi giới, đấu giá
71,2
49,0
Bán buôn nông,lâm sản, lương thực thực phẩm
91,3
69,0
Bán buôn đồ dùng cá nhân và gia đình
125,8
82,8
Bán buôn nguyên liệu, vật liệu phi nông nghiệp, phế liệu
89,5
54,7
Bán buôn máy móc thiết bị và phụ tùng
104,1
87,0
Bán buôn khác
84,5
65,8
Bán lẻ(Trừ xe có động cơ, xe máy, sửa chữa đồ dùng cá nhân và gia đình)
96,4
64,7
Bán lẻ trong các cửa hàng không chuyên doanh
84,4
60,4
Bán lẻ hàng LT-TP, đồ uống thuốc lá
78,2
51,7
Bán lẻ hàng hoá khác trong các cửa hàng
104,3
68,7
Bán lẻ đồ cũ trong các cửa hàng
79,8
48,8
Bán lẻ ngoài cửa hàng
104,7
53,9
Dịch vụ
Sửa chữa vật phẩm tiêu dùng
71,1
49,2
Dịch vụ phục vụ cá nhân và gia đình
45,6
51,2
Khách sạn nhà hàng và du lịch
75,4
51,6
Khách sạn và nhà hàng
75,4
51,4
Khách sạn nhà trọ, nhà khách, và các dịch vụ nghỉ trọ ngắn ngày
82,6
65,4
Nhà hàng, Bar, căng tin
74,4
50,2
Du lịch
79,8
63,7
Những số liệu trên đây chỉ tính cho các hộ kinh doanh trong lĩnh vực thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, du lịch và dịch vụ nghĩa là chưa phản ánh toàn bộ khu vực kinh tế NQD. Tuy nhiên, qua đó chúng ta cũng có thể thấy phần nào bức tranh về công tác quản lý doanh thu đối với DNNQD nói chung. Không cần có những phân tích định lượng quá kĩ lưỡng chúng ta đã có thể nhận biết được vấn đề nổi bật trong các bảng số liệu trên chính là tình trạng khai thiếu doanh thu phổ biến trong các ngành nghề. Tỷ lệ tổng quát cho doanh thu bình quân một hộ kinh doanh trong lĩnh vực trên theo tính thuế so với doanh thu bình quân theo chủ hộ kê khai là 95,2% và so với doanh thu các điều tra viên tính toán là 65,4%. Điều này chứng tỏ có một phần trăm lớn doanh thu đã nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan thuế, cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý doanh thu chi phí đối với DNNQD. Tình trạng trở nên đặc biệt nghiêm trọng tại một số ngành nghề như bán lẻ nhiên liệu động cơ khi các tỷ lệ này chỉ là 76,0% và 49,4%, bán đại lý, môi giới, đấu giá tương ứng là 71,2% và 49% ... . Các hộ khi kê khai doanh thu đã không kê khai một cách đầy đủ trung thực và đúng với các quyđịnh của Bộ tài chính cũng như Tổng cục thuế ban hành. Chất lượng các bản kê khai quá thấp so với yêu cầu như: kê khai không đủ các nội dung trong bản khai, ghi các chỉ tiêu, mã số không đúng với yêu cầu của từng nội dung, các số liệu kê khai chưa sát với thực tế kinh đoanh của cơ sở, đặc biệt là các chỉ tiêu về vốn, doanh thu, lao động, thu nhập của các hộ kinh doanh kê khai đều rất thấp, không cơ sở thực tế, nhiều trường hợp chỉ tiêu doanh thu khai thấp hơn mức doanh thu tính thuế đã nộp trong năm, thậm chí còn ít hơn cả số thuế đã nộp và chi phí, đây là điều không thể chấp nhận Trung bình một hộ kinh doanh có thu nhập theo các điều tra viên là 15,585 triệu đồng trong khi đó doanh thu theo chủ hộ kê khai chỉ là 10,708 triệu đồng nghĩa là đã có tới gần 4,8 triệu đồng các chủ hộ kinh doanh không thực hiện kê khai. Trong khi đó ở nước ta, con số hộ kinh doanh cá thể đã lên đến hàng triệu, và trên đây mới chỉ là lương kê khai trong một tháng. Hiện trạng trên chắc chắn gây nên những thất thoát rất lớn cho ngân sách nhà nước trong nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp và là một minh chứng cho khả năng quản lý nhà nước về vấn đề doanh thu chi phí còn nhiều yếu kém ở nước ta.
