Luận văn Hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn FDI tại thành phố Đà Nẵng

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt i

Danh mục các bảng, biểu ii

Danh mục hình vẽ iii

Danh mục các hộp tiêu điểm iv

Lời mở đầu v

1. Ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài v

2. Mục tiêu nghiên cứu vi

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu vii

4. Tính mới của luận văn vii

5. Phương pháp nghiên cứu ix

6. Nội dung x

Chương I: Những cơ sở lý luận về môi trường đầu tư 1

1.1 Những vấn đề về đầu tưtrực tiếp nước ngoài 1

1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1

1.1.2 Các hình thức đầu tư trựctiếp nước ngoài tại Việt Nam 1

1.1.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nền kinh tế hiện nay 3

1.2 Môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài 4

1.2.1 Khái niệm 4

1.2.2 Các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư 7

1.3 Ý nghĩa của việc nghiên cứu môi trường đầu tư 15

1.4 Các bài học kinh nghiệm về hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm

tăng cường thu hút vốn FDI 16

1.4.1 Kinh nghiệm của Bình Dương 16

1.4.2 Kinh nghiệm của Singapore 18

1.4.3 Bài học kinh nghiệm rút ra trong việc hoàn thiện môi trường đầu tư

của thành phố Đà Nẵng 20

Kết luận chương 1 21

Chương 2: Phân tích thực trạng môi trường đầu tư trong hoạt động thu hút vốn

đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 đến nay 22

2.1 Một số nét khái quát về Thành phố Đà Nẵng 22

2.1.1 Điều kiện tự nhiên 22

2.1.2 Điều kiện xã hội 23

2.2 Tình hình thu hút vốn FDI vào thành phố Đà Nẵng từ năm 2001 – 2005 24

2.2.1 Số lượng vốn FDI thu hút 24

2.2.2 Tình hình thu hút vốn FDI theo đối tác 26

2.2.3 Tình hình thu hút vốnFDI theo hình thức đầu tư 27

2.2.4 Tình hình thu hút vốnFDI theo lĩnh vực đầu tư 28

2.2.5 Kết quả hoạt động thu hút FDI tại TP. Đà Nẵng từ năm 2001-2005 29

2.3 Phân tích thực trạng môi trường đầu tư trong việc thu hút vốn FDI

của thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua (2001-nay) 32

2.3.1 Môi trường chính trị – xã hội 32

2.3.2 Môi trường pháp lý – hành chính 34

2.3.3 Môi trườngcơ sở hạ tầng 38

2.3.4 Môi trường kinh tế – tài nguyên 43

2.3.5 Môi trường tài chính – ngân hàng 51

2.3.6 Môi trường lao động 52

Kết luận chương 2 55

Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh

hoạt động thu hút v?n FDI của thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2006-2010 57

