MỤC LỤC
Lời mở đầu. Trang
I. Lý luậncơbản vềkếtoán,thuế- Mối quan hệgiữa kếtoán và thuế. 1
I.1. Khái niệm, nhiệm vụcủa kếtoán. 1
I.1.1. Sơlược vềlịch sửkếtoán Việt Nam. 1
I.1.2. Khái niệm kếtoán. 4
I.1.3. Nhiệm vụcủa kếtoán. 5
I.1.4. Yêu cầu kếtoán. 5
I.2. Khái niệm, đặc điểm, chức năng của thuế. 6
I.2.1. Sơlược vềquá trình phát triển của hệthống thuếViệt Nam. 6
I.2.2. Đặc điểm củathuế. 7
I.2.3. Chức năng củathuế. 8
I.3. Mối quan hệgiữa kếtoán và thuế. 8
I.3.1. Kếtoán là công cụcủa thuế. 8
I.3.2. Luật thuếchi phối đến hệthống kếtoán. 16
I.3.3. Sựkhác biệt trong việc ghi chép các nghiệp vụkinh tếtheo
chế độkếtoán và theo Luật thuế. 16
Kết luận chương I. 21
II. Thực trạng hệthống kếtoándoanh nghiệp và công tác quản
lý, hành thu thuếhiện nay. 22
II.1. Thực trạng hệthống kếtoán trong việc cung cấp thông tin
cho việc quản lý và hành thu thuếhiện nay. 22
II.1.1. Việcchấp hành pháp luật. 22
II.1.2. Tổchức bộmáy kếtoán. 23
II.1.3. Chứng từ. 24
II.1.4.Tài khoản. 36
II.1.5. Sổsách. 38
II.1.6. Báo cáo. 39
II.1.7. Phương pháp hạch toán . 40
II.2. Thực trạng công tác quản lý và hành thu thuếhiện nay. 42
Kết luận chương II. 46
III. Hoàn thiện hệthống kếtoán đểnâng cao hiệu quả
quản lý và hành thu thuế. 47
III.1. Yêu cầu cơbản của việc hoàn thiện. 47
III.2. Giải pháphoàn thiện. 48
III.2.1. Giải pháp vĩmô. 48
III.2.2. Giải pháp vi mô . 51
Kết luận chương III. 66
Phụlục
Tài liệu tham khảo
97 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện hệ thốn kế toán doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả công tác quản lý và hành thu thuế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
in lại chứng từ, sổ sách. Quy trình kế toán đa số
còn thực hiện chưa đúng quy định. Theo quy định của hình thức kế toán, việc
phản ánh số liệu được thực hiện bắt đầu từ khâu chứng từ. Khi chứng từ được
lập đầy đủ các chỉ tiêu và được phê duyệt của người có trách nhiệm thì số liệu
mới được vào sổ kế toán và báo cáo kế toán. Tuy nhiên, phần lớn doanh
nghiệp nhập nghiệp vụ phát sinh trên phần mềm kế toán, sau đó mới in chứng
từ ghi chép ban đầu ra và ký tên, xét duyệt. Như vậy, khi nghiệp vụ được
nhập liệu trên phần mềm, nghiệp vụ đó lập tức đã vào sổ kế toán và báo cáo
bất kể đã được xét duyệt hay chưa.
II.1.6. Báo cáo.
II.1.6.1. Kết quả đạt được.
Doanh nghiệp đa số đều mở đủ các báo cáo kế toán theo quy định của
kế toán và các báo cáo thuế phục vụ cho việc kê khai nộp thuế hàng tháng,
năm. Đồng thời các báo cáo quản trị cũng được mở căn cứ vào thông tin kế
toán, đáp ứng được yêu cầu quản lý của doanh nghiệp.
II.1.6.2. Tồn tại, hạn chế.
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp phản ánh tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh, tình hình về tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp trong năm.
Báo cáo tài chính được nhiều đối tượng quan tâm như: nhà quản lý trong
doanh nghiệp, nhà đầu tư, người cho vay vốn, nhà cung cấp, khách hàng, cơ
quan hữu quan nhà nước ... Báo cáo tài chính cung cấp cho người sử dụng cơ
Phụ lục - Trang 43
sở để đánh giá về tình hình hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp
để từ đó đưa ra quyết định phù hợp.
