Mục lục
Lời nói đầu .1
CHƯƠNGI: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI .3
I.Khái niệm và bản chất về kinh tế trang trại . .3
1.Khái niệm và bản chất kinh tế trang trại .3
2.Đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại . .5
II. Sự cần thiết khách quan phải phát triển kinh tế trang trại .7
1.Vai trò vị trí của kinh tế trang trại . .7
2.Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế trang trại . .9
2.1.Yếu tố đất đai . .9
2.2. Nguồn nhân lực . .9
2.3.Tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ . . . .9
2.4Nguồn vốn .10
2.5. Yếu tố thị trường . .10
2.6. Cơ sở hạ tầng . . . 11
2.7. Chức năng quản lý kinh tế trang trại của Nhà nước 12
3. Qúa trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam . .14
3.1.Các hình thức tập trung sản xuất nông nghiệp Việt Nam thời kỳ phong kiến dân tộc(thế kỷ X giữa thế kỷ XIX) . .14
3.2. Kinh tế đồn điền ở Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc và kháng chiến(1858 – 1954) . . .16
3.3Kinh tế trang trại ở Việt Nam thời kỳ 1954 – 1990 . . . . 18
III. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại và các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại của các nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam . .20
1.Về phát triển kinh tế trang trại . .20
1.1.Kinh nghiệm về phát triển KTTTcủa một số nước trên thế giới. .20 1.2.Bài học kinh nghiệm về phát triển KTTT đối với Việt Nam . .26
2.Về chính sách phát triển KTTT của một số nước trên thế giới . . 28
2.1.Kinh nghiệm của Trung quốc . . . . . .28
2.2 Kinh nghiệm của Đài Loan . . .29
2.3.Bài học kinh nghiệm về xây dựng chính sách phát triển kinh tế trang trại đối với Việt Nam . . . .30
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI VÀ CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NA . .32
I. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam . . . .32
1.Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam . . .32
1.1.Về số lượng trang trại . . . .32
1.2. Loại hình trang trại . . . .33
1.3. Quy mô đất đai, lao động, vốn của trang trại . . . .34
1.4. Trình độ chủ trang trại . .40
1.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật . . .41
2.Đóng góp của kinh tế trang trại . 42
2.1.Đóng góp vào thu nhập quốc dân . . . .42
2.2Tạo việc làm . .42
2.3.Thay đổi bộ mặt nông thôn . .43
2.4. Bảo vệ môi trường . . . 44
3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển kinh tế trang trại Việt Nam .44
3.1. Những mặt đạt được .44
3.2. Những mặt hạn chế . . .45
II. Đánh giá về một số chính sách tác động đến sự phát triển KTTT . .47
1.Chính sách đất đai . . . 47
1.1. Tình hình thực hiện chính sách đất đai .47
1.2. Những hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách đất đai . .51
2. Chính sách khoa học công nghệ . .52
2.1. Tình hình thực hiện chính sách khoa học công nghệ .52
2.2.Hạn chế trong việc thực hiện chính sách khoa học công nghệ . .53
3. Chính sách tín dụng . . . .56
3.1. Tình hình thực hiện chính sách tín dụng . . .56
3.2Những hạn chế trong việc thực hiện chính sách tín dụng . . . 60
4. Chính sách về thị trường . . .61
4.1.Tình hình thực hiện chính sách thị trường . . .61
4.2.Hạn chế trong thực hiện chính sách thị trường . . . .63
5.Chính sách thuế . . 64
5.1Tình hình thực hiện chính sách . . . .64
5.2. Những hạn chế trong viẹc thực hiện chính sách thuế . .66
6.Đánh giá chung về các chính sách phát triển KTTTở Việt Nam .68
6.1.Những mặt đạt được của các chính sách phát triểnKTTT .68
6.2.Những hạn chế trong chính sách phát triển KTTT .69
CHƯƠNG III. ĐỊNH HƯỚNG NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH MỘT SỐ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2010 .71