3.1 Quan điểm đề xuất giải pháp 57

3.2 Mục tiêu đề xuất giải pháp 57

3.3 Căn cứ đề xuất giải pháp 58

3.4 Ma trận SWOT 59

3.4.1 Những điểm mạnh 59

3.4.2 Những điểm yếu 60

3.4.3 Những cơ hội 61

3.4.4 Những thách thức 62

3.5 Các nhóm giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn FDI

của thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2006-2010 64

3.5.1 Nhóm giải pháp về hoàn thiện cơchế quản lý – thủ tục hành chính 64

3.5.2 Nhóm giải pháp về hoàn thiện môi trường cơ sở hạ tầng 69

3.5.3 Nhóm giải pháp về hoàn thiện môi trường lao động 73

3.5.4 Một số kiến nghị 76

Kết luận chương 3 79

Kết luận xiv

Tài liệu tham khảo xvi

Phụ lục

pdf115 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2874 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn FDI tại thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố trong bộ máy quản lý từ trên xuống. Trong dự án có giải tỏa, với chính sách nếu có trên 80% số hộ gia đình đồng tình chấp nhận mức di dời theo đền bù của thành phố thì số hộ còn lại buộc phải tuân thủ. Thậm chí trong một số dự án mở rộng đường nội thị, thành phố ra chính sách chỉ đền bù nhà cửa chứ không đền bù đất và hàng rào cổng ngõ bởi vì giá trị đất còn lại của các hộ gia đình tăng lên đáng kể khi đường được cải tạo. Kể từ năm 1997, với chính sách đền bù thỏa đáng, gần 30.000 hộ gia đình đã được di dời, 30 tuyến đường mới được xây dựng và nâng cấp lên, diện mạo của thành phố đã thay đổi. Đà Nẵng được đánh giá là địa phương thực hiện công tác đền bù giải tỏa hiệu quả nhất trong cả nước [30]. Điều này không có gì là sai, và sẽ là tốt nếu quy hoạch hợp lý thì rất thuận tiện cho nhà đầu tư phát triển sau này. Nhưng hiện nay, Đà Nẵng đang đuối sức với cơ sở hạ tầng, các công trình xây dựng đang dỡ dang, không kịp tiến độ, không đủ vốn đầu tư. Lý do là vốn xây dựng cơ sở hạ tầng ở đây chủ yếu là sử dụng từ tiền khai thác quyền sử dụng đất; mà hiện nay thị trường nhà đất đang đóng băng nên Đà Nẵng đang gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, số vốn ứng trước để đầu tư mở rộng đô thị, chỉnh trang cơ sở hạ tầng lại chưa thu hút được đầu tư, chưa đem lại hiệu quả thúc đẩy phát triển kinh tế tương xứng. Ngoài ra, Đà Nẵng còn tập trung mở rộng và nâng cấp hệ thống sân bay, cảng biển. Các đường bay quốc tế tới Hồng Kông, Băng Cốc, Siêm Riệp đã được thiết lập. Trong năm 2005, cùng với cảng Hải Phòng và cảng Sài Gòn, cảng Đà Nẵng đã trở thành cảng thứ 3 được tạp chí Vinalines xếp vào hạng nhất các cảng biển của Việt Nam. Nhìn chung, tính đến năm 2002, Đà Nẵng đã có được một hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối tốt so với các đô thị trung tâm khác của Việt Nam. Năm 2005 vừa qua, 54 Tuy nhiên, trong thời gian qua, xây dựng đô thị và phát triển cơ sở hạ tầng của Đà Nẵng chưa đặt trong sự tương tác với công cuộc công nghiệp hóa, nặng tư tưởng "chủ quan", nóng vội", chưa đầu tư vào hạ tầng công nghiệp, hạ tầng phục vụ phát triển du lịch, văn hóa... [30]. Trong khi đó, tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua vừa tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, lại vừa tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp, đặc biệt là các công trình thủy điện lớn: nhà máy điện A Vương 1, Sông Tranh 2, Thu Bồn với