Luận văn Hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch sản xuất tại Nhà máy Quy chế II – Công ty cổ phần kinh doanh thiết bị công nhiệp

Các chỉ tiêu định mức sản xuất sản phẩm do Phòng Kỹ thuật - Sản xuất chịu trách nhiệm xây dựng và được Tổng giám đốc Công ty Cổ phần kinh doanh thiết bị công nghiệp phê duyệt năm 2004. Trong quá trình thực hiện các định mức được điều chỉnh khi áp dụng những cải tiến kỹ thuật hoặc tình trạng kỹ thuật máy móc không đáp ứng được . Định mức sản xuất sản phẩm được Phòng kỹ thuật – sản xuất xây dựng trên cơ sở công nghệ chế tạo, thực tế trang thiết bị sản xuất tại các phân xưởng là sự tiêu hao về thời gian năng lực của các nguồn lực sản xuất đối với từng chủng loại sản phẩm của nhà máy, nó có vai trò quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất của Nhà máy và là cơ sở cơ cung cấp các số liệu phục vụ cho công tác xây dựng kế hoạch năng lực thô. Định mức sản phẩm đối với một số sản phẩm chính được thể hiện trong các bảng phụ lục số 1,2,3

docx140 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch sản xuất tại Nhà máy Quy chế II – Công ty cổ phần kinh doanh thiết bị công nhiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uá trình sản xuất Nhà máy phải mua nhiều loại nguyên vật liệu với số lượng lớn từ các nguồn cung ứng khác nhau từ nước ngoài và trong nước . Mặt khác, nguồn cung ứng nguyên vật liệu là một trong những căn cứ quan trọng để xây dựng kế hoạch sản xuất của Nhà máy. Vì vậy Nhà máy cần phải nắm vững những đặc điểm về nguyên vật liệu, các nguồn cung ứng và đặc biệt là sự biến động của thị trường cung ứng nguyên vật liệu thế giới trong những năm gần đây để có kế hoạch dự trữ cần thiết đảm bảo sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Ví dụ, trong năm 2003 giá thép biến động rất lớn tăng gần gấp 2 lần, lúc đó Công ty đã mua dự trữ cho Nhà máy gần 1000 tấn thép đảm bảo cho sản xuất của Nhà máy, hoặc năm 2005 giá kẽm biến động thất thường lúc lên cao gấp 3 lần , lên xuống theo từng ngày. Do dự trữ được lượng kẽm dùng trong 3 tháng nên xưởng mạ nhúng kẽm của nhà máy vẫn hoạt động liên tục. 2.2.5 Đặc điểm nguồn nhân lực của Nhà máy Nguồn nhân lực là là yếu tố quyết định sự thành công của Nhà máy quy chế II trong suốt quá trình phát triển vì nguồn nhân lực trực tiếp hay gián tiếp tạo ra sản phẩm , thương hiệu của Nhà máy trên thương trường. Hiện tại Nhà máy Quy chế II có một đội ngũ lao động gồm các kỹ sự, công nhân kỹ thuật có chuyên môn, tay nghề cao đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng. Lãnh đạo nhà máy có kinh nghiệm lâu năm trong sản xuất và công tác nghiên cứu thị trường thích nghi với cơ chế thị trường. Đặc điểm lao động của Nhà máy trong giai đoạn từ năm 2001-2005 , chi tiết cụ thể như bảng 2.11. Qua bảng 2.11 ta thấy, tổng số lao động của Nhà máy biến đổi hầu như không đáng kể năm 2006 tăng 7,3% so với năm 2002 ( tương ứng 6 người ) phù hợp với quy mô sản xuất của nhà máy. Xét về mặt cơ cấu thì lao động của nhà máy cũng có một số thay đổi trong 5 năm qua như bảng 2.5. Bảng 2.5 Số lượng lao động tại Nhà máy giai đoạn 2002 – 2006 Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 SL (ng) TL (%) SL (ng) TL (%) SL (ng) TL (%) SL (ng) TL (%) SL (ng) TL (%) Tổng số lao động 82 100 81 100 83 100 85 100 88 100 1.Theo giới tính Nữ 28 34 27 33 28 34 28 33 26 30 Nam 54 66 54 67 55 66 