MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 6
1.1. Những vấn đề chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 6
1.2. Thí điểm cổ phần hóa một số tổng công ty nhà nước ở Việt Nam 13
Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC CHÍNH SÁCH VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC 18
2.1. Thực trạng các chính sách và quy định của pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam 18
2.2. Thực trạng triển khai cổ phần hóa Tổng công ty VINACONEX trực thuộc Bộ Xây dựng 30
2.3. Tìm hiểu kinh nghiệm chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước ở một số nước trên thế giới và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 61
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 87
3.1. Một số định hướng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và tổng công ty nhà nước 87
3.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 88
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam 92
KẾT LUẬN 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
109 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1966 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện khung pháp luật về cổ phần hóa tổng công ty nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g, sản phẩm v.v...
- Được độc lập và chủ động trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và chịu trách nhiệm trước đại hội cổ đông, hội đồng quản trị công ty về kết quả hoạt động của công ty.
c) Công ty liên kết
Công ty liên kết là thành viên của công ty mẹ, có vốn góp không chi phối của công ty mẹ, có mối quan hệ với công ty mẹ trên cơ sở các hợp đồng kinh tế, hợp đồng hợp tác kinh doanh và tuân thủ điều lệ của công ty mẹ.
* Các công ty liên kết bao gồm
- Các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn góp không chi phối của công ty mẹ, được thành lập, tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và các quy định pháp luật có liên quan.
- Các công ty liên doanh với nước ngoài được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có số vốn không chi phối của công ty mẹ.
- Các công ty không có vốn góp của công ty mẹ nhưng tự nguyện tham gia làm thành viên của công ty mẹ.
* Chức năng hoạt động của công ty liên kết
- Các công ty liên kết là các công ty nằm trong mô hình công ty mẹ - công ty con. Công ty mẹ đầu tư nắm giữ một phần không chi phối vốn điều lệ hoặc cổ phần.
- Các công ty liên kết có tư cách pháp nhân độc lập, hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề được đăng ký kinh doanh. Tuân thủ theo điều lệ của công ty, theo quy định của pháp luật. Công ty liên kết được tổ chức theo loại hình pháp lý mà doanh nghiệp đó đăng ký kinh doanh.
- Các công ty liên kết chịu sự chi phối của công ty mẹ trong các lĩnh vực do hai bên thỏa thuận trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Các công ty liên kết được hoạt động một cách độc lập phù hợp với chiến lược phát triển của công ty, định hướng phát triển chung của công ty mẹ và các quy định hiện hành của pháp luật. Quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty liên kết được xây dựng dựa trên cơ sở bình đẳng thông qua các thỏa thuận hợp tác, hợp đồng liên doanh, liên kết,...
* Trách nhiệm và quyền hạn của công ty liên kết đối với công ty mẹ
- Công ty con chỉ chịu sự chi phối của công ty mẹ về công nghệ, phân chia thị trường, sản phẩm... theo sự thỏa thuận giữa hai bên thông qua các hợp đồng kinh tế.
- Được độc lập và chủ động trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị công ty về kết quả hoạt động của công ty.
2.2.5. Một số khó khăn vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thí điểm cổ phần hóa của VINACONEX
a) Công tác chỉ đạo chung
Do Tổng công ty VINACONEX được lựa chọn là một trong ba tổng công ty được thực hiện thí điểm cổ phần hóa nên thẩm quyền cao nhất trong việc chỉ đạo cổ phần hóa là Thủ tướng Chính phủ. Để giúp cho Thủ tướng trong công tác chỉ đạo thí điểm cổ phần hóa, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ trưởng Bộ Xây dựng ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hóa thí điểm Tổng công ty VINACONEX gồm đại diện các Bộ: Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Nội vụ, Lao động - Thương binh và Xã hội, Ngân hàng Nhà nước, Ban Kinh tế Trung ương và một đại diện của Văn phòng Chính phủ. Tuy nhiên, công tác chỉ đạo còn nhiều lúng túng, đặc biệt không có cơ quan nào có thẩm quyền quyết định ngay những vấn đề mà doanh nghiệp kiến nghị trong quá trình triển khai các nội dung cổ phần hóa, thậm chí giữa các bộ ngành còn nhiều ý kiến khác nhau. Mặt khác, do công tác chỉ đạo mang tính chất tập thể nên các quyết định của Ban chỉ đạo thường rất lâu và ảnh hưởng lớn đến việc triển khai các công việc của Tổng công ty. Do cơ chế chỉ đạo như vậy, nên Tổng công ty đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng Đề án thí điểm cổ phần hóa và triển khai thực hiện Đề án cổ phần hóa khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
b) Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
Theo quy định tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chớnh phủ về việc chuyển cụng ty nhà nước thành cụng ty cổ phần có các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp như sau:
Phương pháp theo giá trị tài sản;
Phương pháp chiết khấu dòng tiền;
Các phương pháp khác.