sản lượng điện từ 3.000 – 4.000 tỷ kWh/ nhà máy/ năm; và dự kiến đến năm 2010 sản lượng điện sẽ bằng nhà máy thủy điện Sông Đà hiện nay. Tính đến thời điểm hiện nay, Đà Nẵng chỉ mới có 5 KCN với tổng diện tích trên 1.110,29 ha, gồm có: KCN Đà Nẵng, KCN Liên Chiểu, KCN Hòa Khánh, KCN Hòa Cầm và KCN Thọ Quang, tất cả đều được xây dựng trước năm 2003. Thế nhưng, độ lấp đầy bởi các nhà máy trong các KCN này chưa cao; chủ yếu là các nhà máy, xí nghiệp của trung ương và địa phương trên địa bàn thành phố hoặc các doanh nghiệp tư nhân có quy mô trung bình và nhỏ; các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn còn khá khiêm tốn. Hầu như các nhà đầu tư chỉ đặt văn phòng đại diện hoặc văn phòng kinh doanh tại Đà Nẵng còn các nhà xưởng, nhà máy sản xuất hay chế tạo, lắp ráp máy móc, linh kiện tuy có nhưng còn rất hạn chế. Hơn nữa, mặc dù các KCN đã được xây dựng 55 Bảng 2.8 : Số lượng doanh nghiệp trong các KCN tại Đà Nẵng Loại hình DN Đà Nẵng Hòa Khánh Liên Chiểu Hòa Cầm Thọ Quang DN có vốn FDI 9 15 0 2 1 DN trong nước 11 90 27 26 27 Tổng 20 105 27 28 28 (Nguồn: Ban Quản lý Các KCN – KCX Đà Nẵng)[51] Điều này hầu như ngược hẳn với các KCN, KCX ở phiùa Nam như Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh. Hầu như diện tích các KCN, KCX tại đây đều được lấp đầy: KCX Linh Trung, Tân Thuận, KCN Sóng Thần, KCN Việt Nam – Singapore… và nhu cầu xây dựng thêm các KCN ở các địa phương này là rất lớn. Chính các nhà máy, xí nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này là một trong những đóng góp đáng kể cho nguồn thu ngân sách cũng như giải quyết công ăn việc làm cho các địa phương. Bảng 2.9: Các KCN, KCX tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương Địa điểm Số lượng KCN/KCX Diện tích (ha) Tổng vốn đầu tư (triệu USD) Số nhà đầu tư TP. Hồ Chí Minh 14 2.913,14 1.612 939 Bình Dương 15 4.635,40 4.209 962 (Nguồn: - Website Tỉnh Bình Dương [52] - Website Ban quản lý các KCN và KCX Thành phố Hồ Chí Minh [62]) 56 Tuy nhiên, nếu so sánh với Bình Dương, cách phát triển cơ sở hạ tầng ở hai địa phương theo hai hướng khác nhau. Bình Dương thực hiện chính sách “cuốn chiếu” trong phát triển cơ sở hạ tầng, là đến đâu là khai thác, sử dụng, thu hút vốn đầu tư đến đó và nhà đầu tư cùng xây dựng cơ sở hạ tầng với địa phương. Từ đó, tạo nên sự quay vòng vốn đầu tư và nguồn thu mới theo cách “đánh nhỏ ăn nhỏ, đánh chắc ăn chắc” [6,13]. Trong khi đó, Đà Nẵng lại thực hiện chính sách “bày cỗ” sẵn, khởi đầu là phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển và hoàn thiện cơ sở hạ tầng rồi mới thu hút đầu tư [6,14]. Một trong những hạn chế khác đó là Đà Nẵng có lợi thế về phát triển du lịch nhưng cơ sở hạ tầng để phát triển ngành công nghiệp không khói này ở Đà Nẵng lại khá mờ nhạt. Sở hữu một dãi bờ biển dài nằm sát bên triền núi cùng với những khu du lịch sinh thái nhưng Đà Nẵng hầu như bỏ ngõ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm phát triển loại hình công nghiệp này. Nhìn chung, môi trường cơ sở hạ tầng của Đà Nẵng đan xen những mặt tích cực và vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. 