57 67 72 70 2.Theo trình độ Trên Đại học 0 0 0 0 1 1 1 1 1 1 Đại học 12 15 12 16 12 14 12 14 14 16 CN kỹ thuật 40 49 40 49 41 49 43 51 48 55 Lao động khác 30 36 29 35 29 36 29 35 25 33 3.Theo hình thức LĐ gián tiếp 12 15 12 15 13 16 11 13 11 13 LĐ trực tiếp 70 85 69 85 70 84 72 87 74 87 4.Theo độ tuổi Dưới 45 65 80 65 80 66 80 68 80 73 83 Từ 45 trở lên 17 20 16 20 17 20 17 20 15 17 Độ tuổi trung bình của LĐ 43 44 43 42 42 Nguồn : Báo cáo lao động 2002-2006, Phòng Tổ chức – Hành chính - Theo giới tính :Tổng số lao động tăng lên , nhưng tỷ lệ lao động nữ lại giảm đi từ 34% năm 2001 chỉ còn 30% năm 2006 , trong khi đó thì tỷ lệ lao động Nam tăng từ 66% năm 2002 lên 70% năm 2006 . Ngoài ra còn có một đặc điểm quan trọng đó là tỷ lệ lao động nam luôn cao hơn 2 lần so với lao động nữ , điều này phù hợp với điều kiện sản xuất nặng nhọc, cường độ cao của nhà máy sản xuất cơ khí. - Theo trình độ : Qua bảng trên có thể thấy trình độ của người lao động của nhà máy đã tăng lên trong 5 năm qua . Năm 2002 mới có 12 người có trình độ đại học thì năm 2006 có 15 người có trình độ đại học và trên đại học tăng 3 người ( tăng 15% ). Công nhân kỹ thuật cũng tăng lên từ 40 người năm 2002 lên 48 người năm 2006 ( tăng 20% ) . Lao động có trình độ thấp giảm đi từ 30 người năm 2002 còn 25 người năm 2006 ( giảm 17% ) , vì đối với những công việc đơn giản như đóng gói, lắp thành bộ , vận chuyển nội bộ... Nhà máy thuê nhân công theo mùa vụ để giảm bớt chi phí để tuyển dụng lớp công nhân kỹ thuật trẻ kế cận những lao động xắp đến tuổi nghỉ hưu. - Theo hình thức : Nhà máy đang có một cơ cấu lao động ngày càng hợp lý hơn . Điều này được thể hiện ở tỷ trọng lao động gián tiếp ngày càng giảm , còn lao động trực tiếp lại đang tăng. Lao động gián tiếp năm 2002 chiếm 15% giảm xuống còn 13% năm 2006 và sắp tới còn giảm nữa do nhà máy thực hiện chế độ kiêm nhiệm và mở rộng sản xuất ở một số khâu. - Tuy nhiên có một điều đáng lo ngại là : Tuy số lượng người trên 45 tuổi có giảm chút ít từ 17 người năm 2002 xuống còn 15 người năm 2006 , nhưng phần lớn lãnh đạo Nhà máy thuộc nhóm người này, đa số đã quá 50 tuổi .Vì vậy để khắc phục tình trạng trên và tạo nguồn nhân lực kế cận, Nhà máy cần tuyển những lao động trẻ có trình độ chuyên môn thay thế lớp lao động lớn tuổi. - Ngoài ra Nhà máy còn có một số thợ cơ khí tay nghề cao : Thợ nguội bậc 6/7 có 6 người, thợ hàn bậc 6/7 có 2 người, thợ sửa khuôn bậc 7/7 có 01 người. Tuy có một số lao động có tay nghề đến tuổi nghỉ hưu , nhưng nhà máy khuyến khích và ký thêm hợp đồng , vì đây là nguồn nhân lực quý giá, nhà máy rất cần để đào tạo lớp cán bộ, công nhân kỹ thuật trẻ thay thế , đáp ứng được yêu cầu công việc ngày càng cao để tạo ra những sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường. Tóm lại, nguồn nhân lực của Nhà máy có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của và trực tiếp ảnh hưởng tới công tác xây dựng kế hoạch sản xuất. Trong những năm đầu của thế kỷ 21 khi đó Nhà máy gặp khó khăn về đầu ra cho sản phẩm hàng quy chế , doanh thu thấp, hệ số sử dụng máy móc thiết bị đạt rất thấp, công nhân thiếu việc làm. Trước tình hình đó Công ty phải cử cán bộ biệt phái vào nhà máy để hỗ trợ công tác tìm kiếm khách hàng , mở rộng thị trường và trong thời kỳ này Công ty cũng giúp Nhà máy tuyển dụng và đào tạo được một số cán bộ cho phòng kinh doanh, kết quả