Tuy nhiên hiện nay thông tin được cung cấp từ báo cáo tài chính chưa
đáp ứng đủ yêu cầu của các đối tượng quan tâm đến doanh nghiệp nói trên.
Lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế có sự khác nhau. Tuy nhiên thu nhập
chịu thuế không được phản ánh trên báo cáo tài chính. Một vấn đề quan trọng
nữa mà nhà đầu tư, khách hàng quan tâm là mức độ chấp hành pháp luật thuế
của doanh nghiệp - thể hiện mức độ tin cậy của thông tin, tính minh bạch của
hoạt động sản xuất kinh doanh - cũng không thể hiện trên báo cáo tài chính.
II.1.7. Phương pháp hạch toán.
II.1.7.1. Kết quả đạt được.
Đa số các doanh nghiệp tuân thủ đúng nguyên tắc hạch toán kế toán,
tính toán các ước tính kế toán đúng quy định. Nhờ vậy, kết quả hoạt động
cũng như tình hình tài chính của từng doanh nghiệp được phản ánh trung
thực, gần với thực tế.
II.1.7.2. Tồn tại, hạn chế.
a. Doanh thu ghi nhận không kịp thời.
Thời điểm xác định doanh thu được luật thuế quy định:
- Đối với hàng hóa: là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa
hoặc xuất hóa đơn bán hàng.
- Đối với dịch vụ là thời điểm dịch vụ hoàn thành hoặc xuất hóa đơn
bán hàng.
Thực tế còn tồn tại nhiều doanh nghiệp chỉ lập hóa đơn bán hàng và ghi
nhận doanh thu khi khách hàng đã thanh toán tiền nên không có sự tương
xứng giữa doanh thu và chi phí trong một niên độ. Việc không xuất hóa đơn
kịp thời thường được biện minh là để ràng buộc việc thanh toán tiền của
khách hàng.
Phụ lục - Trang 44
b. Chuyển giá.
Luật thuế quy định cơ sở kinh doanh có trách nhiệm thực hiện việc
mua, bán, trao đổi và hạch toán giá trị hàng hóa, dịch vụ theo giá trị trường
trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên hiện nay, việc chuyển giá
nhằm mục đích trốn thuế còn tồn tại không ít nhưng cơ quan thuế cũng như
các cơ quan chức năng khác chưa có biện pháp hiệu quả để ngăn chặn. Việc
chuyển giá được thực hiện giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau do có
sự chênh lệch thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ việc ưu đãi đầu tư
mang lại; giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp ở nước ngoài do sự
chênh lệch về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế suất thuế xuất nhập
khẩu, ưu đãi đầu tư, môi trường chính trị - xã hội, kỳ vọng tỷ giá; đặc biệt là
do có hành vi gian lận. Các doanh nghiệp này đều có mối quan hệ các bên liên
quan, mà thường là mối quan hệ cùng một chủ đầu tư.
Cơ quan thuế có quyền được xác định lại giá mua, giá bán theo giá thị
trường nếu phát hiện có vấn đề bất hợp lý về giá. Luật thuế cho phép ấn định
theo 3 cách sau (quy định tại Thông tư 13/2001/TT-BTC ngày 08/03/2001 của
Bộ tài chính):
- Một là, so sánh giá trên thị trường: Sử dụng giá sản phẩm trên thị
trường để ấn định với điều kiện là hàng hóa dịch vụ phải cùng chất lượng,
nhãn hiệu, điều kiện giao hàng, điều kiện thanh toán;
- Hai là, sử dụng giá bán ra để tính giá mua vào đối với doanh nghiệp
kinh doanh thương nghiệp: cơ quan thuế sẽ căn cứ vào giá bán ra cho doanh
nghiệp độc lập (không phải là công ty liên kết) và tỷ lệ lãi gộp bình quân
ngành thương nghiệp để xác định giá mua vào;
- Ba là, sử dụng giá thành toàn bộ để xác định thu nhập chịu thuế đối
với doanh nghiệp sản xuất: Căn cứ vào giá thành toàn bộ (giá vốn, chi phí bán
Phụ lục - Trang 45
hàng, chi phí quản lý) và tỷ lệ thu nhập ròng bình quân ngành sản xuất để xác
định thu nhập chịu thuế.
