Theo quy định của Bộluật hình sựViệt Nam thì mua bán phụnữ, trẻ
em được xác định là những tội phạm nghiêm trọng xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Do vậy, hình phạt đối với các tội
phạm này được quy định rất nghiêm khắc (phạt tù đến 7 năm đối với tội mua
bán phụnữvà phạt tù đến 10 năm đối với tội mua bán trẻem); phạm tội trong
các trường hợp có tình tiết tăng nặng như: có tổchức, có tính chất chuyên
nghiệp, mua bán phụnữ, trẻem vì mục đích mại dâm, để đưa ra nước ngoài
hoặc mua bán trẻem đểsửdụng vào mục đích vô nhân đạo. thì hình phạt có
thểlên đến 20 năm tù (đối với tội mua bán phụnữ) và 20 năm tù hoặc tù
chung thân (đối với tội mua bán trẻem)
111 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3182 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n sớm hơn. Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: "Trẻ em quy định trong Luật này là công
dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi" [39]. Như vậy, giữa pháp luật Việt Nam và
pháp luật quốc tế còn có những điểm chưa thống nhất về việc xác định độ tuổi
đối với người được coi là trẻ em. Nếu quy định về độ tuổi trẻ em trong Luật
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vẫn giữ nguyên là người dưới 16 tuổi thì
nên xem xét, bổ sung vào Bộ luật hình sự tội danh "buôn bán người chưa
thành niên" để không bỏ lọt tội phạm.
Khoản 1 Điều 54 Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định:
"Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm phát hiện, giải quyết kịp thời tình
trạng trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại;
tạo điều kiện cho trẻ em đi học nghề, làm công việc phù hợp với sức khỏe, lứa
tuổi trong phạm vi địa phương" [39]. Việc qui định trách nhiệm của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh (thành phố) và Ủy ban nhân dân cấp huyện (quận, thị xã)
đối với trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại
và trẻ em làm việc xã gia đình là hết sức cần thiết, bởi vì Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh và cấp huyện có đủ khả năng và điều kiện để đảm bảo thực hiện qui định
này. Tuy nhiên, việc áp qui định này đối với Ủy ban nhân dân cấp xã là chưa
50
thực sự phù hợp, nhất là đối với những xã ở vùng sâu, vùng xa. bởi vì, ở hầu
hết cấp xã, việc huy động "nhân tài, vật lực" cho công tác bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em là rất khó khăn.
Tóm lại, trước những diễn biến hết sức phức tạp, nghiêm trọng và có
chiều hướng gia tăng của tệ nạn mua bán phụ nữ, trẻ em thì hệ thống các quy
định về bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em đã bộc lộ một số bất cập, thiếu sót. Dẫn
đến một thực trạng là quyền của phụ nữ, trẻ em đã và đang bị xâm hại và một
bộ phận phụ nữ, trẻ em đang có nguy cơ trở thành nạn nhân của bọn buôn người.
2.2.2. Thực trạng các qui định của pháp luật về phòng, chống mua
bán phụ nữ, trẻ em
Nhà nước Việt Nam coi hành vi mua bán người là hành vi phạm pháp
luật, vi phạm nhân quyền và chà đạp lên nhân phẩm của con người, gây tác
hại nghiêm trọng và lâu dài đến sức khỏe, tâm hồn, thể xác của nạn nhân cũng
như ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn và an ninh xã hội. Đây là loại tội
phạm nguy hiểm, do vậy việc đấu tranh, ngăn chặn tội phạm này cần có
những nỗ lực và giải pháp đồng bộ, toàn diện cả về phương diện quốc gia và
quốc tế. Bên cạnh việc xây dựng khung pháp luật nhằm bảo vệ quyền con
người, trong đó có quyền của phụ nữ và trẻ em, thì Nhà nước ta còn ban hành
các văn bản pháp luật nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho việc xử lý mọi hành vi vi
phạm quyền của phụ nữ và trẻ em, hình sự hóa hành vi mua bán phụ nữ, trẻ
em và đưa người di cư trái phép. Tuy Việt Nam chưa có luật riêng về chống
buôn bán phụ nữ và trẻ em và chống đưa lậu người nhập cư nhưng nhiều văn
bản đã có các quy định về vấn đề này như Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính, Pháp lệnh phòng chống mại dâm, Pháp lệnh xuất cảnh, nhập cảnh, Bộ
luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự và các văn bản có liên quan dưới giác độ
phòng ngừa, ngăn chặn, trừng trị tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em và về bảo
vệ nạn nhân, giúp đỡ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng.
