MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ CHÍNH QUYỀN CẤP CƠ SỞ 7
1.1 Vị trí, vai trò của chính quyền cơ sở và đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 7
1.2 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cơ sở 20
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ CHÍNH QUYỀN CẤP CƠ SỞ 33
2.1 Khái lược sự hình thành và phát triển của pháp luật về chính quyền cơ sở và cán bộ chính quyền cơ sở ở nước ta qua các thời kỳ lịch sử 33
2.2 Thực trạng pháp luật về cán bộ chính quyền cơ sở ở nước ta hiện nay và sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cơ sở 55
Chương 3: QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ CHÍNH QUYỀN CẤP CƠ SỞ 89
3.1 Quan điểm chỉ đạo 89
3.2 Phương hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cơ sở 94
KẾT LUẬN 120
CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN 124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 125
PHỤ LỤC 129
128 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1704 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cấp cơ sở theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h, Phó chủ tịch và các đại biểu HĐND. Trong đó Chủ tịch phải là đại biểu do HĐND cấp xã bầu ra. Theo cơ cấu, Chủ tịch HĐND do Bí thư hoặc phó Bí thư Đảng ủy kiêm nhiệm, Phó chủ tịch hoạt động chuyên trách, làm nhiệm vụ thường trực HĐND. Trong quá trình hoạt động của mình HĐND xã đã sử dụng UBND xã và bộ máy của nó để giúp việc cho HĐND trong việc chuẩn bị nội dung và Nghị quyết của kỳ họp, cũng như triển khai Nghị quyết sau kỳ họp. Đại biểu HĐND ở mỗi xã bình quân có từ 20 - 25 đại biểu. Nhiệm kỳ 1999-2004 cả nước có 226.627 đại biểu. Tỷ lệ cơ cấu đại biểu nữ chiếm 16,6% (37.673); dân tộc 18,8% (42.650); ngoài Đảng 31,75% (71.963); dưới 35 tuổi 22% (49.937).
Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, việc cơ cấu Bí thư hoặc Phó bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch HĐND đã gắn chặt vai trò lãnh đạo của Đảng với vai trò cơ quan quyền lực có chức năng giám sát của HĐND là một điều kiện để HĐND hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên trong thực tế cũng có một số trường hợp Bí thư Đảng ủy kiêm nhiệm đã không dành thời gian thích đáng cho việc lãnh đạo HĐND làm ảnh hưởng đến mọi mặt hoạt động của HĐND. Một số địa phương bố trí cán bộ chủ chốt cho HĐND không đủ khả năng, không đúng tầm hoặc kiêm nhiệm một số việc không hợp lý thuộc về nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước như: Phó chủ tịch kiêm Trưởng ban xóa đói giảm nghèo hoặc kiêm Trưởng ban tài chính hợp tác xã. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của HĐND.
Thứ hai, về hoạt động của HĐND: hoạt động của HĐND cấp xã được thể hiện qua 3 hình thức: hoạt động của tập thể HĐND - kỳ họp HĐND (thường kỳ hoặc bất thường); hoạt động của Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND cấp xã; hoạt động của các đại biểu HĐND cấp xã.
Đánh giá hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã có tốt hay không, cần phải dựa trên cơ sở sự kết hợp nhuần nhuyễn ba hình thức hoạt động trên.
- Kỳ họp của HĐND cấp xã: kỳ họp HĐND là hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND.
HĐND cấp xã họp thường lệ mỗi năm hai kỳ. Trong trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của UBND hoặc có ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND yêu cầu thì Chủ tịch HĐND quyết định triệu tập kỳ họp bất thường.
Kỳ họp HĐND được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu tham dự. HĐND họp công khai, khi cần thiết, HĐND quyết định họp kín theo đề nghị của chủ tọa kỳ họp hoặc Chủ tịch UBND. Trong trường hợp không thể triệu tập kỳ họp của HĐND đúng kỳ hạn theo quy định của pháp luật, Chủ tịch HĐND cấp xã báo cáo để thường trực HĐND cấp trên trực tiếp xem xét và chuẩn y.