Tuy nhiên, trên thực tế cơ quan thuế khó có thể xác định lại giá cả hợp
lý do: không thể có sản phẩm đồng nhất từ các doanh nghiệp khác cùng lưu
thông trên thị trường; không có hướng dẫn cách quy các sản phẩm về cùng
chất lượng, nhãn hiệu, điều kiện giao hàng; không có căn cứ và chưa có quy
định để xác định tỷ lệ lãi gộp bình quân ngành. Do vậy việc tính lại giá cả hợp
lý rất khó thực hiện và đặc biệt là chưa đảm bảo cơ sở pháp lý.
c. Không lập hoặc lập định mức tiêu hao vật tư cao hơn thực tế.
Theo Luật thuế thu nhập, doanh nghiệp phải xây dựng định mức tiêu
hao vật tư. Khi kết thúc niên độ, doanh nghiệp phải thực hiện quyết toán vật
tư. Tuy nhiên thực tế có rất ít doanh nghiệp thực hiện đúng do nhiều nguyên
nhân:
- Đối với doanh nghiệp mới đi vào sản xuất hoặc sản xuất theo đơn đặt
hàng, việc xây dựng định mức tiêu hao vật tư là rất khó khăn do có rất nhiều
loại sản phẩm khác nhau và nhiều sản phẩm chưa từng sản xuất trước đó;
- Các doanh nghiệp cố tình không xây dựng định mức mặc dù khả năng
có thể làm được;
- Doanh nghiệp xây dựng định mức cao hơn thực tế rất nhiều và hạch
toán vào chi phí nhằm giảm lợi nhuận kế toán, thu nhập chịu thuế.
Do vậy, đối với khoản mục chi phí nguyên vật liệu, nếu căn cứ vào
định mức tiêu hao để kiểm tra thì khó có thể thực hiện được và chưa đủ cơ sở
thực tế.
II.2. Thực trạng công tác quản lý và hành thu thuế hiện nay.
Qua cuộc cải thuế bước I từ năm 1990 đến năm 1995, cải cách thuế
bước II từ năm 1996 đến nay, Nhà nước đã xây dựng được một hệ thống
chính sách thuế bao quát hầu hết các nguồn thu, luôn được sửa đổi bổ sung để
Phụ lục - Trang 46
phù hợp với thực tiễn. Hệ thống chính sách thuế đã trở thành công cụ hiệu quả
để Nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô theo định hướng phát triển kinh tế,
khuyến khích sản xuất kinh doanh. Bộ máy quản lý thuế ngày càng được kiện
toàn đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Các thành tựu thu được đáng kể như
sau:
- Đã xây dựng được hệ thống chính sách thuế tiên tiến áp dụng cho mọi
thành phần kinh tế và một hệ thống bộ máy tổ chức quản lý thuế thống nhất
trong cả nước;
- Các quy trình và biện pháp quản lý thuế được xây dựng thống nhất
trong cả nước và theo hướng chuyển từ chế độ chuyên quản khép kín sang chế
độ quản lý thuế tự khai - tự nộp thuế, các thủ tục hành chính thuế đều được
công khai;
- Công tác thanh kiểm tra thuế đã được đẩy mạnh và là một biện pháp
quản lý tiên tiến trong cơ chế tự khai - tự nộp thuế;
- Công tác tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế bước đầu đã được
coi trọng nhằm giúp đỡ đối tượng nộp thuế trong việc nâng cao ý thức chấp
hành và thực hiện đúng chính sách thuế;
- Công nghệ thông tin đã được ứng dụng trong quản lý, bước đầu đáp
ứng đáng kể yêu cầu quản lý thuế;
- Đội ngũ cán bộ thuế được tăng cường về số lượng, chất lượng chuyên
môn và đạo đức.