51
2.2.2.1. Chế tài dân sự liên quan đến hành vi mua bán người và các
hành vi khác có liên quan
Pháp luật Việt Nam không có quy định riêng về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại liên quan đến hành vi mua bán người và các hành vi khác có
liên quan như: mại dâm, lao động cưỡng bức, xuất cảnh, nhập cảnh trái phép,
tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài... mà nguyên tắc chung về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại chương XXI của Bộ luật
dân sự năm 2005 - trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo đó,
người nào có lỗi trong việc xâm phạm đến tính mạng, sức kháe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người khác
mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường (Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005).
Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 42) cũng quy định người phạm tội
phải bồi thường thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần đã được xác định là do
hành vi phạm tội gây ra. Để bảo đảm thực hiện quy định này, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 có quy định về việc kê biên tài sản (Điều 146), theo đó việc
kê biên tài sản được áp dụng trong trường hợp bị can, bị cáo phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trên tinh thần đó, bất cứ người nào có hành vi mua bán người hoặc có
các hành vi vi phạm khác có liên quan như: mại dâm, cưỡng bức lao động,
xuất cảnh, nhập cảnh trái phép, tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước
ngoài... mà gây thiệt hại cho nạn nhân, thì ngoài việc bị xử phạt hành chính
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho người bị hại.
2.2.2.2. Chế tài hành chính liên quan đến hành vi mua bán người
và các hành vi vi phạm khác có liên quan
Chế tài hành chính đối với hành vi buôn bán người và các hành vi vi
phạm khác có liên quan được quy định trong các điều khoản về hành vi vi
phạm và mức xử phạt cụ thể.
52
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì hành vi mua bán người và
các hành vi vi phạm khác có liên quan như: mại dâm, lao động cưỡng bức,
xuất cảnh, nhập cảnh trái phép, tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước
ngoài..., nếu chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử phạt
hành chính. Việc quy định hành vi vi phạm hành chính và hình thức xử phạt
đối với từng hành vi vi phạm hành chính cụ thể thuộc thẩm quyền của Chính
phủ (Điều 2 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002). Trong những
năm qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều nghị định quy định về việc
xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực cụ thể sau:
Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15/10/2004 của Chính phủ quy
định hình phạt tiền được áp dụng đối với người có hành vi mua dâm, bán
dâm, lợi dụng uy tín, đe dọa dùng vũ lực, dùng vũ lực, lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm, môi giới mại dâm nhưng
không thường xuyên mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội,
có quy định tại Điều 22 về việc xử phạt hành chính (phạt tiền) đối với hành vi
vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi lại mà
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự như: hành vi giúp đỡ, chứa chấp,
che giấu, tạo điều kiện cho người khác trốn đi nước ngoài, ở lại nước ngoài
hoặc qua lại biên giới trái phép; giả mạo hồ sơ, giấy tờ để được cấp hộ chiếu
hoặc các loại giấy tờ khác có giá trị thay thị thực xuất cảnh, nhập cảnh, quá
cảnh, chứng nhận tạm trú, giấy chứng nhận thường trú; làm giả hộ chiếu, thị
thực, chứng nhận tạm trú, giấy chứng nhận thường trú, dấu kiểm chứng; sử
dụng hộ chiếu, thị thực, chứng nhận tạm trú, chứng nhận thường trú, dấu kiểm
chứng hoặc các giấy tờ khác để xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
Nghị định số 113/2004/NĐ-CP ngày 16/4/2004 quy định về việc xử
phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật lao động,
trong đó có quy định về việc phạt hành chính (phạt tiền) đối với hành vi vi
53
phạm các quy định về việc sử dụng người lao động chưa thành niên, lao động
nữ làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc
hại; hành vi ngược đãi, cưỡng bức lao động; phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc
phạm danh dự và nhân phẩm lao động nữ (Điều 15); vi phạm các quy định
của pháp luật về việc đưa người lao động Việt Nam đi nước ngoài làm việc
(Điều 16), nhận người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam (Điều 17)...
Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 qui định về
việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, trong
đó có qui định về việc phạt hành chính (phạt tiền) đối với hành vi cưỡng ép
kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Điều 7); vi phạm các
qui định về đăng ký kết hôn (Điều 9); hành vi vi phạm các qui định về nuôi
con nuôi (Điều 14)
Chế tài hành chính đối với hành vi mua bán người và các hành vi vi
phạm khác có liên quan còn được thể hiện ở chính sách xử lý nghiêm khắc
đối với hành vi vi phạm trong những trường hợp có tình tiết tăng nặng. Theo
quy định tại Điều 9 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 về các
tình tiết tăng nặng, thì những trường hợp vi phạm hành chính nói chung và vi
phạm liên quan đến việc mua bán người, cưỡng bức lao động, mại dâm, xuất
cảnh, nhập cảnh nói riêng sau đây, được coi là tình tiết tăng nặng: xúi giục, lôi
kéo người chưa thành niên vi phạm, ép buộc người bị lệ thuộc vào mình về
vật chất, tinh thần vi phạm; vi phạm có tổ chức; vi phạm nhiều lần trong cùng
lĩnh vực hoặc tái phạm trong cùng lĩnh vực; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
vi phạm; tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm
quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó...
2.2.2.3. Chế tài hình sự đối với tội mua bán người và các tội phạm
khác có liên quan
Bộ luật hình sự năm 1999 có hai điều luật quy định về hai tội phạm
trực tiếp liên quan đến việc mua bán người, đó là: tội mua bán phụ nữ (Điều 119)
và tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120).
54
Theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam thì mua bán phụ nữ, trẻ
em được xác định là những tội phạm nghiêm trọng xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Do vậy, hình phạt đối với các tội
phạm này được quy định rất nghiêm khắc (phạt tù đến 7 năm đối với tội mua
bán phụ nữ và phạt tù đến 10 năm đối với tội mua bán trẻ em); phạm tội trong
các trường hợp có tình tiết tăng nặng như: có tổ chức, có tính chất chuyên
nghiệp, mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm, để đưa ra nước ngoài
hoặc mua bán trẻ em để sử dụng vào mục đích vô nhân đạo... thì hình phạt có
thể lên đến 20 năm tù (đối với tội mua bán phụ nữ) và 20 năm tù hoặc tù
chung thân (đối với tội mua bán trẻ em).
Ngoài việc bị phạt tù, người phạm các tội mua bán phụ nữ, mua bán trẻ
em còn có thể bị phạt tiền bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Bên cạnh việc quy định các tội phạm mua bán người, Bộ luật hình sự
Việt Nam cũng có các điều luật quy định về các tội phạm khác có liên quan
như: mại dâm; lao động cưỡng bức; tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi
nước ngoài...
Thứ nhất, để bảo đảm thực hiện các quyền của công dân trong lĩnh
vực lao động, Bộ luật hình sự có hai điều luật quy định về tội vi phạm quy
định về an toàn lao động, vệ sinh lao động (Điều 227) và tội vi phạm quy định
về sử dụng lao động trẻ em (Điều 228) nhằm góp phần bảo đảm an toàn, vệ
sinh trong lao động, ngăn chặn việc sử dụng trẻ em làm những công việc nặng
nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại. Đặc biệt, Bộ luật hình sự
quy định xử phạt nặng (có thể đến 7 năm tù) đối với trường hợp sử dụng
nhiều lần hoặc sử dụng nhiều trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy
hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại. Ngoài việc bị phạt tự thì người phạm
tội còn có thể bị phạt tiền bổ sung đến 50.000.000 đồng (đối với tội vi phạm
quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động) hoặc 20.000.000 đồng (đối
với tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em).