là doanh thu của Nhà máy tăng lên qua các năm đặc biệt là trong năm 2005 và 2006 và Nhà máy cũng rất chủ động trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất. Tuy nhiên, khi Nhà máy ký được nhiều đơn hàng với khách hàng và do máy móc thiết bị đã cũ kỹ, lạc hậu cần phải duy tu sửa chữa kịp thời thì mới đáp ứng yêu cầu về thời hạn giao hàng , nếu không sẽ bị phạt và mất uy tín. Vì vậy, Nhà máy đã nhanh chóng tập trung vào công tác tuyển dụng , đào tạo và ký hợp đồng lao động với những lao động có tay nghề đã đến tuổi nghỉ hưu để nhằm mục tiêu thực hiện thành công kế hoạch sản xuất . Trong thời gian tới , Nhà máy cần phải chú trọng vào công tác quy hoạch cán bộ đảm bảo thực hiện thành công kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chính là đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm về tài chính và nguồn vốn của nhà máy Qua bảng 2.6 ta thấy, nguyên giá tài sản cố định tăng lên qua các năm . Năm 2003 tăng so với năm 2002 là 1% ( tương ứng là 35 Triệu đồng ) là do Nhà máy mua thêm một số trang thiết bị văn phòng nhằm cải thiện điều kiện làm việc. Năm 2004 tăng so với năm 2003 là 21% ( tương ứng là 610 Triệu đồng ), Nhà máy đã trích từ nguồn khấu hao và quỹ phát triển sản xuất để trang bị thêm một số máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất ở các phân xưởng ơ điện, phan xưởng nhiệt luyện, phân xưởng kéo thép ; Năm 2005 giảm so với năm 2004 là 5% ( tương ứng là 35 Triệu đồng ) là do một số tài sản cố định của Nhà máy hư hỏng không thể sử dụng được phải bán thanh lý . Năm 2006 tăng so với năm 2005 là 8% ( tương ứng là 272 triệu đồng ) là do Nhà máy trang bị thêm một số thiết bị nhằm nâng cao năng lực sản xuất của Phân xưởng cơ điện để sản xuất bu lông móng cho một số liên doanh xuất khẩu hàng ra nước ngoài. Bảng 2.6 Báo cáo tài chính của Nhà máy giai đoạn 2002 – 2006 Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 (Triệu đ) Giá trị (Triệu đ) SS(%) 03/02 Giá trị (Triệu đ) SS(%) 04/03 Giá trị (Triệu đ) SS(%) 05/04 Giá trị (Triệu đ) SS(%) 06/05 1.Nguyên giá TSCĐ Tr đó : Vốn Ngân sách 2.866 1.661 2.901 1.661 101 3.511 2.691 121 3.340 2.544 95 3.612 2.544 108 2.Khấu hao cơ bản 1.688 1.788 106 2.663 149 2.754 103 2.977 108 3.Giá trị còn lại 1.178 1.113 94 848 76 586 69 635 108 4.Vốn cố định 1.178 1.113 94 848 76 586 69 635 108 5. Vốn lưu động 4.341 4.370 101 6.562 150 12.976 198 11.666 90 6. Tổng vốn kinh doanh 5.519 5.483 99 7.410 135 13.563 183 12.301 91 7. Tổng số nợ phải thu Tr đó : Nợ khó đòi 2.156 25 1.878 10 87 3.772 10 201 5.580 0 148 7.872 0 141 8. Tổng số nợ phải trả 3.636 3.592 99 5.454 152 11.121 204 9.482 85 9. Lợi nhuận phát sinh 2,7 6,7 248 185 2.761 528 285 699 132 10.Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 0,049 0,12 2,5 3,89 5,68 Nguồn : Báo cáo tài chính 2002-2006,Phòng Tài chính – Kế toán Tổng số nợ phải thu của Nhà máy tăng lên rất cao và ở mức báo động vì tổng số nợ phải thu cao hơn tổng vốn kinh doanh đặc biệt vào các năm 2005 và 2006. Nguyên nhân của số nợ phải thu tăng là doanh thu của nhà máy tăng và Nhà máy sản xuất hàng cung cấp cho các đơn vị xây lắp điện lực thực hiện các dự án lớn, trọng điểm của quốc gia do thời gian quyết toán các công trình này kéo dài , tiến độ giải ngân chậm , vì vậy Nhà máy bị chiếm dụng vốn lâu. Tuy nhiên , số nợ khó đòi chiếm tỷ lệ rất nhỏ và không còn trong năm 2005, 