Bên cạnh đó, trước yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hòa nhập vào kinh tế quốc tế, việc quản lý thuế cũng có những
hạn chế, tồn tại chưa đáp ứng được yêu cầu. Cụ thể như sau:
- Về môi trường kinh tế - xã hội: Môi trường kinh tế - xã hội chưa được
cải cách đồng bộ, chưa có sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành như: tài
chính, ngân hàng, quản lý xuất nhập cảnh, quản lý đăng ký kinh doanh, quản
Phụ lục - Trang 47
lý xuất nhập khẩu, công an, chính quyền địa phương ... nên chưa tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác quản lý thuế trong việc thu thập, tập hợp thông tin một
cách đầy đủ về doanh nghiệp và làm hạn chế chất lượng công tác kiểm tra kế
toán tại doanh nghiệp.
Nhận thức xã hội về thuế còn thấp, đại bộ phận người dân chưa hiểu rõ
bản chất của thuế nên ý thức chấp hành còn thấp và chưa tự nguyện đóng góp
thu nhập để xây dựng đất nước. Đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
có những hành vi hạch toán sai quy định để che dấu thu nhập nhằm mục đích
trốn thuế.
- Về chính sách thuế: Chính sách thuế chưa đảm bảo công bằng về
nghĩa vụ thuế đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến
khích, ưu đãi quá nhiều về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, thời gian
miễn giảm thuế, điều kiện tín dụng. Đồng thời, chính sách thuế còn khá phức
tạp, nhiều mức miễn giảm, nhiều mức thuế suất. Điều này làm cho chính sách
không được hiểu một cách rõ ràng và nhất quán. Việc áp dụng chính sách gặp
nhiều khó khăn không những đối với bản thân doanh nghiệp trong việc phản
ánh kế toán và kê khai thuế, mà còn đối với cả cán bộ thuế trong việc thực
hiện quản lý. Mặt khác, tạo ra động cơ cho các doanh nghiệp (nhất là các
doanh nghiệp trong nước) cố tình lập các chứng từ không trung thực, hạch
toán kế toán không đúng quy định hoặc thông đồng với nhau nhằm phục vụ
cho ý đồ không trong sáng.
- Về việc quản lý thuế: Công tác tuyên tuyền giáo dục về thuế chưa
được đẩy mạnh. Trách nhiệm và quyền lợi của đối tượng nộp thuế cũng như
của cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân có liên quan chưa được quy định
đầy đủ và thống nhất. Việc quản lý chưa dựa trên cơ sở thu thập thông tin,
phân tích đánh giá theo các tiêu thức quản lý để phân loại đối tượng nộp thuế.
Phụ lục - Trang 48
Nhiều khâu quản lý còn thực hiện thủ công, chưa được ứng dụng công nghệ
thông tin. Công tác lưu trữ chưa tập trung mà còn rãi rác ở các nơi, gây khó
khăn trong việc tra cứu. Công tác thanh kiểm tra thuế chưa phù hợp với thực
tế, chưa được thực hiện trên cơ sở thu thập thông tin và đánh giá đầy đủ về
đối tượng nộp thuế. Việc xử lý vi phạm về thuế chưa đủ sức răn đe, giáo dục.
- Về bộ máy thuế: Cơ quan thuế chưa được giao chức năng điều tra,
khởi tố vi phạm về thuế, chức năng cưỡng chế thu nợ chưa được quy định rõ
nên hạn chế hiệu quả công tác kiểm tra kế toán và xử lý vi phạm về thuế.
- Về đội ngũ cán bộ thuế: Đại bộ phận cán bộ thuế chưa có kỹ năng,
kiến thức chuyên sâu về kế toán và thuế. Do vậy, công tác hướng dẫn doanh
nghiệp về các phương pháp lập báo cáo, phương pháp hạch toán kế toán thuế
không được thực hiện tốt và chưa đáp ứng yêu cầu từ phía doanh nghiệp. Một
bộ phận cán bộ thuế có đạo đức xấu, thiếu tinh thần trách nhiệm gây thất thu
cho Ngân sách Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngành thuế, làm giảm
lòng tin của người dân và doanh nghiệp đối với cơ quan thuế.