2.3.4 Môi trường kinh tế – tài nguyên - Trong 5 năm qua, kinh tế Đà Nẵng tăng trưởng liên tục với tốc độ trung bình hàng năm là 13%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tỷ trọng ngành công nghiệp – Mười năm qua, Đà Nẵng đã nhanh chóng lột xác từ một đô thị cấp huyện loại 3 thành đô thị loại 1, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế cho toàn vùng. Thế nhưng, khuyết điểm lớn nhất trong quy hoạch đô thị Đà Nẵng là thành phố này chưa xây dựng đồng bộ được những công trình phục vụ việc phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch, văn hóa, xã hội. Mới thấy cái trước mắt là chia lô, phân lô theo chủ trương mà không chú ý đến tính sáng tạo trong quy hoạch nhằm phục vụ cho sự phát triển của tương lai thành phố.[16,6] Hộp 4: 10 năm xây dựng đô thị Đà Nẵng – "được" gì, "mất" gì? 57 - Cũng như Bình Dương tại thời điểm tách tỉnh năm 1997, Đà Nẵng cũng đứng trước những lựa chọn trong chính sách phát triển kinh tế cho địa phương mình. Thế nhưng, nếu lãnh đạo của Bình Dương lựa chọn con đường phát triển kinh tế dựa vào thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; thì Đà Nẵng lại đi theo một hướng khác. Theo lãnh đạo của thành phố, với vị trí chiến lược và tầm quan trọng của một đô thị trung tâm ở miền Trung, con đường phát triển dựa vào đầu tư trong nước mà chủ yếu là vốn nhà nước trở thành lựa chọn an toàn cho Đà Nẵng. Nền kinh tế của Đà Nẵng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp nhà nước, các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn nhỏ và chưa thực sự là nền “kinh tế mở”. Đầu năm 2004, tổng cộng trên địa bàn thành phố có 2.124 doanh nghiệp trong đó có hơn 90% doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế dân doanh, còn lại là các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [52]. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp này đều có quy mô vốn tương đối nhỏ, nhất là các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH. Thêm vào đó, các doanh nghiệp hoạt động manh mún, rời rạc, thiếu sự liên kết, chưa hình thành được các hiệp hội ngành nghề để hỗ trợ nhau. Rõ ràng, sự yếu kém của các doanh nghiệp địa phương khiến cho môi trường kinh doanh tại thành phố kém sôi động, gây khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 58 - Chính sách kinh tế của Đà Nẵng thiếu tính định hướng. Lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đã không rõ ràng và nhất quán trong việc lựa chọn và theo đuổi một chính sách kinh tế thống nhất thích hợp cho sự phát triển của thành phố trong một thời gian dài; chẳng hạn như tỉnh Bình Dương, Đồng Nai tập trung vào phát triển công nghiệp, tỉnh Thừa Thiên Huế hay tỉnh Quảng Nam thì tập trung phát triển Cố đô Huế và Phố cổ Hội An thành những trung tâm du lịch dựa trên những di tích cũ; Khánh Hòa với chiến lược phát triển Nha Trang thành thành phố du lịch biển … Trong khi đó, Đà Nẵng vẫn còn loay hoay trong việc đưa ra chính sách phát triển kinh tế cho địa phương: nên tập trung vào phát triển công nghiệp, phát triển du lịch hay phát triển dịch vụ? + Lĩnh vực công nghiệp: Đà Nẵng vốn được xem là trung tâm công nghiệp của miền Trung – Tây Nguyên từ nhiều năm qua. Thế nhưng, đến thời điểm hiện nay, ngành công nghiệp của Đà Nẵng vẫn chưa có những bước phát triển thật sự khởi sắc cũng như chưa xác định được ngành công nghiệp chủ chốt của địa phương. Số lượng các doanh nghiệp tại Đà Nẵng có đủ khả năng tham gia liên doanh rất hạn