Kỳ họp của HĐND cấp xã là hình thức hoạt động rất quan trọng của HĐND vì, thông qua kỳ họp, nhân dân địa phương thực hiện ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của mình. Do đó, việc tiến hành kỳ họp HĐND cần phải được tiến hành đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
- Hoạt động của Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND cấp xã: Chủ tịch HĐND cấp xã có trách nhiệm:
+ Phối hợp với UBND cùng cấp chuẩn bị dự kiến chương trình làm việc, báo cáo đề án trình HĐND, triệu tập kỳ họp HĐND; quyết định và thông báo việc triệu tập kỳ họp HĐND, gửi giấy triệu tập và các tài liệu chính của kỳ họp cho đại biểu HĐND; công bố dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp cho nhân dân biết; tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri để báo cáo tại kỳ họp; bảo đảm việc chuẩn bị dự thảo Nghị quyết HĐND;
+ Chủ tọa kỳ họp HĐND: điều khiển các phiên họp HĐND; bảo đảm thảo luận dân chủ; lấy biểu quyết khi xét thấy cần thiết; đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của HĐND; yêu cầu UBND và các cơ quan nhà nước khác ở địa phương báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết của HĐND và thi hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo thực hiện nghị quyết của HĐND; tổ chức kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của HĐND; khi phát hiện sai phạm trong việc thực hiện nghị quyết của HĐND; Chủ tịch HĐND có quyền yêu cầu các cơ quan hoặc người sai phạm kịp thời khắc phục sai phạm đó. Trong trường hợp cần thiết, HĐND có thể trình kỳ họp gần nhất của HĐND hoặc triệu tập kỳ họp bất thường để HĐND xem xét, quyết định; phối hợp với UBND giải quyết những vấn đề nảy sinh khi thực hiện nghị quyết của HĐND giữa hai kỳ họp HĐND; điều chỉnh, bổ sung những biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện nghị quyết của HĐND theo đề nghị của UBND và báo cáo để HĐND xem xét tại kỳ họp gần nhất.
+ Tổ chức tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân: tổ chức việc tiếp dân của HĐND, tiếp nhận đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; giúp HĐND xem xét việc giải quyết các đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân đối với HĐND; chuyển các đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân đến các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết; đôn đốc kiểm tra việc giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân.
+ Giữ mối liên hệ với các đại biểu HĐND và các tổ đại biểu HĐND, báo cáo tình hình hoạt động của HĐND cấp mình lên HĐND và UBND cấp trên trực tiếp. Tổ chức quán triệt Hiếp pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND, quy chế hoạt động của HĐND cấp xã, các văn bản pháp luật khác, các chủ trương, chính sách của Nhà nước cho đại biểu HĐND cấp mình; giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với UBND trong việc thực hiện nghị quyết của HĐND và tạo điều kiện cho đại biểu và tổ đại biểu HĐND hoạt động có hiệu quả; phối hợp với UBND quyết định việc đưa ra HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐND theo đề nghị của ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.
Phó Chủ tịch HĐND cấp xã tham gia chủ tọa kỳ họp HĐND; thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch HĐND khi Chủ tịch HĐND vắng mặt. Khi khuyết Chủ tịch HĐND thì Phó chủ tịch HĐND thực hiện quyền Chủ tịch HĐND cho đến khi HĐND bầu ra Chủ tịch HĐND.
- Hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã: đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện pháp luật, chính sách và tham gia vào việc quản lý nhà nước.
Đại biểu HĐND có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các kỳ họp HĐND, chấp hành nội quy của kỳ họp. Đại biểu nào không tham dự được kỳ họp phải có lý do và phải báo cáo với Chủ tịch HĐND.
Đại biểu HĐND có nhiệm vụ tham dự các phiên họp của HĐND, các buổi thảo luận ở tổ đại biểu HĐND, các cuộc họp ban của HĐND mà đại biểu là thành viên, tham gia các hoạt động khác của HĐND. Đại biểu nào không tham dự phải phải có lý do và phải báo cáo với chủ tọa.
Khi nhận được thông báo dự kiến về thời gian họp và chương trình kỳ họp do Chủ tịch HĐND gửi đến, đại biểu HĐND phải nghiên cứu tài liệu, tiếp xúc cử tri, tham gia các hoạt động của tổ đại biểu HĐND chuẩn bị cho kỳ họp HĐND.