Phụ lục - Trang 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Đến nay, chúng ta đã xây dựng được một hệ thống kế toán tương đối
hoàn thiện, phù hợp với tình hình thực tiễn trong nước và đang dần hòa nhập
vào thế giới. Kế toán đã góp phần ghi chép và phân tích những thông tin kinh
tế, tài chính, tham mưu cho nhà quản lý doanh nghiệp ra những quyết định
kinh doanh. Đồng thời kế toán là công cụ giám sát tài chính giúp bản thân
doanh nghiệp cũng như cơ quan nhà nước ngăn ngừa kịp thời những hành vi
gian lận. Hơn nữa, kế toán là công cụ hiệu quả trong việc quản lý thuế, góp
phần giúp nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Bên cạnh đó, thực tế cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Nhiều
doanh nghiệp chưa chấp hành tốt chính sách pháp luật do nhiều nguyên nhân
chủ quan lẫn khách quan. Đặc biệt có nhiều đối tượng cố tình lợi dụng những
kẻ hở của pháp luật để gian lận, trốn thuế. Một số quy định của luật còn nhiều
bất cập, chưa khả thi. Do vậy, cần có những giải pháp trước mắt và lâu dài để
chấn chỉnh và hoàn thiện những yếu tố cấu thành kế toán, những quy định của
chính sách thuế nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý thuế, mang lại
nguồn thu bền vững và lâu dài cho đất nước.
Phụ lục - Trang 50
Chương III. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP
ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ HÀNH THU THUẾ
III.1. Yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện.
* Hoàn thiện công tác kế toán trong doanh nghiệp phải đảm bảo:
- Một là, tuân thủ đúng chế độ kế toán và chính sách thuế;
- Hai là, đáp ứng yêu cầu quản lý nội bộ doanh nghiệp và của cơ quan
quản lý nhà nước;
- Ba là, nâng cao hiệu quả của hệ thống kế toán doanh nghiệp.
* Hoàn thiện chính sách, chế độ kế toán cần đảm bảo:
- Thứ nhất là phải thỏa mãn yêu cầu quản lý kinh tế, tài chính;
- Thứ hai là phải sát thực tế, phù hợp với trình độ quản lý của doanh
nghiệp;
- Thứ ba, việc hoàn thiện có tính đến xu hướng phát triển kinh tế, xã
hội.
* Hoàn thiện chính sách thuế phải đảm bảo:
- Một là, tính công bằng: Nhằm tạo ra môi trường sản xuất kinh doanh
bình đẳng;
- Hai là, tính hiệu quả: Chính sách thuế phải được xây dựng sát thực tế;
- Ba là, tính chính xác: Chính sách thuế phải rõ ràng và minh bạch
nhằm tạo thuận lợi cho việc thực thi luật thuế cho đối tượng nộp thuế
cũng như cơ quan quản lý thuế;
- Bốn là, tính thuận lợi: Chính sách thuế phải thực sự dễ hiểu, dễ thực
hiện, dễ quản lý và khả năng thích ứng với những hoàn cảnh kinh tế
thay đổi.
Phụ lục - Trang 51
III.2. Giải pháp hoàn thiện.
III.2.1. Giải pháp vĩ mô.
III.2.1.1. Cải cách môi trường kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, Nhà nước cần cải cách môi trường kinh tế - xã hội một cách
đồng bộ. Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng, an toàn nhằm
khuyến khích mở rộng đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt
khác, tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài có sự an tâm, tin tưởng vào môi
trường kinh tế - xã hội - chính trị ổn định ở Việt Nam nên sẽ triệt tiêu một
trong những động cơ dẫn đến hành vi chuyển giá.
Thứ hai, hệ thống pháp luật kế toán và thuế cần được xây dựng có sự
ổn định lâu dài, sát với thực tế, thủ tục đơn giản, dễ hiểu. Như vậy, việc hiểu
và áp dụng chính sách sẽ dễ dàng về cả phía doanh nghiệp và về phía cơ quan
nhà nước.