Theo hướng dẫn tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chớnh phủ về việc chuyển cụng ty nhà nước thành cụng ty cổ phần và căn cứ đặc thự của đơn vị, việc xỏc định giỏ trị doanh nghiệp và phần vốn nhà nước tại Tổng Cụng ty sẽ ỏp dụng phương phỏp theo giỏ trị tài sản. So với cỏc phương phỏp xỏc định giỏ trị khỏc như phương phỏp chiết khấu dũng tiền và phương phỏp so sỏnh, phương phỏp theo giỏ trị tài sản là phự hợp hơn cả do cỏc nguyờn nhõn sau đõy:
+ Tổng cụng ty VINACONEX là doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đầu tư và xõy lắp. Giỏ trị doanh thu của cỏc hoạt động này chiếm 91,4% trờn tổng doanh thu toàn Tổng cụng ty trong khi doanh thu từ cỏc hoạt động dịch vụ, tư vấn thiết kế chỉ chiếm 9,6%.
+ Việc ỏp dụng phương phỏp theo dũng tiền chiết khấu trong thực tiễn của VINACONEX là khụng phự hợp do đặc thự của hoạt động sản xuất kinh doanh và sự biến động khụng đều của tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận. Lợi nhuận sau thuế cú sự tăng đột biến từ 28,9 tỷ năm 2002 lờn 422,3 tỷ năm 2003 do lói từ hoạt động đầu tư kinh doanh bất động sản. Ngoài ra, từ nay đến 2008, VINACONEX đang trong giai đoạn tập trung đầu tư vào cỏc dự ỏn xõy dựng cơ cở hạ tầng lớn, nhu cầu về vốn tăng nhiều lần so với cỏc năm trước, lợi nhuận trong giai đoạn này sẽ giảm đỏng kể, (chưa tớnh đến việc cú thể sẽ bị lỗ) do phải gỏnh chịu cỏc chi phớ vốn vay đầu tư. Tớnh toỏn tỷ lệ tăng trưởng và lợi nhuận thực tế cho giai đoạn này sẽ khú thực hiện, vỡ vậy, cỏc dữ liệu đầu vào phục vụ xỏc định giỏ trị theo dũng tiền chiết khấu bị hạn chế, thiếu chớnh xỏc.
+ Đối với phương phỏp so sỏnh, việc tỡm ra một tổng cụng ty cú đặc thự hoạt động kinh doanh và cỏc tiờu chớ quản lý tương tự VINACONEX trong ngành xõy dựng Việt Nam là khú cú thể thực hiện được.
Tuy nhiên, mặc dù đã lựa chọn phương pháp theo giá trị tài sản để xác định giá trị doanh nghiệp của Tổng công ty nhưng cách xác định theo phương pháp này vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền chấp thuận chính thức hoặc có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
c) Xác định giá trị thương hiệu
Giỏ trị lợi thế kinh doanh của Tổng cụng ty được xỏc định theo quy định tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chớnh phủ về việc chuyển cụng ty nhà nước thành cụng ty cổ phần đồng thời kết hợp với một số điều chỉnh căn cứ vào tỡnh hỡnh thực tế của doanh nghiệp như sau:
+ Sử dụng vốn doanh nghiệp huy động cho sản xuất kinh doanh để xỏc định tỷ suất lợi nhuận trờn vốn.
+ Sử dụng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp bỡnh quõn 3 năm trước cổ phần húa cú tớnh đến việc loại trừ cỏc yếu tố biến động bất thường.
