MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ VÀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ BẢO HIỂM XÃ HỘI 6
1.1. Quản lý bảo hiểm xã hội 6
1.2. Phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội 23
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ THU, CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở TỈNH THANH HÓA 34
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Thanh Hoá và quá trình hình thành hệ thống tổ chức quản lý Bảo hiểm xã hội Thanh Hoá 34
2.2. Thực trạng quản lý và phân cấp quản lý thu, chi Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hóa 38
2.3. Đánh giá chung về phân cấp quản lý thu, chi Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá 63
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ THU, CHI BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở TỈNH THANH HÓA 69
3.1. Phương hướng hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi Bảo hiểm xã hội của tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn tới 69
3.2. Các giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá 73
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
PHỤ LỤC 92
95 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1928 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động làm nghề nặng nhọc độc hại, nhưng cũng chỉ đóng BHXH cho người lao động theo mức lương tối thiểu.
Ba là, còn nhiều đơn vị nợ tiền đóng BHXH với số tiền khá lớn, tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp địa phương. Tính đến 31/12/2007, trên địa bàn tỉnh còn 22 đơn vị nợ BHXH, với số tiền trên 9,669 tỷ đồng. Các đơn vị còn nợ tiền đóng BHXH với số lượng lớn là: Nông trường Yên Mỹ: nợ 2 tỷ đồng; Công ty Mía đường Nông Cống: nợ 173 triệu đồng; Công ty Sản xuất xây dựng công nghiệp và xuất nhập khẩu: nợ 127 triệu đồng; Công ty Hoàng Long: 233,7 triệu đồng; Công ty cổ phần chế biến thuỷ sản: 255 triệu đồng; Công ty cổ phần tàu thuỷ Hoàng Linh: 826 triệu đồng; Công ty cổ phần du lịch: 339 triệu đồng.
Thứ ba, việc quản lý hồ sơ lý lịch gốc của người lao động chưa được quan tâm đúng mức. Cơ quan quản lý thu BHXH chậm triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hồ sơ BHXH của người lao động.
Hệ quả của hạn chế này là việc cấp sổ BHXH và bổ sung những thay đổi của người lao động vào sổ BHXH của người lao động còn nhiều thiếu sót. Sổ BHXH là cơ sở pháp lý quan trọng ghi nhận quá trình đóng BHXH của người lao động, đồng thời là cơ sở pháp lý để giải quyết các quyền lợi cho người lao động khi có nhu cầu. Tuy vậy, việc cấp sổ BHXH và ghi bổ sung sổ BHXH cho người lao động chưa được các đơn vị sử dụng lao động thực hiện nghiêm túc. Hiện nay, toàn tỉnh mới có 95 % số lao động tham gia BHXH được cấp sổ BHXH. Nhiều sổ BHXH còn sai sót như ghi không đúng chức danh nghề, sai mức lương, tuổi đời và thời gian công tác.
2.2.1.2. Thực trạng quản lý chi bảo hiểm xã hội
Cũng như quản lý thu BHXH, từ 01/9/1995 đến nay, việc quản lý chi BHXH do một cơ quan thực hiện là BHXH Thanh Hoá.
Quản lý chi BHXH gồm có hai phần: quản lý chi chế độ BHXH ngắn hạn (chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khoẻ) và quản lý chi chế độ BHXH dài hạn (chế độ hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp).
Về quản lý chi BHXH ngắn hạn. Trước 31/12/2006 (trước khi thực hiện Luật BHXH), định kỳ hàng quý, cơ quan BHXH cấp ứng 2% quỹ lương trích nộp BHXH của đơn vị sử dụng lao động để họ trực tiếp chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ ngắn hạn ở đơn vị mình. Từ ngày 01/01/2007 (từ khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành), đơn vị sử dụng lao động được chủ động giữ lại 2% quỹ lương trích nộp BHXH để trực tiếp chi trả các chế độ ngắn hạn cho người lao động trong đơn vị, nếu thiếu sẽ được cơ quan BHXH cấp bổ sung sau khi xét duyệt quyết toán.