2006 đây là tín hiệu đáng mừng. Tổng số nợ phải trả của nhà máy tăng lên qua các năm . Tổng số nợ phải trả năm 2003 giảm 1% so với năm 2002. Tổng số nợ phải trả năm 2004 tăng 52% so với năm 2003( tương ứng 1.862 triệu đồng ). Tổng số nợ phải trả năm 2005 tăng 104% so với năm 2004( tương ứng 5.667 triệu đồng ). Tổng số nợ phải trả năm 2006 giảm 15% so với năm 2005( tương ứng 1.639 triệu đồng ). Tổng số nợ phải trả của Nhà máy tăng dần qua các năm , đây là dấu hiệu không tốt vì phần lớn nợ phải trả của Nhà máy là do Công ty cung cấp trực tiếp nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất của Nhà máy , chỉ có một số lượng rất ít trong tổng số nợ phải trả của Nhà máy là chiếm dụng của các nhà cung cấp khác. Do bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn nên nợ phải trả của Nhà máy đối với công ty tăng, vì vậy Công ty đã yêu cầu Nhà máy phải áp dụng các biện pháp thu hồi nợ để giảm nợ phải trả đối với Công ty và kết quản là nợ phải trả năm 2006 giảm 15 % so với năm 2005. Trong những năm qua tỷ suất lợi nhuận của Nhà máy luôn tăng , vì vậy trong ngắn hạn là tốt nhưng trong dài hạn thì không tốt . Tỷ suất lợi nhuận của Nhà máy tăng dần qua các năm , năm 2002 là 0,049, năm 2003 là 0,12, năm 2004 là 2,5, năm 2005 là 3,89 và năm 2006 là 5,68 là do Nhà máy triệt để việc tận dụng khai thác công suất của thiết bị, máy móc và không đầu tư cho phát triển vì vậy tỷ suất lợi nhuận trong ngắn hạn cao nhưng trong dài hạn thì chất lượng tăng trưởng không bền vững. Về cơ cấu vốn của Nhà máy , tổng vốn kinh doanh của Nhà máy gồm vốn lưu động ( VLĐ ) và vốn cố định ( VCĐ ). Tỷ lệ giữa vốn cố định và vốn lưu động năm 2002 là VLĐ 78,64% tương ứng là 4.341 triệu đồng, VCĐ 21,36% tương ứng là 1.178 triệu đồng. Tỷ lệ giữa vốn cố định và vốn lưu động năm 2003 là VLĐ 79,71% tương ứng là 4.730 triệu đồng, VCĐ 20,29% tương ứng là 1.113 triệu đồng. Tỷ lệ giữa vốn cố định và vốn lưu động năm 2004 là VLĐ 88,56% tương ứng là 6.562 triệu đồng, VCĐ 11,44% tương ứng là 848 triệu đồng. Tỷ lệ giữa vốn cố định và vốn lưu động năm 2005 là VLĐ 95,67% tương ứng là 12.976 triệu đồng, VCĐ 4,33% tương ứng là 586 triệu đồng. Tỷ lệ giữa vốn cố định và vốn lưu động năm 2006 là VLĐ 94,83% tương ứng là 11.666 triệu đồng, VCĐ 5,17% tương ứng là 635 triệu đồng. Tỷ lệ vốn lưu động tăng dần qua các năm là tín hiệu đáng mừng, do tài sản cố định đã khấu hao hết. Mặt khác tỷ lệ giữa vốn lưu động và vốn cố định trên tỷ lệ vốn kinh doanh của Nhà máy là không hợp lý đối với một đơn vị sản xuất công nghiệp. Về huy động vốn, ngoài vốn Nhà nước cấp , Nhà máy còn huy động vốn từ những hình thức khác nhau để phục vụ cho sản xuất kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật. Nhà máy đã huy động từ vốn vay ngân hàng, từ Công ty Cổ phần kinh doanh thiết bị công nghiệp là đơn vị chủ quản, từ các khách hàng truyền thống. Ngoài ra , một nguồn huy động vốn rất quan trọng và hiệu quả của Nhà máy cho sản xuất kinh doanh là huy động vốn từ cán bộ công nhân viên nhà máy thông qua hình thức trích từ lợi nhuận hàng năm, từ các quỹ khen thưởng, phúc lợi để lập các sổ huy động vốn của cán bộ công nhân viên nhà máy, mức và tỷ lệ trích được thống nhất giữa ban giám đốc và công đoàn Nhà máy. Đồng thời Nhà máy cũng kêu gọi cán bộ công nhân viên và người nhà CBCNV góp vốn bằng tiền đồng Việt nam và đô la Mỹ với mức lãi suất cao