Giá trị thương hiệu thực tế sẽ được xác định chính thức khi bán cổ phần trên thị trường chứng khoán. Trước mắt thương hiệu được tạm tính theo thỏa thuận giữa Tổng công ty và các công ty cổ phần đó. Tuy nhiên, trong quá trình chuẩn bị cổ phần hóa, có nhiều ý kiến từ các cơ quan nhà nước có liên quan đặc biệt là ý kiến từ Bộ Xây dựng - Cơ quan chủ quản của VINACONEX cho rằng cách xác định thương hiệu nằm trong lợi thế kinh doanh như trên là không phù hợp với thực tiễn của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp, ảnh hưởng tới lợi ích của nhà nước. Do vậy, họ cho rằng thương hiệu phải do thị trường quyết định. Phần giá trị thương hiệu này sẽ được cộng vào phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Như vậy, do không có quy định cụ thể trong việc xác định thương hiệu của một doanh nghiệp cộng với việc có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này đã dẫn đến công tác xác định giá trị doanh nghiệp của Tổng công ty bị kéo dài và dẫn đến việc chậm trễ trong quá trình thẩm định và công bố giá trị doanh nghiệp.
Thực chất, thương hiệu VINACONEX là một thương hiệu tập thể được hình thành từ khi thành lập cho đến nay. Do vậy, trong quá trình hoạt động, thương hiệu VINACONEX sử dụng như tên thương mại (Trade-mark) của nhiều đồng chủ sở hữu bao gồm: Tổng công ty, các đơn vị thành viên và của những người quản lý, lao động của VINACONEX. Điều này cần được xác định rõ khi xác định giá trị thương hiệu để đảm bảo lợi ích của các đồng chủ sở hữu. Việc một số cơ quan nhà nước cho rằng toàn bộ giá trị thương hiệu VINACONEX thuộc sở hữu nhà nước để đưa vào vốn nhà nước khi xác định giá trị cổ phần hóa là sai lầm không nhận thức đúng bản chất của việc hình thành và tạo dựng ra thương hiệu này. Do phải thực hiện quan điểm chỉ đạo như vậy nên doanh nghiệp có thể không muốn xác định giá trị thương hiệu cao vì họ không muốn phải gánh chịu một phần vốn nhà nước quá lớn từ việc cộng thêm giá trị thương hiệu vào. Giá trị thương hiệu không phải là bất biến mà rất dễ thay đổi tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và những yếu tố khách quan đưa lại. Khi đưa vào giá trị doanh nghiệp thì giá trị thương hiệu rất lớn. Sau đó, vì một số lý do nào đó, giá trị này lại bị giảm sút thì thực chất doanh nghiệp đã phải gánh chịu một giá trị vô hình không có thực. Một hệ quả bất lợi khác là người lao động, những người đã góp phần tạo dựng nên một phần giá trị thương hiệu đó không được hưởng bất kỳ lợi ích nào từ việc xác định giá trị thương hiệu này. Điều này đã khiến người lao động bất bình và không khuyến khích họ tiếp tục phấn đấu để duy trì và nâng cao thương hiệu hơn nữa của doanh nghiệp.
d) Xác định giá trị quyền sử dụng đất
Giỏ trị quyền sử dụng đất của VINACONEX được xỏc định như sau:
Chỉ tớnh giỏ trị quyền sử dụng đất của cỏc diện tớch đất doanh nghiệp được giao (hoặc lựa chọn giao đất) theo quy định của Luật Đất đai.
Khụng tớnh giỏ trị quyền sử dụng đất vào giỏ trị doanh nghiệp đối với:
- Cỏc diện tớch đất doanh nghiệp đi thuờ;
- Cỏc diện tớch đất của cỏc đơn vị thành viờn đó cổ phần húa.
- Đất được giao để thực hiện cỏc dự ỏn đổi đất lấy hạ tầng do tớnh chất đặc thự của dự ỏn.