Trong cả hai phương thức trên, đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm tập hợp các chứng từ (như giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH, giấy ra viện, giấy khai sinh...) để quyết toán với cơ quan BHXH sau khi đã chi trả chế độ BHXH cho người lao động.
Thời gian đầu, việc quản lý chi các chế độ ngắn hạn gặp một số hạn chế do các đơn vị sử dụng lao động và người lao động chưa thích ứng với cơ chế mới là thực thanh, thực chi trên cơ sở có đóng, có hưởng. Các đơn vị sử dụng lao động chưa làm quen với việc quản lý ngày công ốm đau, thai sản và lập các hồ sơ thủ tục để được cơ quan quản lý BHXH giải quyết xét hưởng BHXH. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, những vướng mắc, hạn chế trong nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động về cơ chế quản lý mới về quản lý BHXH đã được tháo gỡ. Đặc biệt từ những năm 2003 đến nay, BHXH tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực như tuyên truyền, phổ biến, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ; thực hiện phân cấp chi chế độ BHXH ngắn hạn gắn với phân cấp quản lý thu BHXH; tăng cường trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cán bộ giám định thường trú tại các cơ sở khám chữa bệnh trong việc xác nhận tính hợp pháp của các giấy tờ nghỉ ốm đau, thai sản; tổ chức kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động có số chi tăng đột biến hoặc có nghi vấn khi thụ lý hồ sơ chứng từ nên đã mang lại nhiều thành công trong việc thực hiện chế độ ngắn hạn cho người lao động. Hàng năm, đã có hàng ngàn lao động được nhận trợ cấp ốm đau, thai sản và nghỉ dưỡng sức với tổng số tiền bình quân là 32.392 tỷ đồng. Chỉ tính riêng năm 2007 đã có 26.054 lượt người nghỉ ốm, với số ngày nghỉ 270.430 ngày, được nhận tổng số tiền 12,247 tỷ đồng; 6.254 người nghỉ hưởng thai sản, số ngày nghỉ 578.079 ngày được nhận số tiền số tiền 25,879 tỷ đồng; hàng ngàn lượt người được nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ với số tiền là 4,314 tỷ đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, việc quản lý chi chế độ ngắn hạn cho người lao động tại các đơn vị còn có hạn chế là tình trạng hồ sơ, thủ tục để hưởng chế độ không hợp lệ vẫn còn; tình trạng người lao động vẫn đi làm hưởng lương nhưng lại được chủ sử dụng lao động chứng nhận nghỉ ốm để thanh toán trợ cấp ốm đau với cơ quan BHXH; cá biệt có trường hợp còn lập khống chứng từ để thanh toán chi hai chế độ.
Về quản lý chi chế độ dài hạn. Từ 01/9/1995, việc quản lý chi các chế độ BHXH dài hạn do cơ quan BHXH thực hiện. Số đối tượng hưởng BHXH liên tục tăng qua các năm. Tại thời điểm tháng 9/1995 số đối tượng đang hưởng BHXH dài hạn do các ngành bàn giao là 117.694 người, đến 31/12/2007, số đối tượng này đã là 129.635 người. Trong đó, hiện đang hưởng trợ cấp tại các huyện miền núi là 11,47%; ở các huyện vùng biển 27,68%; các huyện vùng trung du 16,14%; các huyện đồng bằng 23,18% và tại thị xã, thành phố là 21,53%. Kinh phí chi trả cho các đối tượng ở các huyện miền núi chiếm 11,54%; ở các huyện ven biển 36,3%; các thị xã, thành phố 19,7% trên tổng kinh phí toàn tỉnh. Số còn lại ở các huyện đồng bằng, trung du.
Trước năm 1995, việc chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH dài hạn thông qua 630 Ban đại diện chi trả xã, thị trấn. Nguồn kinh phí để cấp phát chi trả cho đối tượng chủ yếu do Sở Tài chính-Vật giá cân đối từ ngân sách của tỉnh. Chính vì vậy, việc chi trả rất chậm trễ và không kịp thời. Có thời kỳ do không làm tốt công tác lập dự toán, quản lý đối tượng không chặt chẽ, nhất là các đối tượng đã chết hoặc hết hạn hưởng nên tình trạng tham ô, lạm dụng nguồn quỹ đã xảy ra gây bất bình trong xã hội.