hơn lãi suất ngân hàng từ 2 đến 3%/năm. Số vốn huy động từ cán bộ công nhân viên ngày càng tăng chiếm khoảng 20% số vốn huy động của Nhà máy. Đây là thực sự là cách huy động vốn mang lại hiệu quả kinh tế cao và tạo thêm sự gắn bó, tin tưởng của người lao động vào nhà máy , trong những năm tới Nhà máy sẽ đạt được những kết quả tốt hơn nữa. Tóm lại, tình hình tài chính hiện tại của Nhà máy nói chung tương đối là khả quan. Tuy nhiên , Nhà máy cần phải luôn phân tích, nắm rõ các chỉ tiêu tài chính để có những biện pháp điều chỉnh cho phù hợp, nâng cao hiệu quả kinh tế. các lĩnh vực Nhà máy cần dặc biệt quan tâm chú ý là nợ phải thu, giảm thiểu tối đa việc khách hàng chiếm dụng vốn , cần thu hồi vốn nhanh để trả ngân hàng thì mới tạo được uy tín khi vay tiền vì lượng vốn kinh doanh của nhà máy chủ yếu là đi vay ngân hàng. Đồng thời Nhà máy cũng cần xác định rõ tổng vốn kinh doanh cần thiết trong đó tỷ lệ giữa vốn cố định và vốn lưu động bao nhiêu là hợp lý và khả năng huy động thêm là bao nhiêu để đầu tư phát triển mở rộng sản xuất tạo sự phát triển bền vững trong dài hạn . Từ đó làm căn cứ cho công tác xây dựng kế hoạch sản xuất . 2.3 Hệ thống kế hoạch sản xuất kinh doanh của Nhà máy Do đặc điểm về sản phẩm của Nhà máy Quy chế II là chi tiết lắp xiết , do vậy hệ thống kế hoạch sản xuất kinh doanh của Nhà máy chỉ gồm có kế hoạch sản xuất kinh doanh theo thời gian . 2.3.1 Kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn của Nhà máy Kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn của Nhà máy có thời gian trùng với nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị của Công ty. Hội đồng quản trị lần thứ nhất của Công ty Cổ phần kinh doanh thiết bị công nghiệp có nhiệm kỳ là 4 năm từ năm 2003 đến 2007. Căn cứ vào những mục tiêu phát triển Công ty trong nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị đã được Đại hội đồng cổ đông nhất trí thông qua, Nhà máy xây dựng các chỉ tiêu của kế hoạch dài hạn trình Công ty phê duyệt , nội dung chính gồm : - Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng đạt tối thiểu 15%/năm. - Sản phẩm : Tăng tỷ lệ sản phẩm có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao trong cơ cấu sản phẩm của Nhà máy. Nghiên cứu và sản xuất những chủng loại sản phẩm mới trong nước chưa sản xuất được. - Khoa học công nghệ : Nghiên cứu cải tiến, phục hồi những máy móc trang thiết bị hiện có để tăng cường năng lực sản xuất đáp ứng được mức độ tăng trưởng và nâng cao năng suất của người lao động. - Đầu tư cho mở rộng phát triển sản xuất : Xây dựng và triển khai các phương án đầu tư theo chiều sâu cho phát triển sản xuất, tập trung vào các khâu còn yếu của Nhà máy. - Thu nhập cho người lao động : Tăng từ 5-8%/năm. - Chi trả cổ tức cho các cổ đông của Nhà máytối thiểu bằng lãi suất ngân hàng. 2.3.1 Kế hoạch sản xuất kinh doanh ngắn hạn của Nhà máy Kế hoạch sản xuất kinh doanh ngắn hạn của Nhà máy chính là kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm do Nhà máy đăng ký thực hiện và được Công ty Cổ phần kinh doanh Thiết bị công nghiệp phê duyệt. Các chỉ tiêu chính của kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm gồm : - Doanh thu tiêu thụ sản phẩm. - Tổng sản lượng sản xuất công nghiệp. - Khấu hao. - Lợi nhuận. - Nộp ngân sách. - Đơn giá tiền lương. Căn cứ vào chỉ tiêu của kế hoạch trên các đơn vị chức năng của Nhà máy