Giỏ trị quyền sử dụng đất tớnh vào giỏ trị doanh nghiệp là giỏ do Ủy ban nhõn dõn cỏc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định tại thời điểm xỏc định.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2, Điều 19, Nghị định 187/2004/NĐ-CP năm 2004 của Chính phủ thì "Đối với diện tích đất nhà nước đã giao cho doanh nghiệp xây dựng nhà để bán hoặc cho thuê; xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá". Quy định như vậy là chưa hợp lý vì đối với diện tích đất nhà nước đã giao cho doanh nghiệp xây dựng nhà để bán và cho thuê, xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê thì giá trị quyền sử dụng đất đã được cấu thành vào giá trị sản phẩm chuyển nhượng cho khách hàng. Do vậy, khi doanh nghiệp chuyển nhượng sản phẩm cho khách hàng thì doanh nghiệp sẽ không còn có giá trị quyền sử dụng đất đó nữa [23, tr. 6].
e) Xử lý tài chính khi chuyển đổi
Việc xác định giá trị doanh nghiệp gắn liền với việc xử lý tài chính tại doanh nghiệp. Do yêu cầu phát triển và với phạm vi hoạt động rộng đồng thời thực hiện những nhiệm vụ được Chính phủ và Bộ Xây dựng giao, trong quá trình hoàn tất các thủ tục cho việc cổ phần hóa, VINACONEX đã xác định và đề xuất với Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính một số khoản công nợ cần được xử lý tài chính. Tuy nhiên, cơ chế về xử lý tài chính hiện nay rất phức tạp khiến cho việc xác định giá trị doanh nghiệp của VINACONEX gặp rất nhiều khó khăn và chậm trễ. Thậm chí một số khoản công nợ phải xử lý tài chính của VINACONEX và các đơn vị thành viên do thực hiện các nhiệm vụ mà nhà nước giao vẫn chưa được các cơ quan thẩm quyền cho phép xử lý tài chính. Tính phức tạp và khó khăn của công tác xử lý tài chính của VINACONEX thể hiện từ cả hai phía:
+ Về phía doanh nghiệp: các khoản công nợ cần xử lý tài chính của VINACONEX và một số đơn vị thành viên chưa cổ phần hóa tương đối đa dạng xuất phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng của Tổng công ty. Nhiều khoản công nợ thậm chí chưa có quy định cụ thể của pháp luật làm cơ sở để xử lý.
+ Về phía các cơ quan chức năng: Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đôi khi còn máy móc trong việc áp dụng các quy định hiện hành để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc xử lý tài chính của VINACONEX trong khi đó theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ việc cổ phần hóa VINACONEX là thí điểm, có thể đề xuất các cơ chế vượt quá cơ chế hiện nay. Mặt khác, quy định hiện hành về xử lý tài chính cho việc cổ phần hóa Tổng công ty hiện nay chưa có. Điều này đã dẫn đến sự lúng túng của cơ quan nhà nước khi tiến hành xử lý tài chính cho VINACONEX. Thêm nữa, sự trì trệ trong việc giải quyết các thủ tục cho việc xử lý tài chính, tâm lý ngại trách nhiệm của các cán bộ có thẩm quyền khi xử lý tài chính cho VINACONEX cũng là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự chậm trễ trong việc xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp cho VINACONEX.
f) Lựa chọn mô hình hoạt động
Trên thế giới, mô hình công ty mẹ - công ty đã được áp dụng rất phổ biến ở nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, mô hình này ở Việt Nam còn đang được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Cơ chế vận hành và hiệu quả thực sự của nó trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam còn chưa có câu trả lời. Một số doanh nghiệp nhà nước đã được thí điểm chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình này nhưng công ty mẹ trong mô hình này vẫn là một công ty do nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ, được điều chỉnh theo Luật Doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước được lựa chọn thí điểm hoạt động theo mô hình này còn nhiều bất cập về cơ chế quản lý, mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty con, công ty liên kết về cơ bản không có gì thay đổi.
Tuy vậy, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới và với đặc thù của doanh nghiệp, VINACONEX đã lựa chọn mô hình công ty mẹ - công ty con làm mô hình tổ chức và hoạt động của mình sau cổ phần hóa. Tuy nhiên, việc nghiên cứu để tạo dựng mô hình, xây dựng cơ chế hoạt động, xác định mối quan hệ giữa các thành tố trong mô hình … là những vấn đề rất quan trọng đặt ra cho VINACONEX trong quá trình xây dựng mô hình. Mô hình hoạt động mới của VINACONEX phải có sự thay đổi căn bản và phù hợp với đặc thù của Việt Nam.
g) Xác định vốn điều lệ
Việc xác định vốn điều lệ cho VINACONEX sau cổ phần hóa đóng vai trò rất quan trọng trong đó cần xác định rõ tỷ lệ vốn nhà nước trong vốn điều lệ và vốn của các cổ đông khác. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm cổ phần hóa VINACONEX, nhà nước sẽ nắm giữ ít nhất là 51% vốn điều lệ mặc dù lĩnh vực hoạt động của VINACONEX không thuộc doanh nghiệp mà nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối. Điều đó có nghĩa là VINACONEX sẽ tồn tại dưới hình thức một công ty cổ phần do nhà nước nắm cổ phần chi phối.