I.Quan điểm và phương hướng về phát triển KTTT .71
1.Quan đIểm phát triển KTTT ở Việt Nam .71
2.Phương hướng phát triển KTTT ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 . .72
2.1.Phương hướng chung . 72
2.2. Phương hướng phát triển KTTT từng vùng cụ thể . .72
II.Giải pháp nhằm hoàn thiện 1 số chính sách chủ yếu về phát triểnKTT.75
1.Chính sách đất đai . .75
2.Chính sách khoa học công nghệ .80
3.Chính sách tín dụng . .83
4.Chính sách thị trường . . .85
5.Chính sách thuế . . .87
Kết luận
96 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2389 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện một số chính sách phát triển kinh tế trang trại Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n gia súc, một số trang trại làm lâm nghiệp có máy cưa xẻ gỗ và chế biến lâm sản (khảo sát trang trại Nguyễn Sinh Cúc). Mức độ trang bị máy móc, thiết bị của trang trại còn thấp so với quy mô và tính chất sản xuất hàng hoá nhưng cao hơn nhiều so với mức trung bình của hộ nông dân trên cả nước. Đặc biệt là trang trại trồng và chế biến cao su ở Bình Dương và Bình Phước trình độ trang bị máy móc nông nghiệp khá cao, trung bình 2 - 3 trang trại có một máy kéo, một ô tô vận tải và một máy sơ chế cao su. Ngược lại các trang trại lâm nghiệp hoặc trang trại nông lâm kết hợp ở tỉnh Yên Bái chủ yếu vẫn dùng công cụ thủ công và sức người, máy móc cơ khí còn rất ít.
2.Đóng góp của kinh tế trang trại.
2.1.Đóng góp vào thu nhập quốc dân.
Kinh tế trang trại hàng năm tạo ra giá trị tổng sản lượng gần 12.000 tỷ đồng, trong đó 87% là sản phẩm hàng hoá. Nhưng đến nay vẫn chưa có tài liệu naò thống kê kinh tế trang trại đóng góp bao nhiêu %GDP nhưng sự đóng góp của kinh tế trang trại cho Nhà nước thể hiện thông qua nộp thuế và lệ phí của chủ trang trại.
Mức và tỷ lệ nộp thuế của chủ trang trại cho Nhà nước còn hạn chế. Bình quân một trang trại nộp thuế 1,2 triệu đồng trong đó trang trại cây hàng năm 1 triệu đồng, cây lâu năm đã thu hoạch 1,9 triệu đồng, chăn nuôi 1,5 triệu đồng. Tốc độ tăng hàng năm 16 - 20%. Ngoài đóng góp cho Nhà nước trang trại còn đóng góp vào việc trong vấn đề bảo vệ đất đai, tài nguyên rừng, biển và môi trường.
2.2.Tạo việc làm.
Tạo việc làm là một trong những vấn đề bức xúc không những chỉ ở Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới cũng rất quan tâm. Theo tài liệu thống kê, ở các nước đang phát triển giữ một vị trí quan trọng. ở Việt Nam 80% dân số ở nông thôn nên tỷ lệ lao động nông nhàn rất lớn, phát triển kinh tế trang trại đã góp phần vào việc giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn. Theo điều tra của trường ĐHKTQD trong 3044 trang trại điều tra thì hàng năm trang trại tạo việc làm cho 6079 lao động, trong đó có 2983 lao động thường xuyên và có 3096 lao động thuê theo thời vụ quy đổi. Theo báo cáo của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn năm 2000 kinh tế trang trại ngoài việc tạo ra việc làm cho 30 vạn lao động gia đình còn thuê thêm 10 vạn lao động thường xuyên và 30 triệu ngày công lao động thời vụ/ năm. Đặc biệt là chương trình 327, dự án trồng 5 triệu ha rừng, kinh tế trang trại tạo việc làm cho nhiều cư dân và góp phần làm giảm tỷ lệ lao động nông nhàn ở nông thôn.
2.3.Thay đổi bộ mặt nông thôn.
Kinh tế trang trại đã góp phần vào xây dựng bộ mặt nông thôn mới vì kinh tế trang trại phát triển sẽ tạo ra nhiều sản phẩm, tạo ra môi trường mới về lưu thông hàng hoá ở nông thôn, làm nảy sinh những nhu cầu mới trong từng hộ, và cả cộng đồng dân cư, nhu cầu đường giao thông, văn hoá, văn nghệ, giáo dục, phát thanh truyền hình, thông tin liên lạc và các nhu cầu khác, tạo cho nông thôn miền núi ngày một đổi thay cả về kinh tế và cảnh quan.