sẽ xây dựng các kế hoạch bộ phận nhằm đảm bảo việc thực hiện Kế hoạch sản xuất kinh doanh , đó là các kế hoạch : Kế hoạch bán hàng và tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch tài chính, kế hoạch xây dựng cơ bản, kế hoạch lao động tiền lương , kế hoạch tuyển dụng lao động, kế hoạch khoa học công nghệ, kế hoạch cung ứng vật tư. 2.4 Thực trạng quy trình và phương pháp xây dựng kế hoạch sản xuất tại Nhà máy Quy chế II 2.4.1 Q uy trình xây dựng kế hoạch sản xuất Quy trình xây dựng kế hoạch sản xuất tại Nhà máy Quy chế II được tiến hành thực hiện qua 5 bước được trình bầy ở sơ đồ 2.3. Bước 1, phân tích , đánh giá việc thực hiện kế hoạch 9 tháng đầu năm và công tác chuẩn bị xây dựng kế hoạch sản xuất cho năm tới. Kết thúc Quý III sang quý IV hàng năm , Nhà máy bắt đầu chuẩn bị xây dựng kế hoạch cho năm tới. Phòng kinh doanh kết hợp với Phòng Tài chính - Kế toán tiến hành đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 9 tháng đầu năm được thể hiện trong bảng 2.11 và dự kiến tình hình thực hiện 3 tháng cuối năm . Để đánh giá chính xác tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất , các phân xưởng lập báo cáo tình hình sản xuất hàng tháng gửi về Phòng Tài chính - Kế toán để tổng hợp. Chính những hoạt động này giúp Nhà máy nắm bắt rất tốt về tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất của năm và có những giải pháp, điều chỉnh phù hợp nhằm hoàn thành kế hoạch sản xuất được giao với hiệu quả cao nhất. Các chỉ tiêu để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất 9 tháng đầu năm của Nhà máy là : Chỉ tiêu về số lượng, chủng loại sản phẩm, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang, giá trị sản xuất công nghiệp đã thực hiện so với kế hoạch được giao ; tiến độ thực hiện các đơn hàng; tỷ lệ phế phẩm, hàng hoá trả lại ; năng suất lao động của từng phân xưởng . Sơ đồ 2.3 Quy trình xây dựng kế hoạch sản xuất của Nhà máy Quy chế II Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm Lãnh đạo Nhà máy - Định hướng Phát triển của Công ty. - ý kiến chỉ đạo. Thông tin phân tích và dự báo thị trường Kế hoạch sản xuất dự thảo Hoạch định tổng hợp Kế hoạch sản xuất Hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu Trong giai đoạn chuẩn bị xây dựng kế hoạch sản xuất vào đầu quý IV hàng năm , Phòng Kinh doanh thường thu thập số liệu về nhu cầu thị trường đối với những sản phẩm truyền thống của Nhà máy trong sáu tháng đầu năm và năm trước , Nhu cầu của các khách hàng tiềm năng và khách hàng truyền thống trong năm tới , nhu cầu sản phẩm của các dự án lớn trong các lĩnh vực có sử dụng bu lông đai ốc nhiều như : các dự án xây lắp ngành điện, lắp máy, chế tạo kết cấu thép, đóng tầu, xi măng..v.v. Bảng 2.7 Báo cáo thực hiện kế hoạch sản xuất tháng 9/2006 CHỈ TIÊU Mã số Đơn vị tính Cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng báo cáo năm trước Năm nay Tháng báo cáo Cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng báo cáo Ước tính thực hiện tháng tiếp theo A B C 1 2 3 4 I. Giá trị SX Công nghiệp (giá cố định) 1.0 Triệu đồng 9.979,100 1.262,620 8.739,120 II. Doanh thu : Tổng số 2.0 “ 21.982,184 2.567,508 18.835,007 Trong tổng số : + Doanh thu Công nghiệp 2.1 “ 21.982,184 2.567,508 18.835,007 + Doanh thu Xuất khẩu 2.2 “ III. Sản phẩm sản xuất Boulon ,đai ốc,goujon, vis Tấn 997,910 126,262 773,912 Trong đó : - Sản xuất Tấn 993,918 119,962 743,586 - Mua ngoài Tấn 39,92 6,313 30,326 IV. Sản phẩm tiêu thụ trong tháng : Tên sản phẩm Đơn vị tính Số lượng tiêu thụ Đơn giá bán bình quân (1000đ) Tồn kho cuối tháng báo cáo Tổng số T.