Việc quy định vốn điều lệ như vậy đã tạo khó khăn cho VINACONEX trong việc tìm kiếm và thu hút các cổ đông đặc biệt là các cổ đông nước ngoài tham gia mua cổ phần của Tổng công ty. Theo các nhà đầu tư quan tâm đến mua cổ phần của VINACONEX thì với mức vốn như vậy, nhà nước sẽ có quyền quyết định và chi phối tất cả các vấn đề của doanh nghiệp. Do vậy, thực chất việc cổ phần hóa như vậy không triệt để. Quyền lợi của các cổ đông khác đặc biệt là các cổ đông thiểu số có thể bị ảnh hưởng.
h) Bán cổ phần cho các cổ đông chiến lược
Để đảm bảo thành công của quá trình cổ phần hóa đặc biệt là giúp cho hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa thì việc kêu gọi và thu hút các cổ đông chiến lược đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc tham gia của các cổ đông chiến lược sẽ giúp cho doanh nghiệp:
+ Tăng sự tin tưởng và khả năng hoạt động kinh doanh có hiệu quả lâu dài của tổng công ty sau khi cổ phần hóa.
+ Giảm thiểu rủi ro thị trường do tâm lý của công chúng trên thị trường chứng khoán chưa ổn định trong điều kiện tổng công ty vừa chuyển đổi hình thức và có thời gian để làm quen với cơ chế sở hữu và hoạt động mới.
+ Nâng cao tính minh bạch và độc lập của tổng công ty.
+ Chú trọng đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động của tổng công ty, đảm bảo vốn kinh doanh được phân bổ một cách có hiệu quả và đạt được tăng trưởng có lãi.
+ áp dụng công nghệ quản lý tốt nhất vào hoạt động của tổng công ty, cải tiến công tác quản lý và cơ sở hạ tầng của công ty nhất là hệ thống thông tin quản lý.
+ Tiếp cận các sản phẩm và công nghệ chuyên ngành mới, các tập đoàn hoặc liên minh xây dựng và các thị trường quốc tế.
Ngoài ra, việc bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược sẽ kéo theo việc thu hút các cổ đông khác tham gia mua cổ phần của tổng công ty tùy theo mức độ ảnh hưởng của cổ đông chiến lược đó lên doanh nghiệp. Điều này sẽ kéo theo sự tăng giá của cổ phần. Nói chung, các nhà đầu tư chiến lược càng có nhiều ảnh hưởng thì giá cổ phần bán trên thị trường càng có mệnh giá cao.
Theo quy định tại Điều 26, Điều 27 Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về chuyển công ty nhà nước sang công ty cổ phần: nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước như: người sản xuất và thường xuyên cung cấp nguyên vật liệu cho doanh nghiệp; người cam kết tiêu thụ lâu dài sản phẩm của doanh nghiệp; người gắn bó lợi ích chiến lược lâu dài trong kinh doanh, có tiềm năng về tài chính và năng lực quản lý. Khi xây dựng phương án cổ phần hóa, doanh nghiệp cổ phần hóa lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, trình cơ quan quyết định cổ phần hóa phê duyệt. Nhà đầu tư chiến lược được mua tối đa 20% số cổ phần bán ra theo giá ưu đãi. Mức cổ phần bán cho từng nhà đầu tư chiến lược thực hiện theo phương án cổ phần hóa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt [23, tr. 9].