2.2.2. Quản lý chi phí:
Nhìn chung, công tác quản lý doanh thu chi phí đối với doanh nghiệp NQD đều được thực hiện qua việc kê khai các bộ hồ sơ theo mẫu do Tổng cục thuế ban hành và phát đến các doanh nghiệp. Nhưng khi phát bản khai còn bỏ sót nhiều đối tượng thuộc điện phải kê khai, đặc biệt là các cá nhân kinh doanh (theo Nghị định số 66-HĐBT) ở những địa điểm kinh doanh tạm thời, nơi hẻo lánh, trong các khu tập thể dân cư; xóm ngõ và các hộ kinh tế gia đình (theo Nghị định số 29-HĐBT) nhất là ở các vùng có những ngành nghề phụ, truyền thống như sản xuất, chế biến, làm hàng thủ công.
Theo cơ chế hiện hành các doanh nghiệp tự quyết định các khoản chi phí khi tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp tư nhân, nhà nước chỉ chấp thuận các khoản chi phí hợp lý có liên quan đến thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế của doanh nghiệp. Do đó, bên cạnh những ưu điểm, cơ chế này cũng bộc lộ những hạn chế và kẽ hở cần khắc phục kịp thời nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp cũng như lợi ích của nhà nước.
Về chi phí khấu hao tài sản cố định: Thông tư 99 ngày 14/7/1998 của Bộ tài chính về hướng dẫn thi hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp quy định: Khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp trong kỳ, Nhà nước chỉ chấp nhận "mức chi phí khấu hao hợp lệ" -Đó là mức khấu hao được xác định theo chế độ quản lý sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định ban hành kèm theo Quyết định 1062-TC/QĐ/TSTC ngày 14/11/1996 (từ ngày 1/1/2000 được thay thế bằng Quyết định 166/QĐ-BTC ngày 30/12/1999) của Bộ trưởng Bộ tài chính. Theo đó mức khấu hao hàng năm của các TSCĐ sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được xác định theo mức khấu hao bình quân hằng năm.
Mức khấu hao hàng năm của TSCĐ =
Nguyên giá TSCĐ
Thời gian sử dụng
Thời gian sử dụng của TSCĐ do doanh nghiệp tự xác định trên cơ sở dựa vào khung thời gian sử dụng TSCĐ (tối thiểu tối đa) do Nhà nước quy định đối với từng nhóm tài sản cố định. Nếu doanh nghiệp muốn xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định khác với khung thời gian do Nhà nươc quy định thì phải giải trình cụ thể để cơ quan thẩm quyền xét duyệt. Việc quy định khung thời gian sử dụng của tài sản cố định về thực chất là cho phép doanh nghiệp được phát huy quyền tự chủ trong việc trích khấu hao TSCĐ cho phù hợp với yêu cầu thu hồi vốn đầu tư và khả năng chịu đựng của giá bán sản phẩm của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc quy định áp dụng phương pháp khấu hao tuyến tính cố định với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp là chưa thật hợp lý. Bên cạnh các ưu điểm: mức khấu hao phân bổ vào giá thành sản phẩm hàng năm đều đặn, giúp doanh nghiệp có điều kiện bình ổn giá thành, duy trì mức lợi nhuận hằng năm tương đối ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm sát chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; thì phương pháp khấu hao này đã bộc lộ những nhược điểm lớn: đó là khả năng thu hồi vốn đầu tư chậm, khó tránh khỏi bị mất vốn do hao mòn vô hình, đặc biệt đối với những loại tài sản cố định trong doanh nghiệp chịu sự tác động lớn của tiến bộ khoa học kỹ thuật như: các thiết bị tính toán, thiết bị điện tử, máy móc thiết bị sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất v.v Vì thế, nhà nước nên có những quy định về việc cho phép khấu hao nhanh đối với một số loại tài sản mang tính chất đặc thù. Mặc dù, áp dụng phương pháp này có thể ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách từ thuế thu nhập doanh nghiệp trong ngắn hạn do những năm đầu mức khấu hao chuyển vào chi phí sản xuất kinh doanh cao, thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp giảm nhưng nếu xét trên toàn bộ quá trình sử dụng tài sản cố định thì nguồn thu này không thay đổi, bởi càng về sau, số khấu hao giảm dần kéo theo việc hạ giá thành làm thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập nộp ngân sách của doanh nghiệp lại tăng lên. Đấy là chưa kể đến những lợi ích có được từ việc khấu hao nhanh cho phép doanh nghiệp nhanh chóng tiếp nhận các công nghệ mới, tích cực đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, mang lại nguồn thu cho bản thân doanh nghiệp cũng như các nguồn thu cho ngân sách.