Trong kỳ họp HĐND, đại biểu HĐND có trách nhiệm: tham gia thảo luận và quyết định chương trình làm việc của kỳ họp HĐND; thảo luận tại phiên họp toàn thể và thảo luận ở tổ đại biểu về các vấn đề thuộc nội dung, chương trình kỳ họp; biểu quyết thông qua những vấn đề thuộc nội dung, chương trình kỳ họp. ý kiến phát biểu của số đại biểu HĐND phải được ghi vào biên bản của kỳ họp.
Đại biểu HĐND có quyền chất vấn HĐND, Chủ tịch và các thành viên khác của HĐND. Khi thực hiện quyền chất vấn, trong giấy đăng ký, đại biểu phải ghi rõ họ tên, địa chỉ người bị đại biểu HĐND chất vấn và nội dung chất vấn. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời về những vấn đề mà đại biểu chất vấn.
Đại biểu HĐND phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra mình, chịu sự giám sát của cử tri phải thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri và ít nhất mỗi năm một lần báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri.
Đại biểu HĐND phải tiếp dân theo lịch đã được phân công. Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu HĐND có trách nhiệm nghiên cứu, trực tiếp đề xuất ý kiến hoặc thông qua thường trực HĐND cùng cấp, ở cấp xã thì thông qua Chủ tịch HĐND để yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết. Cơ quan có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết, trả lời cho người đã kiến nghị, khiếu nại tố cáo và thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết để đại biểu biết.
Đại biểu HĐND có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân kịp thời chấm dứt những việc làm trái pháp luật, chính sách của Nhà nước trong cơ quan, tổ chức đơn vị hoặc của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó. Đại biểu HĐND có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước về việc thi hành pháp luật, chính sách của Nhà nước về những vấn đề thuộc lợi ích chung. Cơ quan hữu quan có trách nhiệm trả lời kiến nghị của đại biểu.
Lãnh đạo cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân có trách nhiệm tiếp đại biểu HĐND khi đại biểu yêu cầu.
So với giai đoạn trước, khung pháp lý quy định tổ chức, hoạt động của HĐND đầy đủ hơn, cụ thể hơn. đã có sự phân định rõ ràng, rành mạch về thẩm quyền của HĐND. Hoạt động giữa hai cơ quan HĐND và UBND không bị chồng chéo như trước. Hoạt động của các tổ đại biểu HĐND và của đại biểu HĐND đã có nhiều tiến bộ, coi trọng và chuẩn bị chu đáo việc tiếp xúc cử tri, trước và sau kỳ họp. Hiệu quả hoạt động của HĐND đã có những chuyển biến tốt.
Tuy vậy, tổ chức và hoạt động của HĐND còn bộc lộ khá rõ những mặt hạn chế sau:
- Số lượng đại biểu HĐND quy định tối đa là 25 người, đối với những xã, phường đông dân, nhiều thôn, ấp, khu vực, vùng dân cư thì số đại biểu không đủ cơ cấu đại diện cho các khu vực, vùng dân cư.
- Trình độ kiến thức pháp luật, quản lý nhà nước của các đại biểu HĐND còn hạn chế, ít được đào tạo, phương tiện và điều kiện làm việc của HĐND chưa được quan tâm đúng mức là những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động chung của HĐND.
- HĐND chưa chủ động được ngân sách, trong kỳ họp chỉ tập trung thảo luận thông qua kế hoạch được cấp trên giao, thể chế hóa nghị quyết của cấp ủy là chủ yếu, sự chủ động sáng tạo của Chủ tịch, Phó chủ tịch và các đại biểu HĐND còn hạn chế.
- HĐND chưa thực sự trở thành cơ quan đại diện của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương trong việc xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội của xã, phường, thị trấn. Chất lượng hoạt động của HĐND chưa cao, còn mang nặng tính hình thức và chưa thực quyền so với quy định của pháp luật, nhất là hoạt động của HĐND phường. Bộ máy làm việc của HĐND chỉ bao gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch và các đại biểu HĐND. Với một cơ cấu như vậy HĐND xã không thể triển khai các hoạt động nhằm thực hiện nhiệm vụ của mình nếu không thông qua bộ máy của UBND. Chính vì vậy, trên thực tế, vai trò của HĐND chỉ được xác lập trên các kỳ họp và danh sách các nghị quyết được thông qua.
- Hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã còn nhiều hạn chế. Việc giám sát của HĐND mới chỉ thực hiện chủ yếu thông qua các kỳ họp HĐND. HĐND đang lúng túng trong việc tìm ra các hình thức nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát. Hoạt động của đại biểu HĐND mới chỉ được thể hiện rõ tại các kỳ họp. Đại biểu HĐND còn ngại tiếp xúc với dân, chưa thể hiện được vai trò của mình trong đời sống hàng ngày, chưa được dân tin cậy, nếu khi có mâu thuẫn, thắc mắc, kiến nghị dân thường tìm đến bí thư chi bộ, trưởng thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố hoặc cán bộ mặt trận, các đoàn thể chứ không đến với đại biểu HĐND. Hoạt động của đại biểu HĐND xã chỉ bó hẹp trong các cuộc tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp HĐND. Việc bố trí Chủ tịch và phó Chủ tịch HĐND kiêm nhiệm làm ảnh hưởng đến công tác điều hành, giám sát của HĐND.
- Luật quy định nhiệm vụ cụ thể của Chủ tịch, còn Phó chủ tịch thực hiện theo sự phân công của Chủ tịch và thay mặt khi Chủ tịch vắng mặt, điều này chưa phát huy vai trò lãnh đạo của tập thể và cá nhân phụ trách.
- Cấp xã không có thường trực HĐND mà chỉ có thư ký kỳ họp, do đó việc giải quyết công việc giữa hai kỳ họp, việc theo dõi sổ sách, văn bản bị hạn chế.
- HĐND không có các ban chuyên môn để giúp Chủ tịch và Phó chủ tịch trong việc theo dõi nắm tình hình, nên việc chỉ đạo, uốn nắn không được làm thường xuyên.
- Việc quy định tổ chức và hoạt động của HĐND chưa phù hợp với đặc trưng từng vùng, miền.
- Việc Chủ tịch UBND xã ra quyết định khen thưởng chủ tịch HĐND xã là điều bất hợp lý.
- Quy định số lượng cán bộ làm công tác chuyên môn quá ít.
- Chưa phân định rõ thẩm quyền của từng cấp trong các lĩnh vực cụ thể. Theo pháp luật hiện hành, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Phạm vi quyền hạn rất rộng, được quyết định và giám sát các mặt về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng..., nhưng trên thực tế thì HĐND không có thực quyền, việc phân công trách nhiệm, phân cấp quản lý hành chính nhà nước không rõ ràng, thường chỉ là quyết nghị những vấn đề để đề nghị cấp trên, hoặc quyết nghị có tính thủ tục hành chính để thực hiện những vấn đề mà cấp trên hoặc cấp ủy đã quyết định.
- Phương pháp bầu cử đại biểu HĐND còn hình thức, nặng về cơ cấu, chưa tạo cho nhân dân quan tâm đến việc giới thiệu tuyển chọn và bầu cử đại biểu HĐND xã (vì đã có danh sách được chuẩn bị trước).
- Phương thức hoạt động của HĐND vẫn theo nếp cũ, năm họp hai kỳ với nội dung xoay quanh việc nhận định đánh giá tình hình, thông qua nhiệm vụ chung, ít có những nội dung thiết thực đáp ứng những vấn đề mà nhân dân quan tâm; trước và sau kỳ họp đại biểu HĐND làm còn rất lúng túng, làm cho nhiều đại biểu nhàm chán. Qua thăm dò dư luận chỉ có 50% đại biểu HĐND được đánh giá là hoạt động có chất lượng.
* Tổ chức và hoạt động của UBND
Thứ nhất, về tổ chức. UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được quy định bởi Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND ở mỗi cấp. Cơ cấu UBND quy định tại Nghị định 174/CP ngày 29/9/1994 của chính phủ: mỗi xã, phường, thị trấn có từ 5 - 7 thành viên UBND, trong đó có một Chủ tịch, một Phó chủ tịch UBND và từ 3 - 5 ủy viên ủy ban. Việc phân công phụ trách các lĩnh vực công tác của từng thành viên UBND ở mỗi địa phương có khác nhau song thông thường các xã bố trí sắp xếp như sau:
- Chủ tịch UBND phụ trách chung, tài chính, ngân sách và đất đai là chủ tài khoản;
- Phó chủ tịch giải quyết các công việc do Chủ tịch ủy quyền và khi Chủ tịch đi vắng; trực tiếp phụ trách công tác nội chính và là Trưởng công an xã;
- Một ủy viên phụ trách công tác quân sự;
- Một ủy viên phụ trách tài chính;
- Một ủy viên phụ trách văn hóa - xã hội, thông tin;
- Một ủy viên phụ trách giao thông, thủy lợi;
- Một ủy viên phụ trách văn phòng.
