Luận văn Hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương - Từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc

Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân đối với cơquan hành

chính địa phương được quy định một cách khá cụ thể trong hai Sắc lệnh nêu

trên. Đó là, Hội đồng nhân dân là người bầu ra ủy ban hành chính, nhưng sự

kiểm tra của ủy ban hành chính chủ yếu do ủy ban hành chính Kỳ và Chính

phủ (đối với thủ đô Hà Nội) thực hiện. Vai trò giámsát của Hội đồng nhân

dân thể hiện cụ thể qua việc thực hiện bỏ phiếu tínnhiệm đối với Uỷ ban hành

chính. Bên cạnh đó, Hội đồng nhân dân được can thiệp vào hoạt động của ủy

ban hành chính theo yêu cầu của ủy ban hành chính Kỳ hoặc Bộ Nội vụ (đối

với ủy ban hành chính thành phố Hà Nội) khi các cơ quan này không tuân

theo mệnh lệnh cấp trên. Điều này cho thấy ở giai đoạn này hoạt động giám

sát của Hội đồng nhân dân đối với ủy ban hành chính cùng cấp chưa được

pháp luật quy định một cách cụ thể, chi tiết. Hơn thế nữa, những quy định

trong Sắc lệnh về quyền giám sát của Hội đồng nhân dân rất khó thực hiện

trong thực tế vì rất hiếm khi xảy ra trường hợp nếu ủy ban hành chính không

được đa số đại biểu Hội đồng nhân dân tín nhiệm sẽ phải từ chức.