Về chi phí nhân công, đối với các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh, việc xác định chi phí tiền lương, tiền công để xác định thu nhập chịu thuế được căn cứ vào hợp đồng thoả thuận giữa người lao động với cơ sở sản xuất kinh doanh và phù hợp với đơn giá tiền lương, tiền công đã đăng ký với cơ quan thuế. Trường hợp phát hiện lương thực trả thấp hơn tiền lương theo hợp đồng đã hạch toán vào chi phí thì chỉ tính vào chi phí theo lương thực trả. Trường hợp đơn vị không có hợp đồng thoả thuận, không đăng ký tiền lương với cơ quan thuế thì tiền lương, tiền công tính trong chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế căn cứ theo định mức tiền lương, tiền công do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định.
Các doanh nghiệp không thực hiện đẩy đủ các nghĩa vụ theo luật lao động đối với người lao động như đóng BHXH, trích phụ cấp ngoài giờ, chế độ nghỉ ... Nhất là vấn đề trích BHXH, cần điều chỉnh lại tỷ lệ trích BHXH cho phù hợp hơn theo hướng không tăng gánh nặng cho doanh nghiệp về vấn đề người lao động, giải quyết tốt mâu thuẫn giữa việc làm và BHXH, tránh tình trạng các doanh nghiệp hạn chế thuê mướn lao động thậm chí sa thải vì không đủ khả năng trích BHXH, và những vi phạm nghiêm trọng luật lao động như không lập hợp đồng lao động, không trả lương làm thêm, không thực hiện quy định về thời gian và chế độ làm việc v.v. Người sử dụng lao động và Nhà nước sẽ cùng phải chia sẻ trách nhiệm tài chính trong việc giải quyết mâu thuẫn này. Chính sách tiền lương ở các doanh nghiệp tư nhân hiện nay chưa thực sự thống nhất và công bằng. Tất cả những vấn đề này tựu trung lại chỉ là vấn đề chi phí nhân công. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn tận dụng những điểm thiếu chặt chẽ trong cơ chế tuyển mộ và sử dụng lao động hiện nay để hạn chế chi phí nhân công, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh mà không quan tâm nhiều đến quyền lợi của người lao động.
Về chi phí vật tư, nguyên vật liệu: Theo các quy định hiện hành, khi tính thu nhập chịu thuế, các doanh nghiệp được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hoá liên quan đến doanh thu và thu nhập chịu thuế trong kỳ. Mức chi phí được xác định dựa vào định mức tiêu hao vật tư hợp lý và giá thực tế vật tư xuất kho. Một vấn đề nan giải là việc kiểm soát giá vật tư, nguyên liệu đầu vào của sản phẩm do đó Nhà nước cần sớm ban hành Luật Chống bán phá giá, Luật chống độc quyền đi đôi với hoàn thiện Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, hàng hóa và các chi phí gia công chế biến, vận chuyển, bốc xếp, bảo quản, thu mua phải có hóa đơn chứng từ theo quy định của Bộ Tài chính. Trường hợp mua vật tư, hàng hóa là sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản hoặc dịch vụ nhỏ lẻ của người không kinh doanh, cơ sở sản xuất kinh doanh phải lập bảng kê ghi rõ họ, tên, địa chỉ người bán, số lượng hàng hóa, đơn giá, thành tiền, giá dịch vụ cung ứng; giám đốc cơ sở sản xuất kinh doanh duyệt chi và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trường hợp cơ sở kinh doanh kê khai giá mua hàng hóa trên bảng kê cao hơn giá thị trường tại thời điểm mua thì cơ quan thuế ấn định mức giá để xác định chi phí tính thuế thu nhập.
Đối với vật tư hàng hóa được khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ (%) trên cơ sở hóa đơn bán hàng và bảng kê mua hàng thì cơ sở kinh doanh chỉ được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh để tính thu nhập doanh nghiệp bằng doanh số mua, trừ (-) số đã được khấu trừ thuế.
Về chi phí quảng cáo, tiếp thị khuyến mại: Chi phí quảng cáo, tiếp thị khuyến mại là một trong những nội dung của chi phí tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, là một bộ phần cấu thành chi phí kinh doanh trong doanh nghiệp nhất là trong môi trường cạnh tranh như hiện nay. Theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp, các chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh và các khoản chi khác được khống chế tối đa không quá 7% tổng số chi phí (riêng đối với doanh nghiệp thương mại, tổng số chi phí để xác định mức khống chế không bao gồm giá mua vào của hàng hóa bán ra).