ở những xã có dưới 3.000 dân và địa hình ít phức tạp, có thể bố trí 5 thành viên UBND. Việc phân công phụ trách từng lĩnh vực công tác cho từng thành viên này dựa vào lĩnh vực công tác trên và theo tình hình thực tế của từng địa phương mà quy định.
Chủ tịch UBND phải là đại biểu HĐND theo giới thiệu của Chủ tịch HĐND, do HĐND và UBND huyện phê chuẩn (Phó chủ tịch và các ủy viên UBND không nhất thiết phải là đại biểu). Các thành viên UBND được phân công, phân nhiệm hợp lý trên cơ sở tình hình thực tế của địa phương. So với quy định của Nghị định 174/CP thì hiện nay theo quy định của pháp luật phần lớn các xã, phường, thị trấn đã tách chức danh trưởng công an hoạt động chuyên trách không để Phó chủ tịch kiêm nhiệm. UBND làm việc theo chế độ tập thể; cá nhân phụ trách đồng thời đề cao vai trò trách nhiệm, quyền hạn của Chủ tịch UBND trong việc giải quyết các công việc theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Bộ máy giúp việc UBND theo Nghị định 112-HĐBT năm 1981 gồm một số ban chuyên môn như: Ban kinh tế- kế hoạch; Ban văn hóa - xã hội; Ban công an xã; Ban chỉ huy quân sự xã; Trạm y tế; Trạm Bưu điện và có thêm Ban Tài chính xã theo quy định tại Luật ngân sách.
Cơ quan UBND tùy theo dân số được bố trí từ 10-15 người. Ngoài thành viên UBND còn có 4 chức danh chuyên môn (theo Nghị định 09/1998/NĐ-CP); một Phó trưởng công an xã, thị trấn (theo Nghị định số 40/1999/NĐ-CP); một Phó chỉ huy quân sự (theo Nghị định số 46/2000/NĐ-CP), nếu còn biên chế thì được bố trí một số cán bộ khác.
Thứ hai, về các mặt hoạt động. theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi năm 1994), UBND xã, phường, thị trấn đang thực thi hai chức năng: là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. UBND xã, phường, thị trấn đã có nhiều cố gắng và tiến bộ trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND và Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND ở mỗi cấp.
Phiên họp của UBND là hình thức hoạt động tập thể của UBND cấp xã. UBND xã họp chính thức mỗi tháng một lần, thảo luận tập thể và quyết định theo đa số các vấn đề thuộc thẩm quyền.
Hoạt động của Chủ tịch, Phó chủ tịch và các thành viên của UBND cấp xã là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Pháp luật quy định trách nhiệm cho Chủ tịch UBND xã là người lãnh đạo và điều hành mọi hoạt động của ủy ban, của các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban, phân công nhiệm vụ cho các thành viên của ủy ban.
Các thành viên của ủy ban (kể cả Phó chủ tịch) khi được phân công, phải chịu trách nhiệm trước Chủ tịch ủy ban.
Chủ tịch UBND cấp xã quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của UBND, trừ những việc pháp luật quy định phải thảo luận tập thể và quyết định theo đa số.
Pháp luật còn giao cho Chủ tịch UBND cấp xã quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản vi phạm thẩm quyền của cơ quan chuyên môn thuộc UBND nhằm khắc phục tình trạng chậm trễ trong điều hành và tình trạng thiếu trách nhiệm trong quản lý, kịp thời khắc phục và hạn chế những hậu quả do những văn bản đó gây ra đối với nhân dân ở địa phương. Chủ tịch UBND xã còn phải chịu trách nhiệm cá nhân về những nhiệm vụ, quyền hạn được giao riêng cho mình và cùng với các thành viên của ủy ban chịu trách nhiệm trước HĐND xã và cơ quan nhà nước cấp trên.