55
Thứ hai, để ngăn chặn tệ nạn mại dâm, Bộ luật hình sự có ba điều luật
quy định về các tội phạm liên quan đến lĩnh vực này, đó là: tội chứa mại dâm
(Điều 254), tội môi giới mại dâm (Điều 255) và tội mua dâm người chưa
thành niên (Điều 256). Đây là những tội phạm nghiêm trọng với mức hình
phạt có thể đến 5 hoặc 7 năm tù. Phạm tội trong những trường hợp có tình tiết
tăng nặng như: có tổ chức, cưỡng bức mại dâm, phạm tội nhiều lần, phạm tội
đối với nhiều người, phạm tội đối với trẻ em hoặc người chưa thành niên, gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng... thì hình phạt có thể lên đến 15 năm tù (đối
với tội mua dâm người chưa thành niên), 20 năm tù (đối với tội môi giới mại
dâm) và 20 năm hoặc tù chung thân (đối với tội chứa mại dâm). Ngoài ra,
người phạm các tội nói trên còn có thể bị phạt tiền bổ sung đến 10.000.000
đồng (đối với tội môi giới mại dâm), 10.000.000 đồng (đối với tội mua dâm
người chưa thành niên). Riêng đối với tội chứa mại dâm thì người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền đến 100.000.000 đồng, bị tịch thu một phần hoặc toàn
bộ tài sản.
Thứ ba, Bộ luật hình sự quy định tại Điều 275 về tội tổ chức, cưỡng
ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép. Đây là tội
phạm hết sức nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý hành chính của Nhà
nước về xuất cảnh, nhập cảnh. Bộ luật quy định hình phạt đối với tội này có
thể đến 7 năm tù; trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì hình phạt
có thể lên đến 20 năm tù.
Cùng với việc quy định tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước
ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, Bộ luật hình sự còn quy định tội sửa
chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 266),
tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 267) và tội giả mạo
trong công tác (Điều 284), theo đó, hành vi sửa chữa, làm sai lệch nội dung hộ
chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác
của cơ quan, tổ chức và sử dụng các giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp
56
luật cũng như hành vi làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan,
tổ chức hoặc sử dụng con dấu, giấy tờ, tài liệu đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ
chức hoặc công dân thì bị phạt tù đến 3 năm; phạm tội trong trường hợp có tổ
chức, phạm tội nhiều lần,... thì có thể bị phạt tù đến 5 năm; riêng trường hợp
phạm tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức mà gây hậu quả rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị phạt tù đến 7 năm. Đối
với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện việc sửa chữa, làm sai lệch
nội dung giấy tờ, tài liệu; làm hoặc cấp giấy tờ giả; giả mạo chữ ký của người
có chức vụ, quyền hạn thì bị phạt tù đến 5 năm; trường hợp phạm tội có tình
tiết tăng nặng như: tổ chức, phạm tội nhiều lần, gây hậu quả nghiêm trọng...
thì có thể bị phạt tù đến 10 năm; nếu gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì có
thể bị phạt tù đến 20 năm. Ngoài ra, người phạm các tội này còn có thể bị
phạt tiền bổ sung.
Chính sách xử lý về hình sự đối với các tội phạm nói chung, trong đó
có các tội mua bán người và các tội phạm khác có liên quan được thể hiện rõ
tại Điều 3 Bộ luật hình sự, theo đó pháp luật nghiêm trị người chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
phạm tội có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm
trọng... Bộ luật hình sự cũng xác định người tổ chức, người thực hành, người
xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm và mỗi người phải
chịu trách nhiệm hình sự tùy theo tính chất và mức độ tham gia của mình vào
việc thực hiện tội phạm (Điều 20 và 53 Bộ luật hình sự).
Ngoài các tình tiết tăng nặng định khung được quy định trong các điều
luật về từng tội phạm cụ thể, Bộ luật hình sự còn quy định tại Điều 48 các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với những trường hợp phạm tội nói
chung và phạm các tội liên quan đến mua bán người, cưỡng bức lao động, mại
dâm, xuất cảnh, nhập cảnh nói riêng, như: phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có
thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với
57
người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;
xúi giục người chưa thành niên phạm tội; phạm tội có tổ chức; phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; phạm tội
có tính chất côn đồ; phạm tội vì động cơ đê hèn; cố tình thực hiện tội phạm
đến cùng; phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm...