Từ ngày 01/9/1995, do cơ chế quản lý BHXH thay đổi, nguồn kinh phí để chi trả các chế độ BHXH được BHXH Việt Nam đảm bảo đầy đủ, kịp thời, bên cạnh đó, BHXH Thanh Hoá đã có nhiều đổi mới trong tổ chức quản lý chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, đặc biệt là chỉ đạo BHXH cấp huyện linh hoạt trong việc áp dụng các hình thức chi trả trực tiếp, gián tiếp; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong việc lập danh sách chi trả; thực hiện tốt công tác lập dự toán, công tác quản lý đối tượng tăng giảm; kiểm soát chặt chẽ từ khâu quản lý đối tượng, quản lý kinh phí, đến khâu vận chuyển tiền mặt từ Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT về địa điểm chi trả. Kịp thời phát hiện và xử lý các sai phạm trong quản lý đối tượng và chi trả BHXH như khai tăng tuổi đời và thời gian công tác để hưởng BHXH, cắt giảm không kịp thời, đối tượng ký nhận thay, nhận hộ....; quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của từng cấp quản lý trong công tác quản lý đối tượng, kinh phí BHXH nên công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn đã đạt được nhiều thành công quan trọng. Lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng của các đối tượng được chi trả kịp thời, an toàn đầy đủ, góp phần ổn định tình hình chính trị, xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tổng hợp đối tượng và kinh phí chi trả các chế độ BHXH dài hạn được phản ảnh tại bảng 2.2 và bảng 2.3.
Bảng 2.2: Tổng hợp đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn
từ năm 2003 đến năm 2007
TT
Năm
Tổng số người
Trong đó chia ra
NSNN đảm bảo
Quỹ BHXH đảm bảo
1
2003
115.618
102.843
12.775
2
2004
117.395
101.552
15.843
3
2005
123.036
99.759
23.277
4
2006
126.752
97.888
28.864
5
2007
129.635
96.317
33.318
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [5]
Bảng 2.3: Tổng hợp kinh phí chi các chế độ BHXH dài hạn
từ năm 2003 đến năm 2007
ĐVT: Triệu đồng
TT
Năm
Tổng số
NSNNđảm bảo
Quỹ BHXH đảm bảo
1
2003
720.523
574.720
145.803
2
2004
791.008
592.930
198.078
3
2005
1.013.000
711.000
302.000
4
2006
1.255.780
903.600
352.180
5
2007
1.696.000
1.142.000
554.000
Cộng
5.476.311
3.924.250
1.552.061
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [5]
Bên cạnh những thành công đã đạt được, việc quản lý chi các chế độ BHXH dài hạn còn có những hạn chế, yếu kém, tập trung ở các nội dung sau:
Một là, công tác báo cáo cắt giảm thực hiện chưa tốt. Vẫn còn nhiều đơn vị để đối tượng hưởng quá thời hạn quy định mà không báo cáo giảm kịp thời, đối tượng đã chết nhưng thường để từ 01 đến 02 tháng mới báo cắt giảm. Đến 31/12/2007, toàn tỉnh vẫn còn 242 trường hợp đối tượng hưởng trợ cấp mất sức lao động quá thời hạn theo quy định. Số đối tượng này hiện nay tuổi đã cao (62-65 tuổi).
Hai là, công tác kiểm tra các Ban đại diện chi trả xã, phường còn chưa thường xuyên nên vẫn còn có tình trạng chậm trễ trong việc cấp phát chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho các đối tượng.
Ba là, công nghệ thông tin chưa được ứng dụng mạnh trong quản lý đối tượng hưởng chế độ BHXH có thời hạn, do vậy khâu kiểm soát rất khó khăn.
2.2.2. Thực trạng phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Thanh Hoá
2.2.2.1. Thực trạng phân cấp về thẩm quyền quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
* Về phân cấp thẩm quyền quản lý thu BHXH
Hiện nay, BHXH Thanh Hoá thực hiện phân cấp quản lý thu theo đối tượng tham gia BHXH và theo mức thu BHXH. Việc phân cấp này chưa thực hiện đối với cấp xã, phường.