Kinh tế trang trại không những tạo việc làm cho số lao động dư thừa ở nông thôn mà thông qua đó kinh tế trang trại phát triển kinh tế trang trại còn xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống văn hoá ở những vùng hẻo lánh thiếu ánh sáng văn minh, dân trí và trí thức dân chủ được nâng lên, tiếp cận dần với lối sống công nghiệp; giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn; giữa miền xuôi và vùng cao. Hiện nay tiền công mỗi thời vụ khoảng trên dưới 20.000 đồng /ngày, thu nhập thường xuyên 200 - 300 nghìn đồng đến 500 nghìn đồng/tháng cho mỗi lao động; nhiều chủ trang trại bắt đầu giàu lên. Các phương tiện sinh hoạt khác ngày càng đàng hoàng hơn đến nay 77,8% trang trại có ti vi màu, 18,6% trang trại có điện thoại, 19,2% trang trại có tủ lạnh, 88% trang trại có xe máy (Nguyễn Thế Nhã -Thực trạng phát triển trang trại ở nước ta).
2.4. Bảo vệ môi trường.
Ngoài các đóng góp trên thì kinh tế trang trại còn góp phần vào việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng tập trung chuyên môn hoá (đặc biệt là các vùng chuyên canh cây công nghiệp, hoa quả hải sản), sản xuất hàng hoá phá thế sản xuất thuần nông, làm tiền đề cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản phát triển như: trang trại trồng cà phê ở Đắc Lắc, Gia Lai, trang trại trồng chè ở Yên Bái, Nghệ An, Lâm Đồng, trang trại trồng mía ở Thanh Hoá… đưa công nghiệp và các hoạt động vào nông thôn. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng góp phần vào việc cải thiện môi trường sinh thái, phủ xanh đất trống, đồi trọc hạn chế nạn du canh, du cư phá rừng, thúc đẩy lấn biển và mở mang diện tích canh tác. Các trang trại lâm nghiệp góp phần vào việc bảo vệ nguồn đất, chống xói mòn, ngăn ngừa lũ lụt, phát triển nguồn tài nguyên rừng đặc biệt là các trang trại khoanh nuôi và tái trồng rừng. Các trang trại cây ăn quả như các miệt vườn ở nam bộ góp phần vào việc phát triển du lịch sinh thái một loại hình du lịch đã và đang thu hút rất lớn một lượng khách du lịch trong và ngoài nước.
3.Đánh giá chung về thực trạng phát triển kinh tế trang trại Việt Nam.
3.1.Những mặt đạt được.
- Trong những năm gần đây kinh tế trang trại đã phát triển mạnh ở nhiều địa phương trong cả nước, nhất là vùng trung du, miền núi và ven biển… Mặc dù đang trong quá trình phát triển nhưng kinh tế trang trại đã thực sự là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá, một mặt đã tạo được lượng giá trị lớn về nông lâm thuỷ sản hàng hoá mà quy mô nó vượt trội nhiều lần so với kinh tế hộ nông dân, mặt khác là mô hình lấy sản xuất hàng hoá làm mục tiêu chính. Số liệu điều tra ở 3044 trang trại cho thấy quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá bình quân một trang trại năm 1998 đạt trên 90 triệu đồng, với tỷ suất hàng hoá đạt trên 86%.
- Kinh tế trang trại là nhân tố mới ở nông thôn. Phát triển kinh tế trang trại là động lực nối tiếp, phát huy động lực của kinh tế hộ, là điểm đột phá trong bước chuyển sang sản xuất hàng hoá lớn đáp ứng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần tích cực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Phát triển kinh tế trang trại là con đường tất yếu, là bước đi thích hợp để chuyển nền nông nghiệp từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá lớn.
- Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác và sử dụng quỹ đất tốt hơn, đưa đất đai hoang hoá vào sản xuất, nhất là vùng trung du, miền núi và ven biển đã được đưa vào sản xuất, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hoá đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Quỹ đất các trang trại chủ yếu dựa vào nguồn đất chưa được giao. Đã có sự chuyển nhượng đất nhằm thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển kinh tế trang trại ở các địa phương.Tuy nhiên qua trình tích tụ tập trung ruộng đất chủ yếu diễn ra ở vùng đất mới khai hoang, quỹ đất chuyển nhượng chưa cao.
Kinh tế trang trại góp phần tạo việc làm và thu nhập đáng kể cho một bộ
phận lao động ở nông thôn. Góp phần giải quyết lao động hiện nay dư thừa ở nông thôn, nâng cao dân trí và đời sống sống văn hoá ở nông thôn.
3.2.Những mặt hạn chế.
Quỹ đất trang trại có nguồn gốc đa dạng, nhất là phần đất chưa được giao, phần này tính chung các trang trại điều tra còn chiếm khoảng 28,17%, ở một số địa phương còn chiếm 50% quỹ đất hiện có của các trang trại. Nguồn gốc và phương thức quản lý quỹ đất chưa được giao rất khác nhau, nhất là đất nhận thầu của hợp tác xã và chính quyền địa phương, đất nhận khoán của nông, lâm trường và của chủ dự án… đang làm cho các chủ trang trại chưa thật sự yên tâm bỏ thêm vốn đầu tư khai thác có hiệu quả quỹ đất này.
Sản phẩm hàng hoá của các trang trại đã có quy mô tương đối lớn, những vấn đề về chế biến, bảo quản, thị trường tiêu thụ, giá cả thiếu ổn định, mang nhiều rủi ro đã đặt ra nhưng còn mang tính cục bộ. Vài ba năm tới hầu hết các trang trại đưa diện tích cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả, rừng nguyên liệu vào khai thác sản phẩm đồng loạt thì vấn đề chế biến nông - lâm - thuỷ sản và thị trường tiêu thụ, giá cả sản phẩm sẽ đặt ra hết sức găy gắt, nếu không chú ý giải quyết từ bây giờ thì chắc chắn sẽ gây ra tổn thất lớn cho các trang trại và nền kinh tế quốc dân.
Một số chủ trang trại chưa nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường để định hướng sản xuất nên sản phẩm làm ra tiêu thụ khó khăn, hiệu quả kinh tế thấp… ở hầu hết các báo cáo đều kiến nghị về việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các trang trại. Nhiều địa phương, các chủ trang trại khi bán sản phẩm thường bị ép giá, ép cấp, có nơi khi cây trồng đã cho thu hoạch nhưng do không bán được sản phẩm nên đã phải chặt phá cây cũ để trồng loại cây mới làm ảnh hưởng không ít đến hiệu quả và công sức đầu tư của các chủ trang trại như các trang trại trồng cây cà phê ở các tỉnh Tây Nguyên.
Trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ của các chủ trang trại còn thấp nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Số chủ trang trại có bằng từ sơ cấp đến đại học chiếm 31,8% trong đó trình độ đại học chiếm 5,6%. Số chủ trang trại dự các lớp về khuyến nông, lâm mới đạt 13,53%; số chủ trang trại chăm chú theo dõi trên ti vi, báo, đài chiếm 30,32% (Nguyễn Thế Nhã). Đã đến lúc Nhà nước cần có chính sách bồi dưỡng và đào tạo kiến thức kỹ thuật, kinh tế và quản lý cho lực lượng chủ trang trại, trong tương lai họ sẽ là lực lượng chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp của nước ta.
Hệ thống cơ sở hạ tầng ở nông thôn và miền núi yếu kém nhất là các vùng kinh tế trang trại phát triển gây nhiều khó khăn cho phát triển và mở rộng sản xuất. Đáng chú ý là mạng lưới giao thông, thuỷ lợi, điện nông thôn, chế biến nông sản còn yếu kém. Các trang trại đang mong muốn được ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là cây, con giống tốt, công nghệ sau thu hoạch… Đặc biệt là các trang trại được phát triển ở trung du, miền núi -nơi đất xấu, địa hình phức tạp, đang mâu thuẫn với khả năng chế biến, vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ để giúp các trang trại tháo gỡ.
