Hàng ngày, căn cứ vào chứng từ gốc, các bảng phân bổ, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trước hết được nhập vào máy vi tính, nhờ tính năng của chương trình phần mềm kế toán mà Công ty áp dụng là cho phép phản ánh đầy đủ các tính chất, nội dung, đặc điểm nghiệp vụ kinh tế phát sinh và thiết kế các mẫu sổ, bảng biểu phù hợp với đặc điểm kế toán tại Công ty mà máy có thể cho in ra sổ Nhật kí chung, căn cứ vào số liệu trên sổ Nhật kí chung để in ra sổ Cái theo những tài khoản kế toán phù hợp. Đồng thời các nghiệp vụ phát sinh được ghi vào các sổ kế toán chi tiết có liên quan. Thông thường, các sổ kế toán trên được in ra vào thời điểm cuối quý nhưng cũng có khi, sổ Nhật ký chung và các sổ chi tiết có thể được in ra bất kỳ lúc nào phục vụ cho công tác quản lý hay do một lý do nào đó, do vậy mà ta coi như sổ Nhật ký chung và các sổ chi tiết được coi như ghi theo hàng ngày.
140 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tích cực trong sự phát triển của đất nước.
2/Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh.
Công ty xây dựng số 34 có quy mô và địa bàn hoạt động rộng nên để phân công lao động thành nhiều địa điểm thi công khác nhau ứng với mỗi công trình một cách có hiệu quả, đồng thời nâng cao hiệu suất công tác quản lý cũng như công tác kế toán, Công ty tổ chức lực lượng thi công thành các xí nghiệp và các đội xây dựng và thực hiện cơ chế khoán nội bộ. Các đội và xí nghiệp tiến hành hạch toán kinh doanh, lãi hưởng lỗ chịu và quan hệ với Công ty thông qua việc vay vốn, thuê tài sản đồng thời phải nộp cho Công ty những khoản như thuế, các khoản phải nộp khác... Các đội và xí nghiệp có mở sổ sách để theo dõi riêng nhưng không có tư cách pháp nhân. Cụ thể, Công ty có 1 xí nghiệp và 2 đội xây dựng trực thuộc xí nghiệp (đội 1, đội 2), 9 đội xây dựng trực thuộc Công ty (các đội xây dựng từ đội xây dựng số 1 đến đội xây dựng số 9).
Năm 1999 Công ty đã thi công trên 20 công trình đạt giá trị sản lượng gần 72 tỷ đồng. Năm 2000, Công ty phấn đấu hoàn thành vượt mức năm 1999 để thực hiện giá trị sản xuất kinh doanh lên đến 73 tỷ đồng, Công ty đang tăng cường công tác kế hoạch tiếp thị nắm bắt tình hình, chuẩn bị hồ sơ cho tham gia đấu thầu công trình, hoàn chỉnh quy chế tài chính nội bộ và các quy chế khác. Năm 1999, xí nghiệp và các đội sản xuất đã thi công xây dựng trên địa bàn cả nước, với các công trình đạt chất lượng cao.
3/Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý.
Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo cơ cấu đa tuyến -chức năng. Thủ trưởng đơn vị là giám đốc Công ty được sự giúp sức của các phòng chức năng, các chuyên gia, các hội đồng tư vấn trong việc suy nghĩ, bàn bạc tìm những giải pháp tối ưu cho những vấn đề phức tạp. Tuy nhiên quyền quyết định những vấn đề ấy vẫn thuộc về giám đốc Công ty. Những quyết định quản lý do các phòng chức năng nghiên cứu đề xuất khi dược giám đốc thông qua sẽ trở thành mệnh lệnh được truyền đạt từ trên xuống dưới theo tuyến đã quy định. Các phòng chức năng có trách nhiệm tham mưu cho toàn bộ hệ thống trực tuyến mà không có quyền ra mệnh lệnh cho các phân xưởng, các tổ đội sản xuất. Cụ thể, bộ máy quản lý của Công ty gồm có: 1 giám đốc, 2 phó giám đốc, kế toán trưởng, phòng tài chính kế toán, phòng kinh tế kế hoạch, kĩ thuật vật tư tiếp thị, phòng tổ chức lao động hành chính với những chức năng nhiệm vụ như sau:
Đứng đầu là giám đốc, người chịu trước pháp luật về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, là người điều hành quản lý vĩ mô toàn Công ty, có quyền quyết định đối với những vấn đề quan trọng của Công ty như trực tiếp ký kết các hợp đồng kinh tế, giao nhận thầu và thanh lý bàn giao các công trình hoàn thành cho bên A. Giám đốc Công ty còn là người chủ tài khoản của doanh nghiệp.