Tuy nhiên, quy định nêu trên của Nghị định 187/200NĐ-CP là chưa hợp lý và không phù hợp với xu thế phát triển của doanh nghiệp. Thứ nhất, quy định trên vô hình chung đã loại bỏ các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng không được trở thành cổ đông chiến lược của doanh nghiệp. Chính họ mới là những nhà đầu tư thực sự, có năng lực tài chính, kinh nghiệm quản lý, có khả năng tìm kiếm thị trường cho doanh nghiệp... Còn đối với các nhà đầu tư trong nước, họ thực sự không có tiềm lực tài chính, thiếu kinh nghiệm quản lý và tiếp thu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới, phạm vi hoạt động hẹp chỉ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Thứ hai, việc quy định khi xây dựng phương án cổ phần hóa, doanh nghiệp phải lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, trình cơ quan quyết định cổ phần hóa phê duyệt là không hợp lý, làm giảm quyền chủ động của doanh nghiệp. Trên thực tế việc xác định chính xác các cổ đông chiến lược chỉ được thực hiện sau khi doanh nghiệp đã được phê duyệt phương án cổ phần hóa, phương án sản xuất kinh doanh, đã hoàn thành dự thảo điều lệ doanh nghiệp, xác định chính xác tỷ lệ vốn nhà nước trong doanh nghiệp.... Do vậy, trong trường hợp danh sách cổ đông chiến lược cuối cùng có sai khác so với danh sách cổ đông chiến lược ban đầu thì doanh nghiệp sẽ phải xin phê duyệt lại. Điều này sẽ mất nhiều thời gian và thủ tục kéo dài. Trong trường hợp này, nhiều nhà đầu tư thực sự đã không được tham gia mua cổ phần với tư cách cổ đông chiến lược vì có thể họ chưa chắc đã được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt lại.
Đây cũng là một khó khăn của VINACONEX trong quá trình xác lập các cổ đông chiến lược mua cổ phần của tổng công ty.
i) Bán cổ phần ưu đãi cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp
Theo quy định của Nghị định 64/2002/CP-NĐ ngày 19 tháng 06 năm 2002 về chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, người lao động được hưởng mức ưu đãi khi mua cổ phần với giá giảm 30% so với mệnh giá cổ phiếu. Tuy nhiên, Nghị định 187/2004/CP-NĐ ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần đã sửa đổi quy định này theo đó, người lao động làm việc tại doanh nghiệp chỉ được hưởng ưu đãi khi mua cổ phần với giá giảm 40% so với giá đấu giá [23, tr. 9].
Với sự thay đổi chính sách như vậy, quyền lợi của người lao động khi mua cổ phần đã bị hạn chế nhiều. Do vậy, họ băn khoăn và không thiết tha mua cổ phần của VINACONEX khi cổ phần hóa mặc dù họ chính là nhân tố quyết định cho sự phát triển của VINACONEX trong quá khứ cũng như trong tương lai. Đáng ra họ là những người phải được hưởng nhiều lợi ích khi cổ phần hóa.
k) Giới hạn tỷ lệ bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài
Theo quy định hiện hành về bán cổ phần của các công ty cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài thì một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài chỉ được mua tối đa 30% vốn điều lệ của công ty cổ phần. Quy định như vậy đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài không thiết tha mua cổ phần của VINACONEX. Họ lo ngại rằng với cơ chế nhà nước nắm cổ phần chi phối tại VINACONEX(trên 50% vốn điều lệ) thì việc họ nắm giữ chỉ 30% vốn điều lệ sẽ làm mất quyền của họ trong quá trình tham gia quản lý điều hành và quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp. Như vậy, quyền lợi của họ có thể không được bảo đảm đầy đủ [20].
Đây là một khó khăn lớn của VINACONEX trong quá trình chào mời các nhà đầu tư nước ngoài tham gia mua cổ phần của mình.
m. Quản lý vốn nhà nước tại VINACONEX sau cổ phần hóa.
Trong cơ cấu vốn điều lệ của VINACONEX sau cổ phần hóa, nhà nước sẽ chiếm một tỷ lệ vốn nhất định. Để quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Chính phủ phải cử một cơ quan nhà nước nhất định. Tuy nhiên, tại thời điểm tiến hành cổ phần hóa Tổng công ty, Chính phủ vẫn chưa xác định rõ cơ quan nào là cơ quan quản lý vốn nhà nước tại VINACONEX sau cổ phần hóa. Mặc dù tại thời điểm này, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước đã được thành lập nhưng đối tượng quản lý vốn của Tổng công ty này không bao gồm việc quản lý phần vốn nhà nước tại các tổng công ty được thí điểm cổ phần hóa. Việc chưa xác định rõ cơ quan nào tiến hành cổ phần hóa, quyền và nghĩa vụ của cơ quan này trong quá trình quản lý vốn nhà nước tại Tổng công ty... cũng tạo ra nhiều khó khăn cho VINACONEX trong việc xây dựng điều lệ, mô hình tổ chức và hoạt động sau cổ phần hóa, mối quan hệ với các cơ quan có liên quan trong đó có cơ quan quản lý vốn của nhà nước tại doanh nghiệp.