II. đánh giá về một số chính sách tác động đến sự phát triển kinh tế trang trại.
Chính sách đất đai.
1.1 Tính hình thực hiện chính sách đất đai
Trong hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn chính sách đất đai chiếm vị trí quan trọng nhất. Trên thực tế, chính sách đất đai được đổi mới và dần dần đổi mới hoàn thiện. Chính sách đất đai được chia làm hai giai đoạn sau
Giai đoạn trước khi ban hành Luật Đất đai năm 1993:
Sự thay đổi của các chủ trương và chính sách được đánh dấu bằng việc ban hành Luật Đất đai năm 1987 và được Quốc Hội khoá VIII kỳ họp thứ hai thông qua ngày 29/12/1987 và công bố ngày 8/1/1988, Luật Đất đai ban hành và có hiệu lực trước khi có Nghị quyết 10/NQTW là một bước quan trọng tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của hàng loạt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Triển khai Luật Đất đai Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các văn bản:
- Chỉ thị 47 - CT/TW ngày 28/6/1988 của Bộ Chính trị về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất.
- Chỉ thị 154- HĐBT (nay là Thủ tướng Chính Phủ) ngày 11/10/1988 về triển khai thực hiện chỉ thị 47- CT/TW.
- Quyết định số 13 - HĐBT ngày 1/2/1989 về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất.
- Nghị định 30 - HĐBT ngày 23/3/ 1989 về việc thi hành Luật Đất đai và chỉ thị 47 - CT/TW
- Quyết định số 201/QĐ-ĐKTK ngày 14/7/1989 của tổng cục quản lý ruộng đất về quy định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Quyết định 327- HĐBT ngày 15/9/1992 về quyền sử dụng đất trống, đồi trọc vào mục đích nông lâm nghiệp.
- Những văn bản trên là cơ sở pháp lý cho việc quản Lý đất đai trên phạm vi cả nước.
Giai đoạn từ 1993 đến nay.
So với trước, Luật đất đai năm 1993 là một bước tiến quan trọng trong việc quản lý đất đai, nhưng sau thời gian thực hiện luật đất đai đã bộc lộ một số hạn chế, và chưa theo kịp những yêu cầu về đổi mới cơ chế quản lý. Luật đất đai năm 1987 chưa quy định rõ ràng quyền năng của người sử dụng đất, hạn chế tính tích cực của nông dân trong việc đầu tư thâm canh phát triển sản xuất. Vì vậy năm 1993 Luật đất đai sửa đổi đã được ban hành. Từ đó đến nay có trên 70 văn bản thi hành Luật đất đai, trong đó có 6 văn bản của Quốc Hội, trên 30 văn bản của Chính phủ, còn lại của các ban ngành có liên quan và ngày 11/12/1998 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai đã được ban hành.
Tư tưởng cơ bản của các văn bản này là: Khẳng định quyền sở hữu toàn dân về đất đai, xác định quyền sử dụng ổn định lâu dài về ruộng đất, và quy định rõ quyền lợi và trách nhiệm đối với sử dụng đất.
Triển khai tinh thần mới của Luật đất đai Chính phủ và các Bộ, nghành có liên quan để ban hành các văn bản hướng dẫn các cấp các ngành trong cả nước thi hành luật cụ thể như sau:
+ Giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông - lâm nghiệp theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 và Nghị định 02/CP ngày 15/11/1994, Nghị định 01/CP- của Chính phủ ngày 4/1/1995: Quy định về khoán đất và sử dụng vào mục đích sản xuất nông lâm và nuôi trồng thuỷ sản trong doanh nghiệp nhà nước nông nghiệp.
Việc giao đất nông - lâm nghiệp cho các hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài đã được triển khai thực hiện ở một số tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân.
Tiến hành chuyển đổi ruộng đất manh mún của các hộ nông dân (bình quân một hộ có 15- 17 thửa với diện tích bình quân 180 m2/ thửa) thành các ô thửa lớn, sự chuyển đổi đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp trong việc quản lý và tổ chức sản xuất, góp phần tăng năng suất, khắc phục tình trạng đất phân tán, manh mún hiện nay.