BHXH tỉnh có thẩm quyền quản lý thu BHXH đối với các đơn vị hành chính, các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể của Trung ương hoặc do tỉnh quản lý. Các đơn vị đó gồm các sở, ban ngành, tổ chức, đoàn thể cấp tỉnh, các đơn vị thuộc ngành dọc do Trung ương quản lý; một số doanh nghiệp do tỉnh hoặc Trung ương quản lý; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số lao động lớn đóng trên địa bàn.
BHXH cấp huyện có thẩm quyền quản lý thu BHXH đối với các đơn vị, tổ chức khác ngoài các đơn vị, tổ chức đã được BHXH tỉnh quản lý. Những đơn vị, tổ chức sử dụng lao động đóng trên địa bàn huyện nào thì do BHXH huyện đó quản lý. Đối với các đơn vị sử dụng lao động có các đơn vị trực thuộc đóng trụ sở và hoạt động trên địa bàn nhiều huyện thì cơ quan BHXH cấp huyện nơi đơn vị đóng trụ sở chính thực hiện quản lý thu BHXH.
Ngoài những đơn vị, tổ chức có số lao động và mức thu lớn do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý thu BHXH, BHXH huyện có thẩm quyền quản lý thu BHXH đối với các đơn vị, tổ chức có số lao động và mức thu BHXH thấp hơn còn lại. Các tổ chức đó gồm các cơ quan hành chính sự nghiệp, tổ chức, đoàn thể do cấp huyện trực tiếp quản lý; các doanh nghiệp, đơn vị ngoài quốc doanh trên địa bàn; các xã, phường, thị trấn; các tổ hợp tác, cá nhân, hộ sản xuất kinh doanh cá thể.
Số liệu bảng 2.4 và bảng 2.5 cho thấy số lượng đơn vị, số lao động tham gia BHXH và số thu BHXH được phân cấp cho BHXH tỉnh và BHXH cấp huyện quản lý thu BHXH từ năm 2003 đến năm 2007.
Bảng 2.4: Phân cấp quản lý đơn vị và đối tượng tham gia BHXH ở Thanh Hoá từ năm 2003 đến năm 2007
TT
Năm
BHXH tỉnh quản lý
BHXH cấp huyện quản lý
Tổng số
Đơn vị
Lao động
Đơn vị
Lao động
Đơn vị
Lao động
(Người)
1
2003
184
37.908
3.124
90.489
3.308
128.397
2
2004
165
34.830
3.488
98.436
3.653
133.266
3
2005
189
34.793
3.836
102.934
4.025
137.727
4
2006
239
34.905
4.115
105.052
4.354
139.957
5
2007
242
35.434
4.692
111.736
4.934
147.170
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [2], [3]
Bảng 2.5: Tiền thu BHXH theo phân cấp quản lý thu BHXH từ năm 2003 đến năm 2007
ĐVT: Triệu đồng
TT
Năm
BHXH tỉnh
BHXH cấp huyện
Tổng số
1
2003
77.837,3
133.343,2
212.180,5
2
2004
63.264,3
154.999,6
218.263,9
3
2005
88.589
175.182
263.771
4
2006
130.579,1
229.373,3
359.952,4
5
2007
166.252
272.505
438.757
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [2], [3]
Các số liệu trên cho thấy số đơn vị, người lao động tham gia BHXH và số tiền thu BHXH liên tục tăng qua các năm. Trong đó, số đơn vị, người lao động và số tiền thu BHXH do BHXH tỉnh quản lý thu chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng số của toàn tỉnh.
ở BHXH tỉnh, năm 2007, số tiền thu BHXH chiếm 37,89 %, số lao động tham gia BHXH chiếm khoảng 24,07 % trong tổng số của cả tỉnh. Mỗi cán bộ chuyên quản thu của BHXH tỉnh bình quân quản lý 17,28 đơn vị với 2.531 lao động. Điều này cũng dễ hiểu bởi lẽ các doanh nghiệp do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý thu BHXH là những doanh nghiệp có số lao động lớn.