Thứ ba, Nhà nước tăng cường đưa ra những giải pháp tài chính để
nâng cao chất lượng hệ thống tài chính - ngân hàng nhằm đẩy mạnh việc giao
dịch, thanh toán qua ngân hàng, giảm lượng thanh toán bằng tiền mặt đến
mức tối thiểu trong nền kinh tế. Nền kinh tế mà đại đa số giao dịch đều được
thực hiện qua hệ thống ngân hàng sẽ nâng cao sự minh bạch trong kinh
doanh, cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan thuế nói riêng sẽ kiểm tra,
kiểm soát được hoạt động kinh tế, tài chính của mọi cá nhân, tổ chức sản xuất
kinh doanh.
III.2.1.2. Nâng cao việc quản lý của các cơ quan nhà nước.
Thứ nhất là xây dựng mạng công nghệ thông tin hiện đại. Trước mắt,
Nhà nước cần nhanh chóng tạo lập hệ thống thông tin liên kết giữa các cơ
quan ban ngành (cơ quan thuế, hải quan, quản lý xuất nhập cảnh, cơ quan cấp
giấy phép đầu tư, ngân hàng, thống kê, công an ...) để trao đổi thông tin quản
Phụ lục - Trang 52
lý. Về lâu dài, cần đưa mạng thông tin phục vụ cho việc kê khai tính thuế đến
từng doanh nghiệp để các doanh nghiệp chủ động kê khai trên mạng. Như vậy
sẽ giảm được chi phí hành chính và đặc biệt là cơ quan thuế sẽ có được một
cơ sở dữ liệu thuế đầy đủ, chi tiết phục vụ cho công tác quản lý hiệu quả hơn.
Thứ hai là tăng cường sự phối hợp trong quản lý giữa các cơ quan ban
ngành về việc lập kế hoạch kinh tế - tài chính, kế hoạch thanh kiểm tra.
Thường xuyên trao đổi thông tin và kết hợp với nhau trong công tác thanh
kiểm tra việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp để vừa đảm bảo chủ
trương không gây phiều hà đến hoạt động của doanh nghiệp vừa nâng cao
chất lượng kiểm tra kế toán.
Thứ ba là nâng cao chất lượng công tác quản lý của cơ quan thuế. Cơ
quan thuế cần tiến hành ngay việc tập hợp thông tin từng doanh nghiệp thành
01 hồ sơ doanh nghiệp với các thông tin chi tiết về số liệu kê khai thuế, tình
hình chấp hành pháp luật, kết quả sản xuất kinh doanh, tình hình tài sản,
thông tin các bên liên quan, ... Từ đó, đánh giá từng doanh nghiệp theo tiêu
thức quản lý để có kế hoạch thanh kiểm tra có chọn lọc, ngăn ngừa và phát
hiện kịp thời gian lận thuế. Tổ chức công tác lưu trữ thông tin, hồ sơ một cách
tập trung và khoa học để phục vụ cho công tác quản lý. Đồng thời, không
ngừng nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ thuế trong lĩnh vực kế toán
và lĩnh vực thuế thông qua các lớp tập huấn, khuyến khích và tạo điều kiện
cho cán bộ học tập nâng cao trình độ. Mặt khác, thông qua tổ chức chính trị,
không ngừng rèn luyện đạo đức, tác phong cho cán bộ thuế.
III.2.1.3. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Ý thức chấp hành pháp luật là một nhân tố quan trọng nhất quyết định
sự thực thi pháp luật một cách đúng đắn, nâng cao vai trò quản lý của nhà
nước. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật phải bằng nhiều biện pháp khác
nhau để các đối tượng tự nguyện chấp hành, xem việc tuân thủ luật pháp về
Phụ lục - Trang 53
kế toán và thuế không những là một việc làm bắt buộc, mà còn là một quyền
lợi, góp phần mang lại lợi ích cho bản thân nói riêng và cho đất nước nói
chung.
Một là, cơ quan quản lý nhà nước (cơ quan thuế, cơ quan hải quan...) và
hội nghề nghiệp (hội kế toán - kiểm toán, hội doanh nghiệp...) cần tăng cường
công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật đến từng doanh nghiệp
bằng cách tổ chức các cuộc hội thảo, các lớp tập huấn nghiệp vụ - chính sách,
cuộc thi tìm hiểu về kế toán - thuế, phát hành những tài liệu tóm tắt... nhằm
giúp doanh nghiệp hiểu rõ pháp luật và tự giác chấp hành. Cơ quan nhà nước
phải tăng cường cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho doanh nghiệp nhằm hướng dẫn
một cách đầy đủ, tận tình, tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nghiệp thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Đồng thời thông qua các
phương tiện truyền thông, cơ quan thuế cần phải tuyên truyền chủ trương,
chính sách thuế đến mọi người dân. Từ đó giúp người dân hiểu được bản chất
tốt đẹp của thuế, tự nguyện đóng góp thu nhập để xây dựng đất nước và có
thái độ cương quyết trong việc ngăn chặn những hành vi gian lận trốn thuế
của doanh nghiệp.