Vấn đề tiếp theo được đề cập trong đề tài liên quan đến việc hình thành và phân bổ các khoản doanh thu chi phí trong doanh nghiệp là vấn đề về thuế trong đó bao gồm thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế tiêu thụ đặc biệt và một số loại thuế khác. Thuế GTGT thay thế thuế doanh thu được áp dụng trên toàn quốc kể từ ngày 01/01/1999. Quá trình thực hiện thuế GTGT đối với khu vực KTNQD hiện đang gặp phải những vướng mắc nhất định. Phần lớn các hộ kinh doanh cá thể chưa thực hiện chế độ sổ sách và chứng từ kế toán nên chưa được áp dụng tính thuế gia tăng theo phương pháp khấu trừ mà thường áp dụng tính thuế GTGT trực tiếp. Việc này đôi khi là nguyên nhân dẫn đến những gian lận, nhập nhèm và những sự không công bằng khi tính để nộp thuế giữa các DNNQD. Trước đây, các cơ sở sản xuất kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được nhà nước cho phép trừ khống một khoản thuế đầu vào là 2% hoặc 3% nhằm mục đích hỗ trợ cho các đối tượng nộp thuế theo phuơng pháp khấu trừ. Tuy nhiên trên thực tế, một số doanh nghiệp đã lợi dụng chính quy định này để chiếm đoạt thuế của Nhà nước thông qua việc kê khai tăng số thuế đầu vào để được khấu trừ hoặc hoàn thuế khống. Đến nay, khi Chính phủ đang lãnh đạo Bộ tài chính, Tổng cục thuế và các bộ ban ngành hữu quan khác tiến hành cải cách hệ thống và các chính sách thuế, các doanh nghiệp đã không được hoàn thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp nữa, việc này đã khiến cho những gian lận và thất thu thuế giảm đi nhưng lại gây ra những khó khăn cho một bộ phận doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản và một số ngành thủ công mĩ nghệ khác. Trong những ngành nghề hoạt động này, do chưa có một hệ thống hoá đơn chứng từ thống nhất và có giá trị pháp luật, đồng thời với phương pháp mua bán kinh doanh lâu đời lạc hậu từ xưa đến nay, việc chuyển sang thực hiện tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ gặp rất nhiều khó khăn. Và cuối cùng, bà con nông dân, những người nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản và những thợ thủ công lại là những người chịu thiệt thòi.
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cũng là một vấn đề cần được nghiên cứu vì nó liên quan đến chi phí nhân công trong doanh nghiệp. Thực ra, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao chưa được áp dụng đối với các hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân mà chỉ điều chỉnh đối với người làm công ăn lương, hành nghề tự do có thu nhập cao. Loại thuế này hiện nay đang có mức điều tiết rất cao, bậc thuế chưa phù hợp, lại áp dụng 2 biểu thuế cho người Việt Nam và người nước ngoài nên đã dẫn đến tình trạng các DNNQD đặc biệt là một số doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài không muốn trả lương cao hay đề bạt người Việt Nam có năng lực vào các vị trí quản lý. Điều đó, vừa gây thiệt hại cho chính người lao động Việt Nam (vì các doanh nghiệp này đi thuê chuyên gia nước ngoài) vừa làm giảm thu ngân sách vì biểu thuế cho người nước ngoài có biểu thuế cao hơn với mức điều chỉnh t Tiếp theo là một số loại thuế liên quan đến các chi phí khác trong doanh nghiệp như chi phí thành lập, chi phí tài nguyên và các chi phí khác. Có thể kể ra đó là các loại thuế như thuế môn bài, thuế tài nguyên và các chính sách thu ngân sách khác. Các văn bản pháp luật liên quan đến các khoản thu này đều không phân biệt đối tượng nộp thuế thuộc khu vực nhà nước hay tư nhân. Ngoài ra, Chính phủ và Bộ tài chính đã có các văn bản pháp quy hướng dẫn chi tiết cụ thể hoá chính sách thuế đối với khu vực KTTN với mục đích khuyến khích sự phát triển của khu vực này. Qua khảo sát thực tế, có thể thấy những khó khăn chung trong thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của KTTN bao gồm:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện cơ chế quản lý doanh thu chi phí đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước t.docx