* Về phân cấp thẩm quyền quản lý chi BHXH.
Phân cấp về thẩm quyền quản lý chi BHXH ở Thanh Hoá được quy định như sau:
BHXH tỉnh quản lý việc chi trả, quyết toán các chế độ BHXH trên địa bàn tỉnh quản lý; trực tiếp chi trả và quyết toán chế độ BHXH ngắn hạn cho người lao động do BHXH tỉnh trực tiếp quản lý thu.
BHXH cấp huyện quản lý tổ chức chi trả và quyết toán chế độ ngắn hạn cho người lao động do BHXH cấp huyện trực tiếp quản lý thu; chi trả trợ cấp BHXH dài hạn cho các đối tượng hưởng BHXH trên địa bàn huyện.
Thực hiện quy định trên, thời gian qua, việc chi trả chế độ BHXH ngắn hạn và dài hạn trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã đạt được những kết quả nhất định.
Đối với chi trả chế độ BHXH ngắn hạn, hàng quý, căn cứ vào hồ sơ, chứng từ do các đơn vị sử dụng lao động lập theo quy định. BHXH tỉnh, huyện tiến hành thẩm định xét duyệt quyết toán chi chế độ BHXH ngắn hạn cho các đơn vị trực tiếp quản lý thu BHXH theo phân cấp quản lý.
Kết quả chi chế độ BHXH ngắn hạn theo phân cấp quản lý ở từng cấp được thể hiện trên bảng 2.6.
Bảng 2.6: Kết quả chi chế độ BHXH ngắn hạn theo phân cấp quản lý chi BHXH từ năm 2003 đến 2007
ĐVT: Triệu đồng
TT
Đơn vị
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
1
BHXH tỉnh
5.806
5.195
7.381
10.291
9.208
2
BHXH cấp huyện
17.532
18.254
21.216
33.848
33.232
Cộng
23.338
23.449
28.597
44.139
42.440
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hoá [5]
Chỉ tính riêng trong năm 2007, BHXH tỉnh đã thực hiện thanh toán, chi trả số tiền là: 9,208 tỷ đồng cho các đơn vị sử dụng lao động do BHXH tỉnh quản lý thu BHXH, đồng thời không chấp nhận thanh toán: 0,865 tỷ đồng.
BHXH cấp huyện đã thanh toán, chi trả 33,232 tỷ đồng cho các đơn vị sử dụng lao động do BHXH huyện quản lý thu BHXH.
Kết quả chi chế độ BHXH ngắn hạn trong năm 2007 được thể hiện ở bảng 2.7.
Bảng 2.7: Kết quả chi chế độ BHXH ngắn hạn theo phân cấp quản lý chi BHXH tại BHXH tỉnh, huyện năm 2007
TT
Năm 2007
Số tiền duyệt chi
(Triệu đồng)
Số tiền BHXH tỉnh không chấp nhận thanh toán (Triệu đồng)
BHXH tỉnh
BHXH huyện
1
Quý I
2.270
4.468
253
2
Quý II
869
7.499
108
3
Quý III
2.588
6.903
240
4
Quý IV
3.481
14.362
264
Cộng
9.208
33.232
865
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hoá [5]
Từ số liệu trên, có thể thấy nổi lên một số điểm khá lớn. Kinh phí chi chế độ BHXH ngắn hạn ở cấp huyện gấp 3,6 lần so với chi ở cấp tỉnh. Số tiền này tăng dần qua từng quý và qua các năm.
Số tiền không chấp nhận thanh toán cho các đơn vị sử dụng lao động còn chiếm tỷ lệ khá cao. Tỷ lệ đó ở cấp tỉnh là 9,4%.
Một số đơn vị BHXH cấp huyện còn thanh toán chế độ ốm đau quá số ngày quy định theo chế độ, hoặc tính toán sai, chứng từ chưa hợp lệ. Việc chi trả các chế độ BHXH chưa gắn với việc thu nộp BHXH. Có đơn vị BHXH cấp huyện còn thanh toán chế độ BHXH cho những đơn vị sử dụng lao động nộp chậm, nộp thiếu BHXH. Theo số liệu quyết toán năm 2007, BHXH tỉnh đã xuất toán 0,439 tỷ đồng trên tổng số 33,671 tỷ đồng (chiếm khoảng 1,3 %) mà BHXH cấp huyện đã xét duyệt thanh toán cho các đơn vị sử dụng lao động trực tiếp quản lý thu BHXH (xem phụ lục 3).