chế do gặp nhiều khó khăn trong việc xác định, giải trình nguồn vốn góp cũng như chọn người có đủ năng lực tham gia đàm phán với đối tác nước ngoài. Thành phố thường chỉ có thể giới thiệu một vài doanh nghiệp địa phương làm đối tác liên doanh như Công ty Cơ khí Ô tô và thiết bị điện, Công ty cổ phần Nhựa Đà Nẵng, Công ty Điện chiếu sáng … trong lĩnh vực công nghiệp, công ty Dịch vụ du lịch Đà Nẵng … trong lĩnh vực du lịch. Ngay cả công ty tương đối mạnh như Công ty Kinh doanh và chế biến hàng xuất nhập khẩu sau một thời gian dài theo đuổi dự án liên doanh chế biến gia cầm với Đức cũng không thực hiện được vì không vay được vốn góp.[61] Hộp 5: Sự yếu kém của các doanh nghiệp hoạt động tại Đà Nẵng 59 Bảng 2.10: Giá trị sản xuất công nghiệp của Thành phố Đà Nẵng Thành phần kinh tế 2001 2002 2003 2004 2005 Kinh tế trong nước 4,185.295 5,320,429 6,679,981 7,428,598 7,984,869 Kinh tế có vốn FDI. 1,208.478 1,259,323 1,470,029 1,605,683 1,806,537 Tổng 5,393.773 6,579,752 8,150,010 9,034,281 9,791,406 (Nguồn: Thành phố Đà Nẵng 30 năm xây dựng và phát triển) [14,86] Một trong những tồn tại của lĩnh vực công nghiệp hiện nay của thành phố Đà Nẵng là vấn đề ô nhiễm môi trường trầm trọng đang diễn ra tại các nhà máy, trong các KCN làm ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân thành phố. Đó là các nhà máy chế biến thực phẩm, chế biến thủy sản (Danifood, Thuận Phước, công ty Procimex Đà Nẵng), các nhà máy sản xuất xi măng (Cosevco 19) … Trong khi đó, trong sạch hóa môi trường cần thiết phải là một trong những yếu tố căn nhắc hàng đầu của một địa phương khi tiếp nhận một dự án đầu tư nhất định. Theo các chuyên gia Canađa và Nhật Bản thì ngoài sự ô nhiễm tại các cơ sở sản xuất công nghiệp, hệ sinh thái cũng như tính bền vững của môi trường sinh thái ở Đà Nẵng đang bị đe dọa bởi tốc độ đô thị hóa và quy hoạch phát triển đô thị không phù hợp. Tổ chức này khuyến cáo thành phố cần phải có động thái kịp thời và tích cực nhằm hạn chế tình trạng xuống cấp về môi trường hiện nay… và đây là tiếng chuông cảnh báo cần thiết đối với Đà Nẵng, một địa bàn đang tăng tốc đô thị hóa.[17] Hộp 6: Báo động ô nhiễm môi trường tại thành phố Đà Nẵng 60 + Lĩnh vực vận tải, kinh tế biển: Hoạt động kinh tế thuộc lĩnh vực vận tải tại Đà Nẵng đã có từ rất lâu nhưng đến thời điểm hiện nay hoạt động rất kém sôi động, khác hoàn toàn so với các cảng hay sân bay tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng. Đà Nẵng được xem là trung tâm kinh tế của miền Trung và cũng được xem là điểm trung chuyển của toàn miền Trung – Tây Nguyên vì Đà Nẵng nằm trên một vị trí địa lý rất thuận lợi để phát triển lĩnh vực vận tải: có cả cảng sông, cảng biển, sân bay quốc tế, tuyến đường sắt Bắc – Nam, hành lang kinh tế Đông Tây, tuyến đường Liên Á. Thế nhưng, lĩnh vực giao nhận vận tải của Đà Nẵng hoạt động rất ì ạch, không tương xứng với tiềm năng sẵn có của thành phố. Chi phí cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu còn cao. Bảng 2.11: Giá cước thuê tàu tại thị trường Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh (ĐVT: USD, container) Container 20’ (USD) Container 40’ (USD) Cảng Đà Nẵng TP. HCM Đà Nẵng TP. HCM Hồng Kông 350 130 700 260 Nhật Bản (Osaka) 830-1.100 450 1.480 – 1.700 900 Châu Âu (Hamburge) 1.700 1400 