Đối chiếu với các quy định về hình sự hóa của Nghị định thư về việc
ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ
và trẻ em (Điều 5) và của Nghị định thư về chống đưa người di cư trái phép
bằng đường bộ, đường biển và đường không (Điều 6) thì 3 nhóm hành vi
được nêu trong hai nghị định thư (mua, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp,
nhận người nhằm bóc lột; đưa người di cư trái phép; làm giả giấy tờ đi lại
hoặc giấy tờ tùy thân, mua, cung cấp hoặc sở hữu giấy tờ như vậy nhằm tạo
điều kiện cho việc đưa người di cư trái phép hoặc giúp một người ở lại một
quốc gia trái phép) đã được Bộ luật hình sự Việt Nam hình sự hóa dưới dạng
các tội phạm khác nhau (các điều 119, 120, 227, 228, 254, 255, 256, 266, 267,
275 và 284 Bộ luật hình sự) với mức hình phạt nghiêm khắc. Đặc biệt, Bộ luật
hình sự Việt Nam coi tội mua bán phụ nữ, trẻ em là những tội phạm rất
nghiêm trọng xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người thể hiện ở mức hình phạt quy định đối với các tội phạm này rất nghiêm
khắc, có thể lên đến 20 năm tù; thậm chí đối với tội mua bán trẻ em có thể bị
phạt tù chung thân. Ngoài ra, pháp luật xử lý về hình sự không chỉ đối với
người thực hành tội phạm (người trực tiếp thực hiện các hành vi phạm tội cụ
thể) mà cả đối với người tổ chức, chỉ huy, cầm đầu, người giúp sức, người xúi
giục tùy theo tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng
phạm (Điều 3 và Điều 53 Bộ luật hình sự).
2.2.2.4. Các qui định về thẩm quyền điều tra tội phạm liên quan đến
hoạt động mua bán phụ nữ, trẻ em
Điều 5 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
58
Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội
thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Việt Nam. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng
các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh
sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc
theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được
giải quyết bằng con đường ngoại giao [35].
Như vậy, nói chung cơ quan điều tra của Việt Nam có toàn quyền
trong việc xử lý các tội phạm nói chung, trong đó có các tội phạm liên quan
đến mua bán người, mại dâm, xuất nhập cảnh trái phép, tổ chức, cưỡng ép
người khác trốn đi nước ngoài... xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc do công
dân Việt Nam thực hiện, trừ một số ngoại lệ.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định tại Điều 110 về thẩm
quyền điều tra các vụ án hình sự, theo đó, Cơ quan điều tra trong Công an
nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Theo Điều 8 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 thì Cơ quan
Cảnh sát điều tra có thẩm quyền điều tra tất cả các tội phạm liên quan đến
hành vi mua bán người (các điều 119 và 120 của Chương XII Bộ luật hình sự
năm 1999); vi phạm về an toàn lao động, vệ sinh lao động, sử dụng lao động
trẻ em (các điều 227 và 228 của Chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999); mại
dâm (các điều 254, 255 và 256 của Chương XIX Bộ luật hình sự năm 1999);
tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài (Điều 275 của Chương XX
Bộ luật hình sự năm 1999); tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài
liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 266 của Chương XX Bộ luật hình sự năm
59
1999) và tội giả mạo trong công tác (Điều 284 của Chương XXI Bộ luật hình
sự năm 1999). Trong trường hợp hành vi phạm tội nêu trên do quân nhân thực
hiện hoặc gây thiệt hại cho lợi ích của quân đội thì Cơ quan điều tra trong
quân đội có thẩm quyền điều tra.
2.2.2.5. Các quy định về tạm giữ tài sản và các khoản thu lời bất
chính từ hoạt động phạm tội
Điều 12 và Điều 17 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002
quy định một trong những hình thức xử phạt bổ sung đối với người vi phạm
hành chính là tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính, tức là sung vào quỹ nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện có liên
quan trực tiếp đến vi phạm hành chính. Để bảo đảm thực hiện quy định này,
Điều 46 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định việc tạm giữ tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính chỉ được áp dụng trong trường hợp cần để
xác minh tình tiết làm căn cứ quyết định xử lý hoặc ngăn chặn ngay hành vi vi
phạm hành chính. Người ra quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính có trách nhiệm bảo quản tang vật, phương tiện đó; nếu để mất
mát, hư hỏng, bị mất hoặc bán thì phải bồi thường. Trường hợp cần thiết phải
niêm phong thì tiến hành ngay trước mặt người vi phạm; nếu người vi phạm
vắng mặt thì phải tiến hành niêm phong trước mặt đại diện gia đình, đại diện
tổ chức, đại diện chính quyền và người chứng kiến.