Các phó giám đốc và là người giúp việc cho giám đốc, được giám đốc phân công một số công việc của giám đốc. Phó giám đốc và là người chịu trách nhiệm trước giám đốc về những mặt được phân công và đồng thời có thể thay mặt giám đốc quyết định những vấn đề được phân công. Phó giám đốc kĩ thuật phụ trách mảng công việc về thiết kế công trình, những vấn đề về kĩ thuật và điều hành bộ phận kĩ thuật trong phòng kinh tế kế hoạch, kĩ thuật vật tư tiếp thị. Phó giám đốc kinh tế kế hoạch phụ trách mảng công việc về dự toán giá, về nguồn vật tư và phân công sắp xếp các hạng mục công trình hay là tiên lượng, dự toán quá trình thi công, điều hành bộ phận tiên lượng trong phòng kinh tế kế hoạch vật tư tiếp thị. Hai phó giám đốc luôn có sự hỗ trợ lẫn nhau trong công việc.
Phòng kinh tế kế hoạch, kĩ thuật vật tư tiếp thị có trách nhiệm tham gia làm hồ sơ dự thầu và lập kế hoạch tiến độ thi công trên cơ sở hợp đồng đã được ký kết trước khi thi công, bóc tách bản vẽ, tiên lượng dự đoán tiến độ thi công.
Phòng tổ chức lao động hành chính có chức năng nhiệm vụ giúp giám đốc Công ty tổ chức bộ máy điều hành và quản lý của Công ty cũng như của các đơn vị trực thuộc, đáp ứng yêu cầu sản xuất về công tác tổ chức cán bộ lao động, đồng thời giúp giám đốc nắm được trình độ kĩ thuật của cán bộ công nhân viên, đề ra chương trình đào tạo cán bộ công nhân viên lành nghề phục vụ kịp thời cho sản xuất kinh doanh.
Phòng tài chính kế toán chịu trách nhiệm huy động các nguồn vốn và điều hoà phân phối cho các đơn vị trực thuộc (các công trình) dựa trên cơ sở tiến độ thi công, thường xuyên kiểm tra giám sát về mặt tài chính đối với các đội xây dựng, hạng mục công trình hoàn thành đối với bên A, đảm bảo chi lương cho cán bộ công nhân viên trong toàn bộ Công ty và kiểm tra chứng từ hợp pháp, hợp lý, hợp lệ.
Ban giám đốc cùng với các phòng chức năng điều hành hoạt động sản xuất thi công ở Công ty một cách thống nhất với các đội xây dựng và xí nghiệp xây lắp. Hiện nay Công ty thực hiện chế độ khoán gọn cho các đội xây dựng và xí nghiệp xây lắp trên cơ sở hợp đồng của Công ty với bên A. Bộ phận tiên lượng trong phòng kinh tế, kế hoạch, kĩ thuật, vật tư tiếp thị lên kế hoạch cụ thể cho các công trình thi công, căn cứ váo khả năng và điều kiện và khả năng cụ thể của các đội và từ quy chế nội bộ, Công ty giao khoán gọn cho các đội và xí nghiệp và giao nhiệm vụ phải hoàn thành đúng tiến độ. Các đội và xí nghiệp lại căn cứ và điều kiện cụ thể của các đơn vị trực thuộc để phân công các phần việc. Với những công trình có quy mô lớn, kết cấu phức tạp thì có thể các đội và xí nghiệp xây lắp cùng phối hợp thi công. Cuối từng tháng hoặc khi hoàn thành hợp đồng làm khoán, các đội xí nghiệp tiến hành tổng kết, nghiệm thu đánh giá công việc về số lượng, chất lượng đã hoàn thành của các đội, xí nghiệp để làm cơ sở thanh toán từng khoản theo quy định trong hợp đồng. Có thể nêu ra quá trình quản lý như sau:
Đối với các công trình do Công ty trực tiếp nhận với bên A, ký kết hợp đồng, nhận hồ sơ tài liệu, giải quyết các thủ tục về mặt bằng, nguồn điện nước thi công. Đối với các công trình do các đơn vị tự tìm kiếm thì các thủ tục trên do các đơn vị tự giải quyết và giao lại hồ sơ cho phòng kinh tế kế hoạch kĩ thuật vật tư tiếp thị lưu. Phòng này chịu trách nhiệm hướng dẫn đôn đốc và thông qua hợp đồng trước khi khi trình giám đốc ký. Sau khi có đầy đủ các thủ tục để có thể thi công được, các đơn vị trực thuộc phải lập tiến độ, biện pháp thi công nếu được giám đốc duyệt lúc đó mới ký lệnh khởi công. Về việc lập dự toán và quyết toán, các đơn vị tự làm và trình các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, yêu cầu phải đảm bảo tính hợp lý và kịp thời. Phòng kinh tế kế hoạch kĩ thuật vật tư tiếp thị có nhiệm vụ đôn đốc kiểm tra và hỗ trợ về mặt dự toán khi cần thiết.
Về vật tư, chủ yếu Công ty giao cho các đơn vị tự mua ngoài theo yêu cầu thi công, ngoài ra còn một phần vật tư do bộ phận cung ứng của Công ty mua và do bên A cung ứng nhưng số này rất hạn chế. Hiện nay đội cung ứng vật tư của Công ty đã giảm biên chế và chỉ còn một bộ phận vật tư chỉ có một nhân viên tiếp liệu vật tư cho Công ty. Do đó, lượng vật tư nhập cho Công ty thường phục vụ cho địa bàn thi công ở Hà Nội. Về máy thi công, chủng loại máy thi công ở Công ty khá phong phú đáp ứng tốt yêu cầu về kĩ thuật và tiến độ thi công mặc dù hệ số hao mòn khá lớn, hầu như toàn bộ số máy móc được giao cho các đơn vị phụ thuộc quản lý.
Về chất lượng công trình, đội trưởng công trình là người đại diện cho đội phải chịu trách nhiệm trước giám đốc Công ty về chất lượng công trình và an toàn lao động, nếu có sai phạm kĩ thuật dẫn đến sửa chữa hoặc phá đi làm lại thì toàn bộ chi phí đó các đơn vị phải chịu trách nhiệm. Trong trường hợp này, phòng kinh tế, kế hoạch, kĩ thuật, vật tư, tiếp thị phải giám sát và giải quyết vướng mắc cho các đơn vị, trong quá trình thi công, các đơn vị có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ giám sát làm việc.
Về an toàn và bảo hiểm lao động: Các đội xây dựng và xí nghiệp xây lắp có trách nhiệm thực hiện thực hiện theo chế độ hiện hành của nhà nước và theo quy định của Công ty.
Qua một số đặc điểm trên, ta thấy Công ty đã áp dụng một cơ cấu quản trị hợp lý vừa phát huy được năng lực chuyên môn của các bộ phận chức năng vừa đảm bảo quyền chỉ huy thống nhất tránh sự chồng chéo hoặc sự buông lỏng quản lý. Đây là điều kiện quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của Công ty, vì thế Công ty luôn có sự đi lên và đạt thành tích ngày càng cao.
Biểu số 2:
SƠ Đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty xây dựng số 34
GIáM ĐốC
Phó giám đốc
Phòng kinh tế,
Kế hoạch, kĩ thuật,
vật tư, tiếp thị
Phòng tổ chức,
Lao động hành chính
Phòng kế toán, tài chính
Xí nghiệp
Xây lăp số 1
Đội
XD1
Đội
XD2
Đội
XD3
Đội XD8
Đôi
XD9
Đội
XD1
Đội
XD2
KT TRƯởNG
Phòng kinh tế, kế
hoạch, kĩ thuật
tiếp thị
Phòng tổ chức
lao động
hành chính
Phòng tài chính, kế
toán
II/đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán và bộ sổ kế toán ở Công ty xây dựng số 34.