3.400 2800 Mỹ (Los-Angeles) 2.100 1700 2.700 2900 Busan 600 400 1.200 780 Singapore 250 110 500 220 (Nguồn: Thương vụ cảng Đà Nẵng và cập nhật của tác giả) + Lĩnh vực phát triển du lịch: Đây là một trong những lợi thế kinh tế của Đà Nẵng thế nhưng vẫn chưa có chính sách thích hợp và chưa được đầu tư khai thác hợp lý. Hầu như tất cả các địa phương vùng duyên hải miền Trung đều có lợi thế ngang nhau về phát triển du lịch dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên biển – thế nhưng, du 61 Bảng 2.12: Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch của TP. Đà Nẵng (ĐVT: lượt khách; triệu đồng) Năm 2001 2002 2003 2004 2005* (ước đạt) Nội địa 291.462 351.059 339.381 371.942 462.376Số lượng du khách Quốc tế 194.670 214.137 174.453 239.718 272.491 Doanh thu 291.859 338.838 338.000 369.406 429.500 (Nguồn: Sở Du lịch Thành phố Đà Nẵng) [59] Tại Đà Nẵng, cơ sở hạ tầng dành cho phát triển du lịch chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, đặc biệt là du lịch biển. Hiện tại, Đà Nẵng chỉ mới có 1 khách sạn 5 sao (Furama Resort) và 31 khách sạn từ 1- 4 sao, các khu nghỉ dưỡng dọc theo bờ biển (resort) chưa được đầu tư xây dựng; trong khi đó tại Quảng Nam, Quy Nhơn, Nha Trang, hàng loạt các khu resort cao cấp đã được xây dựng xong và đang được khai thác hiệu quả: Victory Hội An (Quảng Nam); Vinpearl (Nha Trang)… ; và khu vực này thường do phía nước ngoài hoặc các công ty tư nhân quản lý. Trong khi đó, cơ hội để phát triển du lịch của Đà Nẵng thì rất nhiều nhưng chưa được phát huy và vẫn mãi chỉ nằm ở dạng tiềm năng. Khi du khách có yêu cầu thì hầu như loại hình sản phẩm du lịch nào ở Đà Nẵng cũng có: núi có chuyện núi, sông có chuyện sông, biển có chuyện biển và nội thành có chuyện nội thành. Nhưng khi đưa khách đến nơi thì họ lại lắc đầu ngán ngẫm bởi không có cái gì ra cái gì cả. Được tạp chí Forbes bình chọn là một trong 6 bãi biển đẹp nhất hành tinh, thế nhưng khách du lịch đến tham quan và ở lại với Đà Nẵng trên thực tế không nhiều. Theo thống kê của Sở Du lịch Thành phố Đà Nẵng, nhìn chung các con số đều tăng dần qua các 62 Ngoài ra, sản phẩm du lịch của Đà Nẵng rất nghèo nàn và hầu như chưa có “cái riêng”. Cố Đô Huế đặc sắc với sản phẩm Festival Huế được tổ chức 2năm/ lần; phố cổ Hội An với các sản phẩm văn hóa về chèo, tuồng … tổ chức vào ngày 14 âm lịch hàng tháng và sản phẩm hữu hình là chiếc đèn lồng; còn ở Đà Nẵng, chỉ là những sản phẩm nữa vời, thiếu hẳn yếu tố đặc trưng, độc đáo – ngoài Bảo tàng Chàm ra thì thật sự có rất ít điểm gọi là "ấn tượng" để giới thiệu nếu không muốn nói là không có. Bà Nà đã được người Pháp đánh giá rất cao như một khu nghỉ dưỡng với trên 200 biệt thự, rồi nhà hát opera, nhà thờ … được xây dựng; thế nhưng tất cả đã bị chiến tranh phá hủy gần hết. Muốn phát triển Bà Nà phải xác định trọng tâm của nó là sinh thái hay nghỉ dưỡng thông thường, nếu là sinh thái thì chưa hữu hiệu. Phải có một đội ngũ làm việc, hướng dẫn viên rành về sinh thái (như Bạch Mã) phối hợp với nhân viên khu bảo tồn, kiểm lâm cùng làm, quy định về quản lý môi trường phải chặt chẽ. Như vậy, quay lại là nghỉ dưỡng. Nghỉ dưỡng thì gồm có: tôi đến, tôi nghỉ và tôi đi dạo chơi. Bà Nà làm nhà nghỉ trên đỉnh núi là không hay vì cao quá nên không còn chổ đi đâu nữa, đành ngồi