Đối với việc chi trả chế độ BHXH dài hạn, ở Thanh Hoá, việc chi trả chế độ BHXH dài hạn được thực hiện theo quy trình đã định. Hàng tháng, căn cứ vào số đối tượng đang hưởng và số đối tượng giảm (do hết thời hạn hưởng, do chết hoặc chuyển đi) của từng xã, phường. BHXH cấp huyện tiến hành lập biểu tổng hợp báo cáo giảm gửi BHXH tỉnh để lập dự toán kinh phí và lập danh sách chi trả cho từng đơn vị. Sau khi nhận được kinh phí (bằng uỷ nhiệm chi qua tài khoản Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT) và danh sách chi trả từ tỉnh, BHXH cấp huyện phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT cấp huyện để lập kế hoạch rút tiền mặt, phân công cán bộ chi trả trực tiếp hoặc cấp kinh phí và bàn giao danh sách chi trả cho các Ban đại diện chi trả xã, phường để tổ chức chi trả cho từng đối tượng. Sau khi cấp phát chi trả, BHXH cấp huyện tiến hành quyết toán với từng Ban đại diện chi trả xã, phường và tổng hợp báo cáo quyết toán về cấp tỉnh theo đúng quy định.
Thực hiện quy định trên, thời gian qua, BHXH tỉnh đã thực hiện tốt các quy định về phân cấp thẩm quyền quản lý chi BHXH. BHXH tỉnh đã cấp phát đầy đủ, kịp thời kinh phí và cung cấp danh sách chi trả cho 634 xã, phường của tỉnh Thanh Hoá có đối tượng đang hưởng chế độ BHXH dài hạn. BHXH cấp huyện đã phối hợp với hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT để lập kế hoạch tiền mặt chi trả cho đối tượng hưởng chế độ BHXH; phối hợp chặt chẽ với UBND các xã, phường trong việc ký kết hợp đồng chi trả với các Ban đại diện chi trả.... bảo đảm chi trả kịp thời, đầy đủ, an toàn chế độ BHXH dài hạn tới đối tượng được hưởng BHXH trên địa bàn (xem phụ lục 4).
Từ thực trạng phân cấp thẩm quyền quản lý thu, chi BHXH ở tỉnh Thanh Hoá, chúng ta có thể thấy có một số điểm cần quan tâm.
Thứ nhất, theo quy định phân cấp, việc quản lý thu BHXH của khối ngoài quốc doanh, cán bộ xã, phường, khối mầm non ngoài công lập, tổ hợp tác và hộ sản xuất kinh doanh cá thể được giao cho BHXH cấp huyện thực hiện. Đây là công việc khó khăn vì các đầu mối thu này không tập trung, thường xuyên biến động, trong khi đó nhiệm vụ giao cho BHXH cấp huyện khá nặng nề, biên chế còn ít, các điều kiện vật chất và công nghệ thông tin còn nhiều hạn chế. Vấn đề này sẽ càng khó khăn hơn khi năm 2008 cơ quan BHXH tiếp tục tổ chức quản lý thu BHXH của đối tượng tham gia BHXH tự nguyện theo Luật BHXH.
Thứ hai, việc phân cấp quản lý thu BHXH chưa gắn chặt với việc phân cấp thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động. Theo quy định hiện nay, BHXH huyện chỉ được giao thực hiện xét duyệt chế độ BHXH ngắn hạn cho người lao động do huyện trực tiếp quản lý thu. Các chế độ BHXH dài hạn, cấp sổ BHXH, thẻ đều do BHXH tỉnh thực hiện. Cơ chế này một mặt chưa tạo ra sự hợp lý trong việc thực hiện nguyên tắc có tham gia BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH. Mặt khác, nó chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sử dụng lao động khi thực hiện chế độ BHXH.