Về chế độ làm việc, để đảm bảo đúng đường lối, chống quan liêu xa rời thực tế, hiện nay UBND cấp xã vẫn áp dụng chế độ làm việc 1/2 ngày. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể của mỗi địa phương, các thành viên UBND xã phân công trực tại trụ sở hoặc buổi sáng hoặc buổi chiều trong ngày, nhưng đa số UBND xã thường làm việc vào buổi chiều trong ngày (trừ ngày chủ nhật). Trong thời gian không phải trực tại trụ sở, các thành viên của UBND xã vẫn tham gia sản xuất, trừ những trường hợp đi họp, học tập chuyên môn hoặc những khi có công tác cần thiết bất thường.
Tóm lại, hệ thống pháp luật về CBCQCS trong thời gian qua đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiện là cơ sở cho tổ chức và hoạt động cho chính quyền cơ sở. Theo pháp luật quy định, nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở vẫn là nguyên tắc tập trung dân chủ: hoạt động và làm việc theo chế độ tập thể, cá nhân phụ trách và chịu trách nhiệm.
Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết của HĐND cùng cấp và nhiệm vụ cấp trên giao cho chủ tịch UBND và các thành viên ủy ban (kể cả Phó chủ tịch) đã phát huy được vai trò, trách nhiệm là công cụ quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực. Chăm lo phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Từ khi triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, lề lối làm việc của UBND và tác phong làm việc của cán bộ chính quyền cơ sở ở nhiều nơi đã có những chuyển biến rõ rệt theo hướng dân chủ hóa, công khai hóa, sát dân, sát thực tế, bước đầu khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sách nhiễu dân của cán bộ cơ sở.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của công cuộc đổi mới và đòi hỏi của nhân dân, những quy định pháp luật về tổ chức bộ máy và cơ cấu hoạt động của đội ngũ CBCQCS còn nhiều hạn chế và thiếu đồng bộ, dẫn đến sự yếu kém trong hoạt động điều hành của UBND, cụ thể:
- Việc xác định chức năng nhiệm vụ trong luật chưa rõ, nội dung còn chung chung, trong khi những nhiệm vụ thực tế ở xã là rất cụ thể. Pháp lệnh quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của UBND các cấp hiện nay vẫn quy định cấp xã có 7 loại nhiệm vụ như cấp tỉnh, huyện là không phù hợp.
- Bộ máy thuộc UBND thiếu sự đồng bộ trên phạm vi toàn quốc, còn cồng kềnh về mặt tổ chức (UBND có nơi 7- 8 bộ phận chuyên môn). Cấp xã là cấp trực tiếp với dân, số lượng công việc rất nhiều, trong khi đó số lượng ủy viên UBND rất hạn chế, 5- 7 thành viên, do vậy cán bộ xã hiện nay phải kiêm nhiều việc. Hoạt động của UBND hiệu quả còn thấp do trình độ năng lực, phẩm chất cán bộ chưa tương xứng, chưa nắm vững pháp luật, tư tưởng của cán bộ cơ sở thiếu yên tâm.
- Cơ chế làm việc kiểu ủy ban tuy có mặt tích cực là phát huy được trí tuệ tập thể nhưng cũng bộc lộ những khuyết tật cơ bản, trì trệ, kém năng động, không nhanh nhạy, thông suốt, trong quản lý hành chính không phát huy được vai trò trách nhiệm người đứng đầu (Chủ tịch) không rõ trách nhiệm cá nhân, làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của cơ quan hành chính xã.
- Chính sách, sử dụng, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ xã chưa thỏa đáng, chưa có tính chuyên môn, ổn định và còn những chỗ bất hợp lý (giữa cán bộ chính quyền và cán bộ đoàn thể, giữa Trưởng thôn và Công an viên) nên chưa thực sự khuyến khích cán bộ xã yên tâm làm việc, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác. Hiện nay, cán bộ xã được hưởng định suất theo Nghị định 09 nhiều hơn so với trước - mỗi xã 19 đến 25 người, số lượng cán bộ xã đông nhưng không mạnh.