đó chịu gió lùa bốn hướng. Thế là nghỉ dưỡng cũng không xong. [6,19] Hộp 7: Bà Nà – để chơi hay để nghỉ? 63 Thế giới hiện nay đang rất đẩy mạnh hình thức du lịch – hội nghị MICE. Đây là một trong những hình thức quảng bá du lịch của nói riêng và hình ảnh của địa phương nói chung hữu hiệu nhất; và thông qua những hình thức này, cơ hội kinh doanh sẽ đến với địa phương. Tuy nhiên, như đã phân tích trên đây, cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động văn hóa, trung tâm hội nghị của Đà Nẵng chưa cao cũng như phục vụ cho giải trí chưa nhiều, nên hoạt động MICE này ở Đà Nẵng còn rất hạn chế. Nhìn chung, có thể nói môi trường kinh tế của Đà Nẵng hội đủ khá nhiều điều kiện để phát triển thế nhưng nó vẫn mãi ở dạng “tiềm năng” bởi thành phố chưa thống nhất được trong việc đưa ra một chính sách phát triển hợp lý và sử dụng nguồn tài nguyên hiện có hiệu quả nhất. Ngoài ra, một yếu tố cần được nhắc đến khi tìm hiểu môi trường kinh tế của Đà Nẵng đó chính là khả năng chi tiêu của người dân thành phố. Dân số của Đà Nẵng chỉ khoảng 781 nghìn [14,6]; thu nhập bình quân đầu người của Đà Nẵng không cao lắm – ước tính 950 USD vào năm 2005. Thành phố chỉ có 2 khu chợ lớn, 3 siêu thị – trong đó siêu thị bán sỉ Metro mới được đưa vào hoạt động vào gần cuối năm 2005, một siêu thị do nhà nước mở ra nhưng hoạt động kém hiệu quả nên đã bán sang cho tư nhân quản lý. Bên cạnh đó, bản chất của người dân miền Trung nói chung là tiết kiệm. Do vậy, sức mua cũng như khả năng mua sắm, của người dân nơi đây còn khá yếu, dung lượng Đến Việt Nam bốn tuần với mục đích du lịch, ông Werner Feistkorn, chủ tịch tập đoàn RKW AG – nhà sản xuất màng PE và PP lớn thứ 2 châu Âu không chỉ phát hiện Việt Nam có những bãi biển và phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp mà còn tìm thấy ở đây cơ hội kinh doanh; và ông đã quyết tâm cùng các đối tác của mình thành lập công ty 100% vốn nước ngoài Lotus RKW, hiện đang hoạt động rất hiệu quả tại thành phố Hồ Chí Minh. [5] Hộp 8: Đi du lịch tìm thấy cơ hội kinh doanh 64 2.3.5 Môi trường tài chính – ngân hàng Một môi trường đầu tư hoàn thiện đòi hỏi sự hiện đại hóa trong môi trường tài chính – ngân hàng. Tuy nhiên, hệ thống tài chính của Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện, ngành ngân hàng đang trong quá trình hiện đại hóa để theo kịp với sự hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam hiện nay chỉ mới có 2 nơi được xem là có thị trường tài chính phát triển tương đối mạnh là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội vì tại hai địa phương này có sự xuất hiện của các trung tâm giao dịch chứng khoán, các sàn giao dịch, các ngân hàng nước ngoài, các công ty cho thuê tài chính … Ở Đà Nẵng hiện tại chỉ có 21 ngân hàng, tất cả đều là chi nhánh của các ngân hàng có trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội; trong đó chỉ có 2 ngân hàng liên doanh, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 1 ngân hàng nhà nước và số còn lại là ngân hàng cổ phần. Hoạt động của các ngân hàng trên địa bàn Đà Nẵng chỉ mang tính chất là các trung tâm giao dịch. Các vấn đề liên quan đến tỷ giá hối đoái, lãi suất, các hoạt động ngân hàng … đều phải tuân thủ theo sự điều chỉnh từ trên xuống của các trụ sở chính. Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp có vốn FDI thường có xu hướng giao dịch với các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, Đà Nẵng hiện nay chỉ mới có 4 chi nhánh công ty kiểm toán và 11 công ty bảo hiểm. Cho đến nay, ở Đà Nẵng vẫn chưa hình thành các quỹ đầu tư phát triển, quỹ bảo lãnh tín dụng, 65 2.3.6 Môi trường lao động Lực lượng lao động của thành phố Đà Nẵng khoảng gần 400 nghìn người, chiếm 48,9% dân số của toàn thành phố, và được phân theo trình độ nhất định: Bảng 2.13: Trình độ của lực lượng lao động của thành phố Đà Nẵng Trình độ Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Đại học, cao đẳng 55.398 14,5 Trung học chuyên nghiệp 28.690 7,6 Công nhân kỹ thuật 95.874 25,6 Khác 202.040 52,3 Tổng 382.002 100 (Nguồn: Thành phố Đà Nẵng 30 năm xây dựng và phát triển) [14,15] Tại Đà Nẵng, chương trình xã hội hóa giáo dục rất được chú trọng và đã đem lại kết quả khả quan. Trên địa bàn thành phố có 1 trường đại học công lập – được xem như là trường tổng hợp – với 4 trường thành viên: đại học kinh tế, đại học bách khoa, đại học sư phạm, đại học ngoại ngữ; 1 trường đại học dân lập, 4 trường cao đẳng, 9 trường trung học chuyên nghiệp, 7 trường trung học phổ thông. Đây chính là nơi đào tạo ra lượng lao động nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của thành phố. Trong thời gian qua, thành phố đã thực hiện chương trình “3 có”; một trong những nội dung của chương trình này là “có việc làm” đã được Nhà nước đánh giá rất cao. Việc làm được coi như là một vấn đề sống còn của toàn xã hội. Cấp lãnh đạo của Đà Nẵng đã ý thức rõ việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động 66 Ngoài ra, có thể nói, thị trường lao động ở thành phố Đà Nẵng “bình yên” hơn ở thành phố Hồ Chí Minh hay Bình Dương. Người lao động ít có xu hướng nhảy việc – một phần là do tâm lý thích ổn định của người dân nơi đây. Chi phí trả lương cho công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khá thấp so với các tỉnh thành phía Nam. Hơn nữa, ở Đà Nẵng hầu như rất ít xảy ra tình trạng đình công, bãi công của công nhân như trong các KCN, KCX của thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua. Tính ổn định này có thể là một yếu tố mời gọi các nhà đầu tư. Thế nhưng, thị trường lao động của Đà Nẵng vẫn chưa thực sự đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng, các công ty nước ngoài, đó chính là nguồn lao động có trình độ, đặc biệt ở vị trí quản lý. Hầu hết các công ty nước ngoài mở văn phòng tại Đà Nẵng trong thời gian đầu đều phải thuê người từ Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Hà Nội đến làm việc với chi phí cao hơn rất nhiều nếu sử dụng lao động sẵn có của địa phương. Điều này sẽ làm đội chi phí của doanh nghiệp lên rất lớn. ™ Môi trường quản lý - Bên cạnh một số ý kiến tán thành phát triển kinh tế Đà Nẵng theo chính sách mở cửa; những ý kiến phản đối chính sách phát triển kinh tế dựa vào đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như dựa vào phát triển kinh tế tư nhân không phải là ít 67 - Tính năng động và tính tiên phong của lãnh đạo thành phố chưa cao. Khả năng hoạch định chính sách phát triển thành phố của cấp lãnh đạo chưa rõ ràng, nhất quán ở hầu hết cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf45661.pdf
Tài liệu liên quan