1/Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán.
Kế toán là một công cụ quản lý kinh tế hữu hiệu của các doanh nghiệp. Tổ chức tốt công tác kế toán góp phần bảo toàn tài sản, cung cấp thông tin cho việc ra quyết định về mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp. Cũng như vậy, việc tổ chức bộ máy kế toán sao cho hợp lý gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả, là điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của Công ty. Bộ máy kế toán phải được tổ chức phù hợp với đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh. ở Công ty xây dựng số 34, để phù hợp với đặc điểm của sản xuất là lực lượng thi công được tổ chức thành nhiều đội và xí nghiệp xây dựng và thực hiện giao khoán và để phù hợp với cơ cấu bộ máy quản lý là chức năng- đa tuyến; bộ máy kế toán được tổ chức theo hình thức tập trung. Theo hình thức này thì toàn bộ công tác kế toán được thực hiện tập trung tại phòng kế toán của Công ty, các đội và xí nghiệp trực thuộc không tổ chức bộ phận kế toán riêng mà chỉ bố trí các nhân viên kinh tế có nhiệm vụ hướng dẫn, thực hiện hạch toán ban đầu, theo dõi chi phí, thu thập, kiểm tra chứng từ về phòng tài chính kế toán của Công ty. Bộ máy kế toán của Công ty có 5 người ở phòng tài chính kế toán và các nhân viên kinh tế ở các đội và xí nghiệp với những công việc được phân công như sau:
+Kế toán trưởng: Giúp giám đốc Công ty tổ chức chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán, tài chính, thông tin kinh tế trong toàn Công ty theo pháp lệnh kế toán thống kê, điều lệ tổ chức kế toán nhà nước và điều lệ điều lệ kế toán trưởng hiện hành.
óTổ chức bộ máy kế toán, đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ đội ngũ cán bộ tài chính kế toán trong Công ty. Phổ biến, hướng dẫn thực hiện và cụ thể hoá kịp thời các chính sách, chế độ, thể lệ tài chính của Nhà nước, của Bộ xây dựng và của Tổng Công ty.
óTổ chức việc tạo nguồn vốn và sử dụng các nguồn vốn.
óHướng dẫn công tác hạch toán kế toán, ghi chép sổ sách, chứng từ kế toán. Chỉ đạo về mặt tài chính việc thực hiện các hợp đồng kinh tế.
óTổ chức việc kiểm tra kế toán.
óTổ chức phân tích các hoạt động kinh tế.
óChỉ đạo lập kế hoạch tài chính- tín dụng.
óChịu trách nhiệm trước Công ty và kế toán trưởng Tổng Công ty về toàn bộ công tác tài chính, kế toán.
+Kế toán tổng hợp và kế toán tài sản cố định:
óTheo dõi TSCĐ và tính khấu hao hàng tháng.
óTheo dõi thanh lý tài sản cố định, kiểm tra, quyết toán sửa chữa lớn TSCĐ, tái đầu tư, lập hồ sơ thủ tục về đầu tư xây dựng cơ bản, quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
óTheo dõi tình hình tăng giảm TSCĐ điều động trong nội bộ Công ty.
óTheo dõi công tác thu vốn trên những công trình do Công ty thi công.
óLập báo cáo định kỳ và thường xuyên về vốn chủ sở hữu của Công ty và tổng hợp thông tin kế toán toàn Công ty.
+Kế toán thanh toán và kế toán tiền gửi Ngân hàng:
óTheo dõi tiền gửi và tiền vay Ngân hàng.
óTheo dõi thanh toán với Ngân sách, thanh toán nội bộ, thanh toán với người cung cấp, thanh toán các khoản phải thu của khách hàng.
óTheo dõi công tác thu vốn trên các công trình, quyết toán chi phí với các xí nghiệp, đội xây dựng trực thuộc Công ty. Hàng tháng lập các báo cáo theo dõi tình hình thu vốn toàn Công ty, lập báo cáo trình đơn vị các công trình trọng điểm khi phát sinh.