2.3. Tìm hiểu kinh nghiệm chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước ở một số nước trên thế giới và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
2.3.1. Tình hình chung về doanh nghiệp nhà nước và cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Hàn Quốc
2.3.1.1. Tình hình chung về doanh nghiệp nhà nước
Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước Hàn Quốc được thành lập không phải vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của Chính phủ giao; các mục tiêu và nhiệm vụ này thường được điều chỉnh theo tình hình thực tế trong từng giai đoạn phát triển và theo từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực. Trong thực tế, các doanh nghiệp nhà nước đóng góp khoảng 9% GDP, giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp hàng hóa công cộng cần vốn lớn, thiết yếu của nền kinh tế như đường cao tốc, điện, bưu chính viễn thông, thép và giao dịch tài chính v.v... [46, tr. 2].
2.3.1.2. Khuôn khổ pháp lý tổ chức quản lý, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước:
Để có cơ chế quản lý thích hợp đối với các loại doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước, Chính phủ Hàn Quốc chia các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước thành 2 loại như sau:
- Doanh nghiệp do nhà nước đầu tư là những doanh nghiệp mà Chính phủ nắm giữ ít nhất 50% tổng số vốn điều lệ của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp do nhà nước cấp vốn là những doanh nghiệp mà Chính phủ nắm dưới 50% tổng số vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Trong thực tế, hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước ở Hàn quốc là công ty đa sở hữu và Chính phủ (thông qua Bộ, ngành trung ương) giữ vai trò cổ đông; trừ một số doanh nghiệp như cấp nước, bảo hiểm, bệnh viện do các cơ quan hành chính địa phương quản lý. Vì vậy, các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước đều hoạt động theo Luật Công ty; riêng các công ty mà Chính phủ nắm giữ trên 50% tổng số vốn điều lệ của công ty thì ngoài việc tuân thủ Luật Công ty còn phải tuân thủ Luật Quản lý Doanh nghiệp do Chính phủ đầu tư được ban hành năm 1984 (nội dung chính của Luật này là đảm bảo sự độc lập về quản lý của bộ máy quản lý doanh nghiệp thông qua việc giảm bớt sự kiểm soát của Chính phủ và thực thi hệ thống đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp).
Ngoài ra, Chính phủ Hàn quốc còn khuyến khích các hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước thông qua các văn bản pháp luật như Luật Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước và các chính sách khuyến khích xuất khẩu [46, tr. 2].
2.3.1.3. Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Hàn quốc
Quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp nhà nước ở Hàn Quốc cho thấy phần lớn các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả mà nguyên nhân chủ yếu là do sự can thiệp không đúng đắn của chủ sở hữu (bổ nhiệm cán bộ chính trị, không có chuyên môn đứng đầu doanh nghiệp; can thiệp vào hoạt động tác nghiệp của doanh nghiệp); do đầu tư quá mức dẫn đến tích tụ vốn quá nhanh, các doanh nghiệp nhà nước thừa năng lực và gây mâu thuẫn về cơ cấu đầu tư, tạo ra hướng phát triển không thích hợp; do hoạt động độc quyền, dẫn tới các căn bệnh: kém hiệu quả, chất lượng sản phẩm và dịch vụ thấp giá phục vụ ngày càng tăng; cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước không còn thích hợp. Hơn nữa, khi nền kinh tế đã phát triển, dân đã giàu lên và khả năng quản lý của khu vực tư nhân đã cao hơn trước thì cũng cần đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước để giảm dần mức đầu tư của nhà nước và tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân đối với các doanh nghiệp này. Vì vậy, đã dẫn đến nhu cầu cấp thiết phải cải cách doanh nghiệp nhà nước nhằm n