Khoản 3 Điều 19 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15/10/2004 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm
quy định: Người có hành vi góp vốn để sử dụng vào mục đích mại dâm thì
ngoài việc bị xử phạt như quy định tại khoản 1 của điều này còn bị tịch thu
vốn đã góp để sử dụng vào mục đích mại dâm. Điều 24 Nghị định số
150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự còn quy định người có hành vi mại dâm
quy định tại điều này thì bị tịch thu toàn bộ tiền do vi phạm mà có.
60
Bộ luật hình sự năm 1999 (điểm b khoản 1 Điều 41) quy định việc tịch
thu, sung quỹ nhà nước được áp dụng đối với công cụ, phương tiện dùng vào
việc phạm tội; vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ
ấy mà có; vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành. Để bảo đảm thực hiện quy
định này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 145) quy định về việc tạm
giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét, theo đó khi khám xét, điều tra viên được tạm
giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án; đối với
loại đồ vật thuộc loại cấm tàng trữ, lưu hành thì thu giữ và chuyển ngay cho
cơ quan quản lý có thẩm quyền. Trường hợp cần thiết phải niêm phong thì
tiến hành trước mặt chủ đồ vật hoặc đại diện gia đình, đại diện chính quyền và
người chứng kiến.
Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (các điều 28 và 40)
thì một trong những hình phạt bổ sung có thể được áp dụng đối với người
phạm tội là tịch thu tài sản. Để bảo đảm thi hành hình phạt này, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 quy định về việc kê biên tài sản (Điều 146), theo đó
việc kê biên tài sản được áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình
sự quy định có thể tịch thu tài sản và chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với
mức có thể bị tịch thu.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về vấn đề tạm giữ
tài sản được dựng làm công cụ, phương tiện vi phạm cũng như tiền hoặc các
khoản thu lợi khác do vi phạm pháp luật mà có đều có các điều khoản quy
định chặt chẽ, cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành tạm giữ.
2.2.2.6. Các quy định về bảo vệ nhân chứng và các nạn nhân bị
mua bán
- Các quy định về bảo vệ nhân chứng trong quá trình tố tụng:
Pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam quy định trách nhiệm của cơ
quan tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết theo quy định
61
của pháp luật để bảo vệ người làm chứng cũng như người thân của họ khi
những người này bị đe doạn đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự,
nhân phẩm, tài sản (Điều 7 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) (phần này luận
văn trích dẫn các điều, khoản của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, nên chỉ
trích rõ điều luật, không viện dẫn Bộ luật). Điều 55 cũng quy định quyền của
người làm chứng được yêu cầu cơ quan đó triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của họ khi
tham gia tố tụng. Tại phiên tòa, trong trường hợp cần thiết phải bảo đảm an toàn
cho người làm chứng và những người thân thích của họ, Hội đồng xét xử phải
quyết định thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật (Điều 211).
Có thể nói rằng, việc quy định về trách nhiệm bảo vệ người làm chứng
của các cơ quan tiến hành tố tụng và quyền của người làm chứng được yêu
cầu bảo vệ trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là một điểm tiến bộ của
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, những quy định trên mới chỉ
dừng ở mức nguyên tắc, do vậy chỉ có thể được thực hiện khi có văn bản
hướng dẫn, quy định chi tiết về đối tượng được bảo vệ (trong đó cần giải thích
khái niệm người thân của người làm chứng), các biện pháp bảo vệ (thay đổi
tên tuổi, nhận dạng, chỗ ở, các thủ tục thu thập chứng cứ đặc biệt như lấy lời
khai thông qua kết nối video v.v...), thủ tục yêu cầu bảo vệ, kinh phí thực hiện
những quy định này, đồng thời, bản thân những quy định trên cũng còn có
mâu thuẫn, chưa hợp lý. Cụ thể là theo quy định của Điều 7 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 thì đối tượng được bảo vệ bao gồm không
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện pháp luật phòng, chống mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay.pdf