óLập séc, uỷ nhiệm chi, lập kế hoạch tín dụng vốn lưu động, kế hoạch lao động tiền lương, các tờ khai về thuế và thanh toán với Ngân sách, biên bản đối chiếu với cục thuế.
óTính toán các khoản phải thu của các đội và xí nghiệp xây lắp trực thuộc.
óTham gia lập các báo cáo kế toán và quyết toán tài chính.
óLập phiếu thu, chi.
+Kế toán vật tư và kế toán tiền lương:
óTheo dõi tình hình nhập- xuất- tồn kho vật liệu, công cụ dụng cụ của Công ty.
óTheo dõi thanh toán tạm ứng.
óTheo dõi thanh toán lương, bảo hiểm xã hội toàn Công ty.
óLập nhập, xuất vật tư.
óTập hợp, theo dõi chi phí khối cơ quan Công ty, tham gia lập báo cáo kế toán và quyết toán tài chính của Công ty.
+Thủ quỹ kiêm thống kê:
óThanh toán các khoản bằng ngân phiếu hoặc bằng tiền mặt.
óGhi chép thường xuyên việc thu- chi tiền mặt, tiền gửi Ngân hàng.
óBảo quản, theo dõi số dư đầu kỳ, số dư cuối kỳ của quỹ.
óBáo cáo tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh trong từng tháng.
+Kế toán ở xí nghiệp xây lắp số 1 và ở các đội xây dựng trực thuộc Công ty là các nhân viên kế toán dưới sự hướng dẫn kiểm tra của phòng kế toán Công ty có nhiệm vụ lập chứng từ kế toán phát sinh tại các đội, xí nghiệp xây lắp, tính lương công nhân viên sản xuất trực tiếp, gián tiếp. Định kỳ hay hàng tháng, lập báo cáo gửi về Công ty theo kiểu mẫu quy địnhvà yêu cầu của phòng tài chính kế toán Công ty. Kiểm tra đối chiếu số liệu với phòng tài chính kế toán và tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh của từng đội và xí nghiệp giao cho phòng tài chính kế toán vào cuối tháng. ở phòng tài chính kế toán, sau khi nhận được các chứng từ ban đầu, theo sự phân công sẽ thực hiện các công việc kế toán từ kiểm tra, phân loại, xử lý chứng từ, lập các chứng từ, nhật ký cho tới việc ghi sổ tổng hợp, hệ thống hoá số liệu và cung cấp thông tin kế toán phục vụ yêu cầu quản lý. Đồng thời dựa trên các báo cáo kế toán đã lập, tiến hành phân tích các hoạt động kinh tế để giúp lãnh đạo Công ty trong việc quản lý, điều hành các hoạt động của các công trình.
Biểu số 3: Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán Công ty xây dựng số 34
Kế toán trưởng
Thủ quỹ và
thống kê
KT tổng hợp
và KT. TSCĐ
KT thanh toán và
KT tiền gửi NH
KT vật tư và
KT tiền lương
Nhân viên kinh tế ở các đội xây dựng và xí nghiệp
2/Đặc điểm tổ chức bộ sổ kế toán.
Hình thức sổ kế toán là hệ thống sổ kế toán sử dụng để ghi chép, hệ thống hoá và tổng hợp số liệu từ các chứng từ kế toán theo một trình tự và phương pháp ghi chép nhất định. Hình thức sổ kế toán mà Công ty áp dụng là hình thức Nhật kí chung.
a/Các loại sổ mà Công ty sử dụng:
+Sổ nhật kí chung. (1 quyển)
+Sổ Cái (1quyển)
+Các sổ kế toán chi tiết như:
óSổ tài sản cố định
óSổ chi tiết vật liệu, sản phẩm
óThẻ kho vật liệu sản phẩm
óSổ chi phí sản xuất kinh doanh
óThẻ tính giá thành sản phẩm, dịch vụ
óSổ chi tiết chi phí trả trước.
óSổ chi tiết tiền gửi, tiền vay
óSổ chi tiết thanh toán với người bán, người mua, với Ngân sách Nhà nước, thanh toán nội bộ.