Đó : Xuất khẩu Boulon, đai ốc, goujon, vis Tấn 138,557 10.000 149, Trong đó - Sản xuất Tấn 131,244 - Mua ngoài Tấn 6.313 Nguồn : Báo cáo thực hiện KHSX 9/06,Phòng Tài chính – Kế toán Số liệu tổng hợp, phân tích nhu cầu sản phẩm, thị trường được Phòng kinh doanh thực hiện qua các thông tin số liệu : Chi tiết tiêu thụ sản phẩm, thông tin từ các khách hàng tiềm năng, khách hàng truyền thống, thông tin từ các cơ quan quản lý Nhà nước, các đơn vị tư vấn, thông tin từ các chủ đầu tư của các dự án lớn, thông tin từ các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường , thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng v.v. Sau khi có kết quả phân tích, đánh giá việc thực hiện kế hoạch sản xuất 9 tháng đầu năm kết hợp với kết quả dự báo và phân tích thị trường , Phòng kinh doanh xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Nhà máy để xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở đảm bảo định hướng phát triển của Công ty và thực hiện thành công các mục tiêu mà Hội đồng quản trị đã đề ra. Nhận xét chung về công tác chuẩn bị xây dựng kế hoạch sản xuất của Nhà máy Quy chế II là tương đối tốt. Tuy nhiên, khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch sản xuất Nhà máy mới chủ yếu phân tích các yếu tố chủ quan bên trong doanh nghiệp mà chưa chú trọng phân tích các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, đặc biệt là các yếu tố thị trường. Nhà máy cũng chưa đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu thị trường, thông tin về nhu cầu thị trường chủ yếu do phòng kinh doanh thu thập cũng không đầy đủ . Phòng kinh doanh chủ yếu tập trung vào công tác tiêu thụ sản phẩm , vẫn còn yếu trong việc nắm bắt một cách chi tiết, cụ thể về những nhu cầu của khách hàng , thị trường tiềm năng . Chính vì những lý do trên mà công tác chuẩn bị lập kế hoạch sản xuất của Nhà máy còn thiếu chính xác so với nhu cầu thực tế của thị trường làm ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Bước 2, xây dựng kế hoạch sản xuất dự thảo Sau khi hoàn thành và có số liệu phân tích của bước chuẩn bị xây dựng kế hoạch , Nhà máy tiến hành xây dựng kế hoạch sản xuất dự thảo cho năm tới. Để xây dựng kế hoạch sản xuất trước hết nhà máy phải căn cứ vào định hướng phát triển của Công ty phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng 15 - 20% so với năm trước, kết quả phân tích nhu cầu sản phẩm thị trường của phòng kinh doanh là căn cứ quan trọng đối với công tác xây dựng kế hoạch sản xuất dự thảo của nhà máy. Nhu cầu về sản phẩm của khách hàng, thị trường có vai trò trực tiếp định hướng cho Nhà máy lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất. Lợi nhuận và sự phát triển bền vững là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp, vì vậy nhà máy luôn phấn đấu đáp ứng những nhu cầu mong muốn của khách hàng và thị trường. Kế hoạch sản xuất dự thảo của nhà máy do phòng kinh doanh xây dựng sau khi đã tham khảo ý kiến của các đơn vị có liên quan là Phòng Kỹ thuật - Sản xuất, Phòng Tổ chức – Hành chính, Phòng Tài chính kế toán và ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Nhà máy, các chỉ tiêu về sản phẩm được thể hiện ở bảng 