- Theo quy định hiện hành của pháp luật, UBND xã được giao thực hiện 44 nhiệm vụ trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng... (chưa kể các nhiệm vụ được giao theo các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành). Theo quy định đó, lĩnh vực nào UBND xã cũng có trách nhiệm phải thực hiện. Trong khi tổ chức bộ máy, cơ chế làm việc thì lỏng lẻo, đội ngũ cán bộ vừa yếu kém về năng lực, vừa sa sút về phẩm chất và trách nhiệm, điều kiện cần có để làm việc rất hạn hẹp, nên ít việc làm đến nơi, đến chốn, thậm chí có những nhiệm vụ trọng tâm về quản lý hành chính nhà nước của UBND xã thực hiện rất non kém.
2.2.1.2. Về công tác cán bộ
- Tuyển dụng, lựa chọn và bố trí, sắp xếp cán bộ vào trong bộ máy chính quyền cơ sở
+ Đối với cán bộ dân cử: căn cứ vào nhiệm kỳ của HĐND và UBND; UBND xã phường thị trấn chủ động báo cáo với Đảng ủy để chỉ đạo thực hiện việc xây dựng quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện đúng tiêu chuẩn mới đề cử, ứng cử và hiệp thương lựa chọn để đưa ra bầu cử. Tại Điều 2 và Điều 3 Luật bầu cử đại biểu HĐND quy định điều kiện và tiêu chuẩn người được bầu cử: "Đại biểu Hội đồng nhân dân phải là những người trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, người tiêu biểu trong nhân dân, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới, làm cho dân giàu, nước mạnh, có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, có trình độ hiểu biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Hội đồng nhân dân, tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, được nhân dân tín nhiệm".
+ Đối với cán bộ chuyên môn nghiệp vụ: phải lựa chọn cán bộ có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Thông tư số 99/1998/TT-LT-TCCP-BTC-BLĐTB và XH ngày 19/5/1998 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, cụ thể là: có lý lịch rõ ràng, đạo đức tốt; có văn bằng Nhà nước cấp đạt trình độ từ sơ cấp trở lên về chuyên môn địa chính (đối với cán bộ địa chính), tài chính - kế toán (đối với những cán bộ tài chính kế toán), pháp lý (đối với cán bộ tư pháp - hộ tịch), văn thư lưu trữ, hành chính, thống kê tổng hợp và các chuyên ngành chuyên môn khác phải được bồi dưỡng nghiệp vụ văn phòng (đối với cán bộ văn phòng- thống kê tổng hợp); đủ sức khỏe, tuổi đời không quá 35 tuổi đối với nữ và không quá 40 tuổi đối với nam.
Quy trình tuyển chọn: căn cứ vào tiêu chuẩn trên UBND cấp xã đề nghị Phòng Tổ chức cấp huyện phối hợp với các phòng chuyên môn của từng xã, phường, thị trấn trình Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định giao cho Chủ tịch UBND cấp xã ký hợp đồng lao động dài hạn với từng cán bộ theo từng chức danh chuyên môn, sau khi có ý kiến của sở, ban, ngành.
Qua việc nghiên cứu những quy định về tuyển dụng, bố trí sắp xếp cán bộ vào bộ máy chính quyền cơ sở cho thấy:
Nhà nước ta chưa có một cơ chế tạo nguồn phù hợp nhằm thu hút học sinh, sinh viên đã tốt nghiệp từ các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp được đào tạo cơ bản, để sử dụng ổn định lâu dài.
Pháp luật chưa có những quy định tiêu chuẩn hóa cho từng chức danh CBCQCS về trình độ văn hóa, về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, mà chủ yếu mới tập trung vào các tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, sức khỏe, kinh nghiệm, thâm niên công tác.
Nhà nước thiếu những quy định về cơ chế xét tuyển hoặc có thể thi tuyển (đối với những địa phương có điều kiện) để đảm bảo khách quan, chính xác, nhằm sử dụng đúng từng loại cán bộ, chấm dứt tình trạng nhìn nhận, đánh giá cán bộ theo cảm tính, vì lợi ích cá nhân, cục bộ gia đình như hiện nay.
Nhà nước chưa có khung pháp lý để hướng dẫn cấp xã trong việc bố trí các chức danh chuyên môn theo quy mô diện tích, dân số, tính chất và đặc điểm tự nhiên của từng cơ sở. Phương pháp bầu cử đại biểu HĐND còn nặng nề về hình thức, chưa được đổi mới từ khâu quán triệt tiêu ch