óSổ chi tiết tiêu thụ
óSổ chi tiết nguồn vốn kinh doanh
b/Trình tự ghi chép sổ kế toán ở Công ty: Công ty sử dụng máy vi tính để thực hiện công tác kế toán, do đó, hình thức sổ kế toán Nhật ký chung mà Công ty áp dụng được cụ thể hoá để thích ứng chương trình kế toán máy (CPA) mà Công ty áp dụng. Cụ thể, trình tự hạch toán ở Công ty như sau:
Biểu số 4: Sơ đồ sổ kế toán theo hình thức nhật ký chung . . của Công ty xây dựng số 34
Chứng từ gốc
Bảng phân bổ
Nhật ký chung
Sổ chi tiết
Sổ Cái
Bảng t/hợp c/tiết
Bảng cân đối số ps
báo cáo tài chính
Máy vi tính
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối quý
Quan hệ đối chiếu cuối quý.
Hàng ngày, căn cứ vào chứng từ gốc, các bảng phân bổ, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trước hết được nhập vào máy vi tính, nhờ tính năng của chương trình phần mềm kế toán mà Công ty áp dụng là cho phép phản ánh đầy đủ các tính chất, nội dung, đặc điểm nghiệp vụ kinh tế phát sinh và thiết kế các mẫu sổ, bảng biểu phù hợp với đặc điểm kế toán tại Công ty mà máy có thể cho in ra sổ Nhật kí chung, căn cứ vào số liệu trên sổ Nhật kí chung để in ra sổ Cái theo những tài khoản kế toán phù hợp. Đồng thời các nghiệp vụ phát sinh được ghi vào các sổ kế toán chi tiết có liên quan. Thông thường, các sổ kế toán trên được in ra vào thời điểm cuối quý nhưng cũng có khi, sổ Nhật ký chung và các sổ chi tiết có thể được in ra bất kỳ lúc nào phục vụ cho công tác quản lý hay do một lý do nào đó, do vậy mà ta coi như sổ Nhật ký chung và các sổ chi tiết được coi như ghi theo hàng ngày.
Tuy nhiên, có một số phần hành kế toán do đặc thù của nó mà phải hạch toán thủ công như sổ chi tiết theo dõi tiền mặt do đó mà các sổ chi tiết này được ghi hàng ngày.
Cuối quý, cuối năm cộng số liệu trên sổ Cái, lập bảng cân đối số phát sinh. Đồng thời từ các sổ chi tiết lập bảng tổng hợp chi tiết. Đem đối chiếu sổ Cái và bảng tổng hợp chi tiết, khi đã khớp đúng, số liệu trên 2 sổ đó được dùng để lập các báo cáo tài chính.
(Nguyên tắc: Tổng số phát sinh Nợ và tổng số phát sinh Có trên bảng cân đối số phát sinh phải bằng tổng số phát sinh Nợ và tổng số phát sinh Có trên sổ Nhật kí chung).
Theo quy trình hạch toán chung đó, việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm được thực hiện trên hệ thống các bảng phân bổ vật liệu, công cụ, dụng cụ, tiền lương, bảo hiểm xã hội, khấu hao tài sản cố định và các chứng từ gốc có liên quan khác như kế hoạch phân bổ chi phí trả trước (1421); sổ chi tiết tài khoản và trên hệ thống sổ tổng hợp là Nhật ký chung và sổ Cái các tài khoản 154, 621, 622, 623, 627. Dựa vào hệ thống sổ chi tiết và sổ Cái, kế toán lập bảng tính giá thành sản phẩm. Cụ thể như biểu số 5 (trang 59).
Ghi chú: Trình tự ghi sổ như đã nói ở phần trình tự hạch toán trên sổ kế toán của doanh nghiệp, tuy nhiên, do áp dụng vào phần hành kế toán cụ thể nên nó có những đặc điểm cụ thể sau:
+Toàn bộ công tác kế toán có thể làm trên máy vi tính (tất nhiên là khâu lập chứng từ và các bảng phân bổ là Công ty phải làm thủ công, riêng bảng phân bổ khấu hao là kế toán chỉ nhập các số liệu cần thiết vào thì máy cho in ra bảng phân bổ và từ đó nhập chứng từ này vào.