2.8. Bảng 2.8 Chỉ tiêu của kế hoạch sản xuất năm 2006 Chỉ tiêu Đơn vị tính Kế hoạch năm 2006 I. Giá trị tổng sản lượng 1000 đ 12.000.000 II. Sản lượng 1. Bu lông Tấn 900 2. Đai ốc Tấn 300 3. Mạ nhúng kẽm nóng Tấn 800 4. Nhiệt luyện Tấn 690 5. Kéo thép Tấn 1400 III. Tồn kho 1. Thành phẩm Tấn 100 2. Thép Tấn 300 Nguồn : Kế hoạch SX năm 2006, Phòng Kinh doanh - Về số lượng chủng loại sản phẩm Phòng kinh doanh căn cứ vào số lượng tiêu thụ hàng năm của Nhà máy và số liệu dự báo nhu cầu thị trường để xây dựng. Đây cũng chính là chỉ tiêu của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm do chính Phòng Kinh doanh xây dựng và thực hiện sau khi được phê duyệt. - Về dự trữ sản phẩm tồn kho, nguyên vật liệu, dụng cụ cho sản xuất : Số liệu tồn kho thành phẩm bán thành phẩm, nguyên vật liệu, dụng cụ cho sản xuất do Phòng kinh doanh trực tiếp quản lý. Vì nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm phải nhập ngoại , thời gian nhập hàng từ 2 đến 3 tháng. Theo kinh nghiệm sản xuất của Nhà máy trong nhiều năm qua , để đáp ứng nhu cầu thi công của khách hàng , Nhà máy luôn phải sản xuất để duy trì mức tồn kho khoảng 100 đến 120 tấn thành phẩm đáp ứng đơn hàng của khách hàng và nhu cầu thị trường. Đối với nguyên vật liệu dự trữ đáp ứng sản xuất của Nhà máy , mức dự trữ thép cho sản xuất 300 – 400 tấn là mức đủ cho sản xuất liên tục của Nhà máy trong 2 tháng. - Về nguồn nhân lực cho sản xuất : Chịu trách nhiệm chính về nguồn nhân lực cho sản xuất là phòng Tổ chức – Hành chính. Theo yêu cầu của các phòng ban, phân xưởng , Phòng Tổ chức – Hành chính xây dựng kế hoạch lao động, kế hoạch tuyển chọn và đào tạo trình ban lãnh đạo Nhà máy duyệt và thực hiện cho các đơn vị. Tuy nhiên, là đơn vị có quy mô không lớn và chưa có kế hoạch mở rộng sản xuất vì vậy nguồn nhân lực của Nhà máy huy động cho sản xuất tương đối ổn định. Đánh giá chung về chất lượng của kế hoạch sản xuất dự thảo. Với trách nhiệm là đơn vị được giao xây dựng kế hoạch sản xuất dự thảo, Phòng kinh doanh luôn cập nhật thông tin từ các đơn vị trong nội bộ Nhà máy và thông tin từ khách hàng. Vì vậy, kế hoạch sản xuất do Phòng kinh doanh dự thảo gần sát với kế hoạch sản xuất chính thức của Nhà máy. Tuy nhiên, khi xây dựng kế hoạch sản xuất dự thảo Phòng kinh doanh chủ yếu tập trung vào những sản phẩm và khách hàng truyền thống của Nhà máy mà chưa có những đề xuất đột phá về sản phẩm mới có giá trị cao, thị trường mới và chưa có kế hoạch khai thác những tiềm năng mà Nhà máy còn dư công suất như kéo thép, mạ nhúng. Kế hoạch sản xuất dự thảo chủ yếu là phục vụ cho kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của Phòng kinh doanh. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nếu không mạnh dạn đưa vào kế hoạch sản xuất những sản phẩm mới thì sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Bước 3 , xây dựng và lựa chọn phương án sản xuất Một kế hoạch sản xuất có hiệu quả và tính khả thi cao là kế hoạch đáp ứng được các yêu cầu : khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng và thị trường ở mức cao nhất có thể và khai thác được tối đa các nguồn lực, lợi thế của doanh nghiệp . Vì vậy, để xây dựng kế hoạch s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxHoàn thiện công tác xây dựng kế hoạch sản xuất tại Nhà máy Quy chế II – Công ty cổ phần kinh doanh thiết bị công nghiệp.docx
Tài liệu liên quan