Việc giao, cho thuê quyền sử dụng đất và thời hạn sử dụng đất đai cho những người sử dụng đất tuỳ mục đích sử dụng, loại đất sử dụng và các vùng lãnh thổ khác nhau là bước quan trọng để khẳng định tính “có chủ”của việc quản lý và sử dụng đất, gắn đất đai với người lao động, điều kiện quan trọng để tạo ra các nông sản đáp ứng yêu cầu của xã hội. Đó là yếu tố là động lực cơ bản để sử dụng và khai thác đất có hiệu quả.
Tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo chỉ thị 10/1998/ thời gian và chỉ thị 18/1999/ TTg. Đến nay:Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đát cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân đã tạo tâm lý để các chủ sử dụng đất tăng cường đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu quả đất, gắn sử dụng đất với việc bồi bổ nâng cao chất lượng đất đai, việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê… đã được thực hiện ở nhiều nơi tạo điều kiện để từng bước sử dụng phân công lao động nông nghiệp theo hướng “ai giỏi nghề gì làm nghề đó”.
Chính phủ ban hành các chính sách đất đai cởi mở tạo đất đai vận hành theo đúng hướng tích tụ đất đai với quy mô lớn dần lên và hình thành phát triển kinh tế trang trại. Để khuyến khích kinh tế trang trại phát triển có hiệu quả thì Nghị định số 03/2000/NĐ- CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại đã nêu rõ chính sách đất đai cho phát triển kinh tế trang trại như sau:
+ Hộ gia đình có nhu cầu và khả năng sử dụng đất đai để phát triển trang trại được nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, được áp dụng theo quy định tại Nghị định số 85/1999/NĐ - CP ngày 28/8/1999 của Chính Phủ về sửa đổi, bổ sung một số quy định về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài và Nghị định số 163/1999/NĐ- CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp sử dụng đất. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất,được áp dụng theo quy định tại Nghị định số 85/1999/NĐ - CP ngày 28/8/1999 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số quy định về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài và Nghị định số 163/1999/NĐ- CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp
Qua tình hình quản lý và sử dụng đất đai của các tỉnh cho thấy chính sách đổi mới về đất đai đã được vận dụng và thực hiện tốt, việc quản lý đất đai dần đi vào nền nếp, các loại đất đã được giao cho chủ sử dụng, nhân dân yên tâm đầu tư thâm canh phát triển sản xuất nông nghiệp, tạo ra sự phấn khởi và thúc đẩy mạnh mẽ thêm động lực trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Tuy nhiên việc hoàn thiện chính sách ruộng đất và quản lý đất đai là vấn đề phức tạp và còn nhiều vấn đề chung ở tầm vĩ mô cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện. Hiện còn khoảng 30% trang trại chưa được giao đất, thuê đất ổn định lâu dài nên chủ trang trại chưa thật sự yên tâm đầu tư sản xuất.
1.2. Những hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách đất đai
Trong khi thực hiện chính sách đất đai đối với các hộ nông dân và kinh tế trang trại vẫn còn những vướng mắc chưa đưọc giải quyết kịp thời:
- Việc quy hoạch phát triển kinh tế trang trại của nhiều địa phương thực hiện còn chậm, không ít huyện tuy đã có xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế trang trại nhưng quy hoạch chưa gắn kết với quy hoạch kinh tế, xã hội, quy hoạch xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn huyện. Chưa gắn kết với quy hoạch phát triển công nghiệp nói chung hay công nghiệp chế biến nói riêng trong tỉnh, trong vùng hoặc chưa gắn với các chương trình kinh tế, xã hội khác như định canh, định cư, chương trình xoá đói giảm nghèo đã gây không ít những khó khăn cho các trang trại trong việc đầu tư, phát triển kinh tế trang trại. Một số nơi như tỉnh Gia Lai, kinh tế trang trại phát triển còn mang tính tự phát; tình trạng sang nhượng, tích tụ đất trái pháp luật làm cho người nghèo, đặc biệt là người dân tộc thiểu số không còn đất canh tác. Hoạt động sản xuất của một số trang trại do chưa được kiểm soát chặt chẽ đã làm ảnh hưởng xấu đến nguồn nước, xâm hại đến rừng và tài nguyên đất.