+Từ các sổ Cái in ra các sổ Cái chi tiết tài khoản (theo từng công trình) để đối chiếu với các sổ chi tiết chi phí theo công trình.
+Các chứng từ dùng để hạch toán vào sổ Nhật ký chung và sổ Cái các tài khoản là các bảng phân bổ vì trong doanh nghiệp xây dựng, các chứng từ phản ánh chi phí sản xuất không nhận được một cách liên tục do địa điểm thi công xa, do đó các chứng từ về chi phí được nhân viên kinh tế ở các đội xây dựng tập hợp và gửi lên phòng kế toán hàng tháng.
Biểu số 5: Trình tự hạch toán chi phí sản xuất . . và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34
Sổ chi tiết tài khoản các TK 621, 622, 627, 154
Máy vi tính
Bảng cân đối số phát sinh
Thẻ tính giá thành công trình
Sổ Cái các TK 621, 622, 627, 154
Sổ chi tiết chi phí theo công trình
Nhật ký chung
Các bảng phân bổ vật liệu, công cụ dụng cụ, tiền lương, bảo hiểm xã hội,...
Các chứng từ gốc
Các báo cáo tài chính
III-hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng số 34.
1/Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
1.Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất.
Xuất phát từ đặc điểm của ngành xây dựng là quá trình thi công lâu dài, phức tạp và đặc điểm của sản phẩm xây lắp là đơn chiếc, mang tính cố định về địa điểm thi công và cũng để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý, đối tượng tập hợp chi phí của Công ty được xác định là các công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn xây dựng có điểm dừng kỹ thuật hợp lý có dự toán riêng; đối với các đơn đặt hàng thì đối tượng tập hợp chi phí là theo từng đơn đặt hàng từ lúc khởi công cho đến lúc kết thúc hoàn thành bàn giao cho khách hàng.
2.Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất.
Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất mà Công ty sử dụng là phương pháp trực tiếp. Mỗi công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành, bàn giao đều mở riêng một sổ chi tiết chi phí để tập hợp chi phí thực tế phát sinh cho công trình, hạng mục công trình đó. Các chi phí có liên quan trực tiếp dến đối tượng nào thì tập hợp trực tiếp vào đối tượng đó, với các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng, không thể tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng được thì tập hợp riêng cho từng nhóm đối tượng có liên quan, tới cuối kỳ hạch toán, kế toán tiến hành phân bổ theo các tiêu thức hợp lý như định mức chi phí nhân công trực tiếp, theo tỷ lệ sản lượng, theo giá trị dự toán,... Tuỳ theo từng loại chi phí và loại sản phẩm mà lựa chọn tiêu thức cho phù hợp.
Các sổ chi tiết được tổng hợp được trong từng tháng và được theo dõi chi tiết theo từng khoản mục (vì vậy, khi công trình hoàn thành, kế toán chỉ cần tổng cộng chi phí sản xuất ở các tháng từ lúc khởi công đến lúc hoàn thành là sẽ được giá thành thực tế của sản phẩm theo từng khoản mục chi phí). Cuối mỗi tháng, dựa trên các sổ chi tiết chi phí của tất cả các công trình, kế toán tổng hợp số liệu để lập bảng tổng hợp chi phí sản xuất trong tháng. Hết mỗi quý, từ các bảng tổng hợp chi phí của từng tháng, kế toán lập bảng tổng hợp chi phí sản xuất của quý, làm cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm được dễ dàng.
3.Trình tự hạch toán chi phí sản xuất.