Hai là, cơ quan nhà nước cần tạo lập mối quan hệ bình đẳng, thân thiện
với doanh nghiệp, xem doanh nghiệp là người bạn đồng hành trong việc thực
hiện chính sách pháp luật nhằm hướng tới mục tiêu chung là phát triển kinh
tế. Do vậy, cơ quan nhà nước phải quán triệt đến từng cán bộ, bãi bỏ tâm lý
"cai trị, áp đặt" đối với doanh nghiệp.
Ba là, cơ quan thuế cần đẩy mạnh về chất lượng cũng như số lượng
công tác thanh kiểm tra và cưỡng chế thuế. Thanh kiểm tra có trọng điểm trên
cơ sở tập hợp đầy đủ thông tin và có sự phân tích hợp lý nhằm ngăn chặn kịp
thời các hành vi vi phạm. Qua đó, tăng cường việc hướng dẫn, răn đe các đối
tượng khai man trốn thuế để họ hướng tới việc chấp hành đúng pháp luật.
Phụ lục - Trang 54
Bốn là, Nhà nước cần có sự chế tài nghiêm khắc, nâng cao tính nghiêm
minh của pháp luật trong việc xử lý các doanh nghiệp cũng như cán bộ công
chức có hành vi vi phạm. Đưa ra các hình thức xử phạt theo hướng xử phạt về
kinh tế được tính theo số lần trên số tiền thuế mà các doanh nghiệp cố tình vi
phạm đã làm giảm số thuế phải nộp hoặc tăng số thuế được hoàn, được miễn
giảm. Qua đó, giảm thiểu thiệt hại về kinh tế và nâng cao sức răn đe của pháp
luật.
III.2.1.3. Các kiến nghị khác.
Thứ nhất, Nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến khích thành lập các
câu lạc bộ, hội nghề nghiệp về kế toán - kiểm toán- thuế. Thông qua đó, mọi
người có thể cập nhật kiến thức, trao đổi kinh nghiệm. Đặc biệt, quyền lợi
người kế toán có thể được bảo vệ thông qua tổ chức nghề nghiệp.
Thứ hai, Nhà nước cần tiến tới việc quy định kiểm toán độc lập về tài
chính đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đồng
thời, trong nội dung kiểm toán, quy định thêm nội dung kiểm toán về việc kê
khai, quyết toán thuế theo những quy định của luật thuế. Cơ quan thuế sẽ
không tiến hành kiểm tra quyết toán thuế toàn bộ các doanh nghiệp nữa mà
căn cứ vào kết quả kiểm toán thuế. Sau đó, cơ quan thuế chỉ thanh tra các
doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
III.2.2. Giải pháp vi mô.
III.2.2.1. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Doanh nghiệp cần phải nhận thức được rằng việc chấp hành tốt pháp
luật là một chính sách để doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu bền, tạo môi
trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, đặc biệt việc chấp hành đúng pháp
luật là một yêu cầu hàng đầu một khi đất nước ta gia nhập vào tổ chức thương
mại thế giới.
Phụ lục - Trang 55
Người làm công tác kế toán doanh nghiệp phải nắm vững chính sách
pháp luật về thuế và kế toán. Luôn luôn học tập, nâng cao trình độ, cập nhật
chính sách mới thường xuyên, liên tục.
Người lãnh đạo doanh nghiệp phải biết những kiến thức cơ bản và
những quy định chủ yếu của luật thuế và kế toán, các hình thức chế tài. Để từ
đó hạn chế việc vô tình hay cố ý gây áp lực cho người kế toán làm sai quy
định pháp luật để mang lại lợi ích không chính đáng.