- Việc giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại tiến hành còn chậm; một số vấn đề sử dụng đất của trang trại còn vướng mắc chưa được xử lý.
+ Theo báo cáo của các tỉnh, diện tích đất sản xuất bình quân một trang trại là 4,7 ha. Trong đó, diện tích đất được Nhà nước giao 37%, diện tích đất nhận chuyển nhượng 10%, diện tích đất khai phá hợp pháp là 25%. Đến nay, diện tích đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho chủ trang trại mới đạt khoảng 45%. Diện tích đất chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm tỷ lệ khá cao, chủ yếu tập trung ở các trang trại trồng cây lâu năm và trang trại lâm nghiệp.
+ Chưa có chính sách khuyến khích mạnh mẽ các chủ trang trại sử dụng đất đai vượt hạn điền để phát triển trang trại ở những vùng khó khăn, vùng có qũy đất chưa sử dụng, vùng còn nhiều đất trống, đồi trọc. Chẳng hạn: Việc ấn định hạn điền 30 ha dựa trên nguyên tắc chung cho toàn quốc hiện nay là không phù hợp, hạn chế, việc khai thác những vùng đất cằn cỗi, hoang hoá lập trang trại. Nó cũng không thực tế, bởi vì: giá trị của một ha ruộng đất ở vùng Đồng Bằng đông dân là rất lớn, lớn hơn nhiều so với hàng trăm ha đất trống đồi trọc.
+ Một số trang trại thuê đất của nông lâm trường không được hưởng quyền của người thuê đất mà pháp luật cho phép, nên chưa thực sự yên tâm khi bỏ vốn đầu tư vào sản xuất phát triển trang trại.
- Việc giao quyền sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân nói chung và kinh tế trang trại nói riêng với thời hạn giao là 20 năm đối với trang trại cây hàng năm, 50 năm đối với cây lâu năm là chưa phù hợp. Bởi vì một trang trại muốn phát triển tốt cần hàng chục năm đặc biệt là trang trại cây lâu năm như cao su, cà phê, điều… sẽ tồn tại lâu dài.
Nguyên nhân của hạn chế trên là do:
- Hậu quả của cơ chế cũ để lại, chẳng hạn như các nông lâm trường trong thời bao cấp được giao đất, nay không sử dụng hết, hoặc sử dụng không hiệu quả, không giao lại cho chính quyền địa phương trong khi các trang trại khác lại rất thiếu đất.
- ở một số các tỉnh, thành phố, đất nông nghiệp đã giao hết cho người sử dụng dụng, đất nông đã cấp giấy chứng nhận cho người sử dụng đất(sổ đỏ) cho hầu hết các hộ nông dân, nay việc thu hồi hoặc chuyển đổi đất đai để phát triển kinh tế trang trại gặp rất nhiều khó khăn cả về kinh tế và tâm lý.
Chính sách khoa học công nghệ
2.1. Tình hình thực hiện chính sách khoa học công nghệ
Chính sách khoa học, kỹ thuật và công nghệ trong nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, xuất phát từ vị trí vai trò của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đối với phát triển sản xuất. Nghị quyết 10 của Bộ chính trị đã khẳng định và đề ra mục tiêu phương hướng. Đó là:
Đầu tư thích đáng cho công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật coi trọng ứng dụng vào sản xuất các thành tựu của công nghệ sinh học và đổi mới công nghệ, nhất là những kỹ thuật về giống cây, con, về thâm canh tăng năng suất, về chế biến, về sử dụng phân bón, tưới tiêu, về công cụ cải tiến và cơ giới, về sử dụng các nguồn năng lượng tự nhiên để giải quyết chất đốt và phát điện nhỏ. Tổ chức tốt công tác dự báo thời tiết, dự báo sâu bệnh cho cây trồng vật nuôi.