ở Công ty hiện nay đã sử dụng máy vi tính để thực hiện công tác hạch toán. Đối với công tác hạch toán chi phí sản xuất, trên cơ sở phương pháp tập hợp chi phí sản xuất như vậy, trình tự hạch toán chi phí sản xuất được tiến hành như sau:
Cuối mỗi tháng, nhân viên kinh tế các đội gửi các chứng từ về phòng kế toán, trên cơ sở đó, các nghiệp vụ hạch toán trên được phản ánh cập nhật vào máy vi tính theo trình tự thời gian nhận được chứng từ. Đồng thời, kế toán lập các bảng kê, các bảng phân bổ chi phí cho từng công trình coi như những chứng từ rồi cập nhật các chứng từ này vào máy tính làm cơ sở ghi vào sổ Nhật ký chung. Chương trình kế toán máy mà Công ty sử dụng (CAP) cho phép theo dõi chi phí theo từng đối tượng, từng khoản mục và theo từng yếu tố chi phí, do đó nó rất thuận lợi cho việc tổng hợp chi phí theo từng công trình, từng yếu tố chi phí cũng như theo từng khoản mục chi phí. Mặt khác, nó cho phép thiết kế hệ thống bảng biểu kế toán để phân tích các chỉ tiêu kinh tế tài chính nói chung và các chỉ tiêu chi phí nói riêng, có các công việc tổng hợp chi phí được tiến hành như sau:
+Một là: Cuối quý, kế toán cho in ra sổ Nhật ký chung và Sổ Cái tài khoản theo biểu mẫu đã thiết kế (theo biểu mẫu thống nhất do bộ tài chính quy định) theo trình tự ngày nhận được chứng từ gốc.
+Hai là: Do khi nhập chứng từ vào máy, nó đã cho phép chi tiết đến từng công trình, yếu tố chi phí và khoản mục chi phí nên dễ dàng có được bảng tổng hợp chi phí theo từng công trình, từng khoản mục chi phí và theo từng yếu tố chi phí (được làm vào cuối tháng). Từ đó tổng hợp chi phí cho các công trình và toàn bộ các công trình.
+Ba là: Khi công trình hoàn thành và được bên A thanh toán, Công ty cũng tổng hợp chi phí của công trình bằng cách tổng cộng chi phí sản xuất ở các tháng từ lúc khởi công đến lúc hoàn thành là sẽ được giá thành thực tế của sản phẩm theo từng khoản mục chi phí). Đối với các công trình có nhiều hạng mục công trình được dự toán riêng, khi hoàn thành hạng mục nào và được bên A chấp nhận thanh toán, Công ty tiến hành xác định giá trị sản phẩm dở dang theo phương pháp định mức để từ đó tính ra giá thành của hạng mục công trình (sẽ trình bày rõ ở phần phương pháp tính giá thành ở Công ty).
4.Phân loại chi phí sản xuất.
Với các loại hình sản phẩm khác nhau thì quy mô, tỷ trọng từng loại chi phí cũng khác nhau. Để quản lý chặt chẽ các chi phí dùng cho sản xuất, đồng thời để xác định được giá thành sản phẩm xây lắp một cách chính xác, nhanh chóng, việc nhận biết phân tích được ảnh hưởng của các nhân tố sản xuất trong cơ cấu giá thành, việc phân loại chi phí là không thể bỏ qua. Trong các doanh nghiệp xây lắp, bất kỳ công trình nào trước lúc thi công cũng phải lập dự toán (dự toán thiết kế và dự toán thi công) và quá trình thi công luôn phải so sánh với dự toán và lấy dự toán làm thước đo, các dự toán công trình xây dựng cơ bản được lập theo hạng mục công trình và được phân tích theo từng khoản mục chi phí. Do đó, Công ty phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí. Mặt khác, để thuận lợi cho việc quả lý tài sản (yếu tố chi phí), ở Công ty người ta kết hợp phân loại chi phí theo yếu tố với phân loại theo khoản mục. Theo cách phân loại này, việc tập hợp chi phí sản xuất trong Công ty theo các khoản mục sau:
-Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh giá trị thực tế của toàn bộ vật liệu chính, phụ, các cấu kiện, các bộ phận rời lẻ dùng cho việc xây dựng lắp đặt các công trình.
-Chi phí nhân công trực tiếp: Phản ánh số tiền lương và các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất thi công các công trình.
-Chi phí sản xuất chung, bao gồm các yếu tố:
óChi phí nhân viên.
óChi phí công cụ dụng cụ.
óChi phí khấu hao tài sản cố định.
óChi phí dịch vụ mua ngoài.
óChi phí bằng tiền khác (gồm cả chi phí lãi vay: Lãi các khoản tiền vay để mua các yếu tố chi phí cho
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34245.doc