III.2.2.2. Tổ chức bộ máy kế toán doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần tổ chức bộ máy kế toán phù hợp với quy mô, ngành
nghề hoạt động. Sử dụng số lượng nhân viên kế toán vừa đủ trên cơ sở phân
công phân nhiệm hợp lý và có chính sách khuyến khích làm việc lâu dài với
doanh nghiệp. Không vì mục tiêu giảm thiểu chi phí tiền lương mà sử dụng số
lượng nhân viên phụ trách kế toán không đủ đáp ứng khối lượng công việc và
bố trí công việc vi phạm nguyên tắc bất kiêm nhiệm. Có như vậy thì mới
mang lại lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp trong việc hạn chế những gian lận,
sai sót trong nghiệp vụ; nâng cao chất lượng thông tin kế toán phục vụ cho
yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Đồng thời đáp ứng kịp thời, chính xác trong
việc báo cáo cho các đối tượng có liên quan bên ngoài doanh nghiệp.
Không bố trí các vị trí quan trọng trong bộ máy kế toán mà có mối
quan hệ gia đình với nhau hoặc có mối quan hệ gia đình với lãnh đạo doanh
nghiệp nhằm đảm bảo sự độc lập trong chuyên môn nghiệp vụ và hạn chế sự
thông đồng nhằm biển thủ tài sản.
Tổ chức hợp lý mối quan hệ giữa các phần hành kế toán; giữa bộ phận
kế toán với các bộ phận khác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp; giữa
doanh nghiệp và các chi nhánh, các doanh nghiệp cấp trên nhằm để thông tin
được lưu chuyển kịp thời, chính xác, bảo mật, đáp ứng yêu cầu quản lý.
Phụ lục - Trang 56
Cân nhắc đến việc thuê dịch vụ tư vấn kế toán chuyên nghiệp. Loại
hình dịch vụ tư vấn kế toán đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ về số lượng
cũng như chất lượng do có sự chuyên nghiệp. Loại hình này phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế hiện nay và xu hướng hội nhập quốc tế. Đối với các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ, ngành nghề đơn giản, doanh nghiệp đang trong
giai đoạn đầu tư, giai đoạn đầu sản xuất thì nên lựa chọn phương án thuê dịch
vụ kế toán được cung cấp bởi các doanh nghiệp tư vấn, dịch vụ kế toán. Như
vậy sẽ tiết kiệm được chi phí nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng công tác kế
toán. Đồng thời ràng buộc được trách nhiệm pháp lý cũng như lợi ích kinh tế
của doanh nghiệp với công ty cung cấp dịch vụ.
Xây dựng bộ phận kế toán quản trị, kiểm toán nội bộ. Một khi Việt nam
gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO, các doanh nghiệp trong nước
sẽ có nhiều cơ hội để phát triển kinh doanh, đồng thời cũng có nhiều thách
thức to lớn bởi sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp nước ngoài. Tình
hình mới đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải dần từ bỏ thói quen kinh
doanh nhỏ lẻ, mang tính gia đình. Một trong những yêu cầu đặt ra để nâng cao
sức cạnh tranh chính là nâng cao chất lượng của thông tin kế toán. Doanh
nghiệp cần hướng đến việc xây dựng bộ phận kế toán quản trị để tham mưu
cho nhà quản lý những phương án kinh doanh hiệu quả, đưa ra giá bán hợp lý
trong từng trường hợp ứng với những mục tiêu kinh doanh khác nhau để có
thể nắm bắt thời cơ kịp thời, đối phó với những khó khăn và có những
phương án kinh doanh hiệu quả. Đồng thời, bộ phận kiểm toán nội bộ cũng
cần được chú trọng. Kiểm toán nội bộ đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm
tra tài chính, kiểm soát hoạt động nhằm ngăn ngừa và phát hiện kịp thời
những gian lận, đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả của quá trình sản
xuất kinh doanh cũng như cải thiện tình hình tài chính của bản thân doanh
nghiệp.
Phụ lục - Trang 57
III.2.2.3. Hoàn thiện chứng từ, tài khoản, sổ sách, báo cáo, p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 44023.pdf