Những tiến bộ trong phát triển sản xuất nông, nghiệp nông thôn nước ta trong hơn 10 năm đổi mới là kết quả tổng hợp của đường lối chính sách phát triển nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng trong đó có chính sách khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại nêu rõ chính sách khoa học kỹ thuật cho phát triển kinh tế trang trại như sau:
“ Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn cùng với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy hoạch vườn ươm giống cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp và các cơ sở sản xuất con giống, chăn nuôi, thuỷ sản hoặc hỗ trợ một số trang trại có điều kiện sản xuất giống để bảo đảm giống tốt, giống có chất lượng cao cung cấp cho các trang trại và cho hộ nông dân trong vùng”.
Trên thực tế chính sách khoa học kỹ thuật đã hướng mạnh vào việc cải tiến và ứng dụng giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng như các giống lúa, rau, quả, lợn, bò, vịt… thay thế phần kém hoặc một phần giống cổ truyền chất lượng kém trước đây.
Việc cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lượng giống và ứng dụng giống mới, không chỉ làm tăng sản lượng mà còn có tác dụng cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, nhờ đó đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế.
Cùng với việc cải tiến kỹ thuật chất lượng giống và ứng dụng giống mới trong sản xuất thì việc ứng dụng các tiến bộ khác trong kỹ thuật thâm canh cũng được chú ý như phân bón, thuỷ lợi, tưới tiêu. Nhờ đó trình độ thâm canh sản xuất được nâng cao trong cả rồng trọt và chăn nuôi.
Kỹ thuật chế biến sản phẩm được chú ý và coi trọng kể từ khâu thu hoạch như bảo quản, phơi sấy, chế biến làm giảm bớt hao hụt sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm nhất là các sản phẩm xuất khẩu.
Việc thực hiện chuyển giao công nghệ và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật đến từng hộ gia đình nông dân và các trang trại qua công tác khuyến nông được đẩy mạnh và tăng cường. Nghị quyết 13/CP của Chính phủ ban hành ngày 2/3/1993 về công tác khuyến nông tạo cơ sở pháp lý cho việc phổ biến, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ xuống tận nông thôn. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 02/02/2000 cũng được nêu rõ:
“ Khuyến khích chủ trang trại góp vốn quỹ hỗ trợ phát triển khoa học, liên kết với các cơ sở khoa học, đào tạo, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật áp dụng vào trang trại và làm dịch vụ kỹ thuật cho nông dân trong vùng”
Ngoài hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư của nhà nước còn có các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm tự nguyện được hình thành từ các tổ chức độc lập của các viện, trường, các đoàn thể, tư nhân, thực hiện các nội dung hoạt động khuyến nông như cung cấp giống, cây trồng đặc sản, các dịch vụ nghiên cứu cung cấp phân bón hoá học.
Nhìn chung thì công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đã đến với bà con nông dân. Nhưng nhìn tổng thể thì trình độ khoa học, kỹ thuật công nghệ của các trang trại phần lớn là thủ công, cơ khí và bán cơ khí nhất là trong khâu làm đất, ươm giống…còn thô sơ và lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới khoa học, kỹ thuật, công nghệ của tổ chức sản xuất hàng hoá. Do đó năng suất, chất lượng và hàm lượng khoa học, kỹ thuật của sản phẩm không cao, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do thói quen áp dụng kinh nghiệm truyền thống chưa quan tâm việc áp dụng khoa học kỹ thuật như: giống mới, kỹ thuật tưới tiêu, bảo quản… Đồng thời do đặc điểm của kinh tế trang trại là quy mô còn nhỏ, khả năng quản lý vốn đầu tư nhỏ bé, nên ít có điều kiện áp dụng kỹ thuật tiến bộ. Mặt khác các trang trại chưa có điều kiện tiếp cận, xử lý thông tin kinh tế, thông tin thị trường, về khoa học kỹ thuật đặc biệt là các trang trại vùng đồi núi.
2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chính sách khoa học công nghệ.
Sự yếu kém về khoa học, kỹ thuật công nghệ của các trang trại ở nước ta có nguyên nhân do hạn chế trong chính sách khoa họ kỹ thuật công nghệ điều đó được thể hiện:
- Thiếu chiến lược khoa học, công nghệ cho nông nghiệp nói chung và các
trang trại nói riêng, do đó việc áp dụn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V8404.DOC