Thứ ba, việc quản lý xét duyệt thanh toán chế độ BHXH ngắn hạn cũng đã bộc lộ bất cập do các hoạt động nghiệp vụ chủ yếu là làm thủ công. Việc ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế. Việc phân cấp chi BHXH chưa phù hợp và gây không ít khó khăn cho những đơn vị ở khá xa trung tâm tỉnh lỵ khi giải quyết chế độ cho người lao động. Chẳng hạn, Công ty Đường Lam Sơn (Trụ sở chính đóng tại huyện Thọ Xuân, cách tỉnh lỵ 60 km), Công ty Xi măng Bỉm Sơn (Trụ sở chính đóng tại thị xã Bỉm Sơn, cách tỉnh lỵ 40 km, Công ty Xi măng Nghi Sơn (Trụ sở chính đóng tại huyện Tĩnh Gia, cách tỉnh lỵ 60 km, Công ty thuốc lá Thanh Hoá (Trụ sở chính đóng tại huyện Hà Trung, cách tỉnh lỵ 30 km).
Thứ tư, việc phân cấp quản lý chi chế độ BHXH dài hạn đã tạo điều kiện thuận lợi để các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH trên địa bàn toàn tỉnh được nhận tiền một cách nhanh chóng, đồng loạt. Trách nhiệm trong việc quản lý và chi trả các chế độ BHXH của từng cấp, từng đơn vị được quy định cụ thể rõ ràng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phân cấp quản lý chi BHXH dài hạn còn có ba hạn chế. Một là, lượng chi trả bằng tiền mặt quá lớn và chủ yếu lại giao cho Ban đại diện chi trả các xã, phường thực hiện, do vậy việc kiểm soát chi đúng đối tượng, kịp thời và đảm bảo an toàn là vấn đề rất khó khăn. Hai là, công tác lập dự toán chi BHXH còn thiếu chính xác, hiện tượng cắt giảm nhầm, cắt giảm hai lần, cắt giảm chậm vẫn còn, gây bức xúc cho đối tượng hưởng BHXH trên địa bàn; Ba là, một số đơn vị BHXH cấp huyện chưa phối hợp tốt với Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT cấp huyện trong việc lập kế hoạch tiền mặt. Điều đó đã dẫn đến việc không có đủ lượng tiền mặt để chi trả trong cùng một thời điểm và việc chi trả cho các đối tượng kéo dài.
2.2.2.2. Thực trạng phân cấp kiểm tra, kiểm soát thu, chi bảo hiểm xã hội
Thời gian qua, BHXH tỉnh Thanh Hoá đã thực hiện nghiêm túc các quy định của BHXH Việt Nam về phân cấp quản lý đối với công tác kiểm tra, kiểm soát và giải quyết khiếu nại tố cáo. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện thu, chi BHXH ở tỉnh Thanh Hóa đã đạt được một số kết quả nhất định. Hàng năm, BHXH tỉnh đều xây dựng kế hoạch kiểm tra. Từ năm 2003 đến năm 2007, BHXH tỉnh đã thực hiện 196 cuộc kiểm tra (có 8 cuộc kiểm tra liên ngành). Trong đó, có 44 cuộc kiểm tra tại BHXH cấp huyện; 31 cuộc kiểm tra tại các xã, phường; 89 cuộc kiểm tra tại các đơn vị sử dụng lao động; 32 cuộc kiểm tra tại các cơ sở khám chữa bệnh.
Có thể thấy rằng, hoạt động kiểm tra, kiểm soát thu, chi BHXH thời gian qua đã góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật BHXH của chủ sử dụng lao động, đồng thời giúp cơ quan BHXH nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, thẩm quyền kiểm tra, kiểm soát của ngành BHXH còn hạn chế. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát chưa được phân cấp cho cấp huyện. Điều đó dẫn tới một số hạn chế trong kiểm tra, kiểm soát thu, chi BHXH ở cấp tỉnh và cấp huyện. Các cuộc kiểm tra còn ít, nhất là các cuộc kiểm tra liên ngành. Việc xử phạt hành chính các hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân, đơn vị theo quy định chưa được thực hiện, do vậy một số vi phạm của đơn vị sử dụng lao động như: khai báo số lao động tham gia BHXH và quỹ lương đóng BHXH thấp so với thực tế, nộp chậm BHXH, nợ đọng BHXH, thanh toán chế độ ngắn hạn chưa đúng quy định....; vi phạm của các Ban đại diện chi trả xã, phường như cắt giảm không kịp thời.... chưa được xử lý dứt điểm và nghiêm minh.
Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về thu, chi BHXH cũng được các đơn vị thực hiện kịp thời, đúng quy định, không có đơn thư tồn đọng. Từ năm 2003 đến năm 2007, toàn ngành BHXH Thanh Hoá đã giải quyết 423 đơn thư khiếu nại, tố cáo của đối tượng. Trong đó, số đơn thư khiếu nại chiếm tỷ trọng khá lớn, gần 80% so với tổng số. Thực tế, việc giải quyết đơn thư khiếu nại chủ yếu là ở cấp tỉnh. Hàng năm BHXH cấp huyện chỉ giải quyết 01 đến 02 đơn. Nội dung đơn thư khiếu nại chủ yếu là của đối tượng bị cắt trợ cấp mất sức lao động theo quy định. Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về BHXH ở Thanh Hoá như sau (xem bảng 2.8.)
Bảng 2.8: Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về BHXH từ năm 2003 đến năm 2007
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Đơn khiếu nại
64
141
64
43
27
Đơn tố cáo
27
26
18
04
09
Cộng
91
167
82
47
36
Nguồn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa [6]
2.2.2.3. Thực trạng phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ bảo hiểm xã hội
Việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ BHXH ở Thanh Hoá được thực hiện như sau:
Giám đốc BHXH tỉnh trực tiếp phụ trách công tác tổ chức cán bộ của toàn ngành, điều đó có nghĩa là Giám đốc BHXH tỉnh quản lý công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, điều động, thuyên chuyển và các chính sách chế độ cho cán bộ, công chức. Giám đốc BHXH tỉnh cũng trực tiếp quản lý đội ngũ kế toán trưởng BHXH cấp huyện và cán bộ quản lý từ cấp phó trưởng phòng của BHXH tỉnh, Phó giám đốc BHXH cấp huyện trở lên.
Giám đốc BHXH tỉnh uỷ quyền cho các trưởng phòng chức năng thuộc BHXH tỉnh được quản lý cán bộ, công chức; phân công phân nhiệm cho các phó trưởng phòng và bố trí thực hiện nhiệm vụ chuyên môn cho từng cán bộ, công chức trong phòng. Giám đốc BHXH tỉnh cũng uỷ quyền cho Giám đốc BHXH cấp huyện quản lý cán bộ, công chức; phân công, phân nhiệm cho các phó giám đốc và bố trí cán bộ phù hợp để thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn theo từng lĩnh vực: quản lý thu, quản lý chi, chế độ chính sách, giám định y tế, hồ sơ lưu trữ, thủ quỹ,... theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổng số biên chế được giao.
Giám đốc BHXH cấp huyện được phân cấp trực tiếp quản lý ngày công, kỷ luật lao động của cán bộ, công chức trong đơn vị; đánh giá, xếp loại công tác hàng quý, hàng năm đối với các đối tượng cán bộ công chức còn lại.
Việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ còn được thực hiện trong việc phân bổ biên chế cán bộ BHXH ở cấp tỉnh và cấp huyện. Hàng năm, căn cứ vào chỉ tiêu biên chế được giao, căn cứ vào mức độ thu, chi BHXH, căn cứ vào địa hình, địa bàn,....BHXH tỉnh tiến hành phân bổ biên chế cho BHXH cấp huyện và các phòng chức năng thuộc văn phòng BHXH tỉnh.
Có thể nói, trong thời gian qua, việc phân cấp quản lý bộ máy tổ chức và cán bộ BHXH ở Thanh Hoá đã giúp các đơn vị chủ động trong việc bố trí cán bộ, xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể thuộc tổ chức trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ; góp phần xây dựng được một hệ thống cán bộ quản lý, công chức, viên chức ở các cấp từ tỉnh đến huyện với cơ cấu và trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quả