pdf125 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1832 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương - Từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định cụ thể, h−ớng dẫn thực hiện chủ yếu có hình thức quyết định, thông t−, đã hình thành nên hệ thống pháp luật về giám sát hành chính, trong đó đã 58 đặt cơ sở cho sự ra đời của Ban Thanh tra nhân dân. Nh− vậy, có thể khẳng định đây là dấu mốc đánh dấu sự phát triển của pháp luật về hoạt động giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980 còn ghi nhận sự phát triển của pháp luật về giám sát hoạt động hành chính nói chung và hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc nói riêng bởi sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Điều 105 Hiến pháp năm 1959 quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao n−ớc Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà n−ớc địa ph−ơng, các nhân viên cơ quan nhà n−ớc và công dân. Viện kiểm sát nhân dân địa ph−ơng và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi luật định. Đây là quy định có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý cao nhất cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà n−ớc ở địa ph−ơng và các nhân viên cơ quan nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Nh− vậy, pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng thời kỳ 1959 đến 1980 đã có những b−ớc phát triển mới hơn so với giai đoạn tr−ớc đây, thể hiện sự nỗ lực của Đảng và Nhà n−ớc trong việc thực hiện và phát huy vai trò của pháp luật về giám sát hành chính, đảm bảo cho hoạt động giám sát hành chính đối với cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng đ−ợc thực hiện trong một môi tr−ờng pháp lý ngày càng hoàn thiện. 2.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 là giai đoạn cả n−ớc hòa bình, thống nhất, độc lập, qua độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn này, pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng có những b−ớc phát triển đáng kể, thể hiện nh− sau: 59 - Về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Một trong những biện pháp nhằm tăng c−ờng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng là việc Quốc hội sửa đổi Hiến pháp năm 1980 và tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân vào các năm 1983, năm1989. Đặc tr−ng nhất của các lần sửa đổi này là quy định mới về việc thành lập cơ quan th−ờng trực Hội đồng nhân dân từ cấp huyện trở lên. Đây là một b−ớc phát triển nhằm tăng c−ờng chất l−ợng của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Bên cạnh đó, về mặt tổ chức, điểm mới của pháp luật giai đoạn này là Hội đồng nhân dân các cấp đ−ợc thành lập các Ban chuyên trách và Ban Th− ký để giúp Hội đồng nhân dân theo quy định của Hội đồng Nhà n−ớc (Điều 27 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân). So với giai đoạn tr−ớc đây, việc thành lập các ban chuyên trách của Hội đồng nhân dân đ−ợc xác định rõ ràng, cụ thể hơn về chức năng nhiệm vụ nên việc hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng đ−ợc đảm bảo hơn. Theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1983) thì các ban của Hội đồng nhân dân có chức năng, nhiệm vụ nh−: - Giúp Hội đồng nhân dân nghiên cứu tr−ớc, thẩm tra tr−ớc các dự thảo báo cáo, dự thảo nghị quyết dự định trình Hội đồng nhân dân. - Giúp Hội đồng nhân dân kiểm tra, giám sát ủy ban nhân dân và các cơ quan nhà n−ớc ở địa ph−ơng trong việc thực hiện chính sách, pháp luật Nhà n−ớc và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. - Tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Trong các quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1983) có quy định về thành viên của các Ban của Hội đồng 60 nhân dân không thể đồng thời là thành viên của ủy ban nhân dân cùng cấp. Quy định này khắc phục đ−ợc tình trạng ng−ời làm công tác giám sát đồng thời lại là ng−ời bị giám sát. Do đó, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân sẽ đảm bảo khách quan hơn. Bên cạnh đó, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1983) còn có quy định mới cho phép các ban chuyên trách của Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn ủy ban nhân dân tại điểm 7, Điều 29. Đây là quy định nhằm tăng thêm quyền hạn và trách nhiệm cũng nh− khẳng định vai trò giám sát của các ban của Hội đồng nhân dân đối với các ủy ban nhân dân. Về đối t−ợng giám sát, so với Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 thì Hiến pháp năm 1980 đã có quy định mở rộng hơn về đối t−ợng giám sát của Hội đồng nhân. Khoản 12, Điều 115 Hiến pháp năm 1980 quy định: Trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác của cấp trên đóng ở địa ph−ơng. Quy định này cho thấy, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân ở địa ph−ơng đã bao quát hết các đối t−ợng giám sát nhằm đảm bảo cho pháp luật đ−ợc tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất trên phạm vi địa ph−ơng. Quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân cũng đ−ợc quy định một cách cụ thể hơn trong Hiến pháp năm 1980. Điều 120 Hiến pháp quy định: Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn ủy ban nhân dân và các cơ quan nhà n−ớc khác của địa ph−ơng. Cơ quan bị chất vấn phải trả lời tr−ớc Hội đồng nhân dân trong thời hạn do luật định. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Những ng−ời phụ trách các cơ quan này có trách nhiệm tiếp đại biểu, xem xét và giải quyết kiến nghị của đại biểu [12]. 61 Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của cơ quan hoặc của ng−ời trả lời chất vấn, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1983) đã có quy định: Khi cần thiết, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về việc trả lời và trách nhiệm của cơ quan hoặc ng−ời bị chất vấn (Điều 36) v.v... Nh− vậy, có thể thấy rằng, Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1983) đã có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của Hội đồng nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Bên cạnh những quy định mới nhằm tăng c−ờng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng, pháp luật thời kỳ này còn có những quy định bất cập làm ảnh h−ởng đến hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Đó là quy định tại Điều 47 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1983): "Giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân đ−ợc xét và giải quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cùng cấp" [38]. Đây là sự mâu thuẫn trong việc quy định cho ủy ban nhân dân thực hiện cùng một lúc hai chức năng - chức năng quản lý hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng và chức năng của Hội đồng nhân dân trong thời gian Hội đồng nhân dân không họp. Quy định này làm giảm khả năng hoạt động của Hội đồng nhân dân và tạo ra nguy cơ lộng quyền cho hoạt động của ủy ban nhân dân. Sau một thời gian thực hiện Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1983), đến năm 1989, sau Đại hội Đảng lần thứ VI ba năm, Quốc hội đã tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1989). Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1989) đã có quy định mới nhằm tăng c−ờng hoạt động của Hội đồng nhân dân nói chung và hoạt động giám sát nói riêng. Đó là việc thay thế Ban th− ký Hội đồng nhân dân bằng Th−ờng trực Hội đồng nhân dân. Th−ờng trực Hội đồng nhân dân là cơ quan bảo đảm cho tổ chức 62 hoạt động của Hội đồng nhân dân, chịu trách nhiệm tr−ớc Hội đồng nhân dân, duy trì mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cấp tỉnh, điều hòa phối hợp giữa các ban của Hội đồng nhân dân, chịu sự giám sát, h−ớng dẫn của Hội đồng nhân dân. Đồng thời, Th−ờng trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh còn thực hiện việc giám sát, h−ớng dẫn th−ờng trực Hội đồng nhân dân cấp huyện. Sự hiện diện của Th−ờng trực Hội đồng nhân dân đã đ−a ủy ban nhân dân trở lại đúng vị trí của mình là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, thực hiện quản lý kinh tế - xã hội của địa ph−ơng, không còn thực hiện chức năng hai mặt nữa. Đây là b−ớc thực hiện việc phân định rõ quyền hạn trách nhiệm giữa cơ quan quyền lực và cơ quan hành pháp ở địa ph−ơng [48, tr. 40]. Nếu nh− trong các quy định pháp luật tr−ớc đây, các thành viên ủy ban nhân dân nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân thì theo quy định của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 1989 chỉ có Chủ tịch ủy ban nhân dân nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân, còn các thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Bên cạnh đó, các thành viên của Th−ờng trực Hội đồng nhân dân và của các Ban của Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của ủy ban nhân dân. Quy định này đánh dấu một b−ớc quan trọng đối với pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Những quy định này tạo nên những bảo đảm pháp lý cho hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với ủy ban nhân dân một cách khách quan và minh bạch. - Về giám sát của Viện kiểm sát nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Pháp luật thời kỳ này cũng đánh dấu một sự phát triển về hình thức và nội dung cũng nh− tính cụ thể của những quy định pháp luật. Điều 138, Hiến pháp năm 1980 quy định: Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát 63 việc tuân theo pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ tr−ởng, các cơ quan chính quyền địa ph−ơng, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên nhà n−ớc và công dân, đảm bảo cho pháp luật đ−ợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 1980 cũng trao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố. Nh− vậy, đối với chính quyền địa ph−ơng, hoạt động kiểm sát việc tuân thủ pháp luật của Viện kiểm sát theo Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (năm 1992) bao gồm: - Kiểm tra, giám sát việc ban hành quyết định, chỉ thị của ủy ban nhân dân các cấp. Mục đích của việc kiểm sát các văn bản quy phạm pháp luật này là để phát hiện ra những văn bản không còn phù hợp với các văn bản pháp luật của Quốc hội, ủy ban th−ờng vụ Quốc hội, Chủ tịch n−ớc, Chính phủ đồng thời đảm bảo việc chấp hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và công dân đ−ợc nghiêm chỉnh chấp hành. - Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hành vi của các cơ quan nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Pháp luật thời kỳ này cũng quy định trong quá trình kiểm sát văn bản nếu thấy có sự vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị yêu cầu các cơ quan ban hành văn bản pháp luật đình chỉ việc thực hiện, sửa đổi hoặc hủy bỏ các văn bản đó. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu loại trừ nguyên nhân gây ra vi phạm pháp luật, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính đối với ng−ời có hành vi vi phạm pháp luật. Nếu có dấu hiệu tội phạm, Viện kiểm sát có quyền khởi tố về hình sự. Trong những tr−ờng hợp pháp luật quy định Viện kiểm sát có quyền khởi tố dân sự và áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản và bồi th−ờng thiệt hại do vi phạm gây ra. Những quy định nêu trên cho thấy, hoạt động giám sát văn bản do ủy ban nhân dân ban hành và hành vi của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa 64 ph−ơng đ−ợc Hiến pháp và Luật Tổ chức Viện kiểm sát giao cho Viện kiểm sát đã chứng tỏ vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng một cách cụ thể. - Về hoạt động giám sát của Ban thanh tra nhân dân. Pháp luật thời kỳ này đã có sự phát triển nhằm tạo điều kiện cho Ban thanh tra nhân dân thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Ngày 15 tháng 2 năm 1984, Hội đồng Bộ tr−ởng ra ra Nghị quyết số 26-HĐBT về tăng c−ờng tổ chức thanh tra và nâng cao hiệu lực thanh tra. Nghị quyết 26-HĐBT đã xác định tổ chức Thanh tra nhân dân là cấp cơ sở trong hệ thống tổ chức Thanh tra nhà n−ớc và là tổ chức thanh tra của quần chúng cơ sở, thực hiện sự thống nhất hoạt động thanh tra nhà n−ớc và thanh tra nhân dân". Quy định này cho thấy, pháp luật giai đoạn này đã có sự phát triển khi quy định sự phối hợp của Thanh tra nhà n−ớc và Thanh tra nhân dân. Ngày 01/4/1990, Hội đồng Nhà n−ớc ban hành Pháp lệnh Thanh tra quy định nhiệm vụ quyền hạn cho các tổ chức Thanh tra nhà n−ớc trong đó đề cao trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Điểm mới của Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 là việc tách thanh tra nhân dân ra khỏi Thanh tra Nhà n−ớc và chuyển sự chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với thanh tra xã ph−ờng; cho Công đoàn đối với Thanh tra ở cơ quan, xí nghiệp, cơ sở sản xuất. Để cụ thể hóa việc tổ chức các Ban thanh tra nhân dân nói trên, Hội đồng bộ tr−ởng đã ra Nghị định số 24/NĐ-CP quy định cụ thể việc tổ chức các Ban thanh tra nhân dân. Ngày 1/1/1991, Thông t− liên tịch số 01/TT giữa Thanh tra Nhà n−ớc và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam h−ớng dẫn việc thực hiện Nghị định 241-HĐBT đối với các Ban Thanh tra nhân dân tại các cơ quan hành chính sự nghiệp và các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế quốc doanh. Bên cạnh đó, ngày 25/11/1991 Mặt trận Tổ quốc đã ra Thông tri số 08-TT/MTTQ 65 về việc h−ớng dẫn tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra xã, ph−ờng thị trấn. Những quy định pháp luật nêu trên là những cơ sở pháp lý cần thiết để Ban Thanh tra nhân dân thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng là giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Tuy nhiên, văn bản pháp luật thời kỳ này ch−a có quy định cụ thể về vị trí pháp lý, nhiệm vụ và quyền hạn cũng nh− các mối quan hệ phối hợp giữa Ban thanh tra nhân dân với ủy ban nhân dân, với Mặt trận Tổ quốc các cấp nên trên thực tế, sự phối hợp hoạt động này còn nhiều lúc tỏ ra lúng túng. Hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân rơi vào bị động tr−ớc sự chỉ đạo của ủy ban nhân dân và thậm chí còn lấn sân sang hoạt động của chính quyền trong một số vấn đề nh− giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Điều này làm cho hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân trong giai đoạn này ch−a phát huy đ−ợc vai trò, nhiệm vụ của mình trong việc giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Tóm lại, pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng giai đoạn từ 1980 đến 1992 có ý nghĩa quan trọng trong việc kế thừa và phát triển có chọn lọc những quy định pháp luật về hoạt động giám sát đối với cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng của giai đoạn tr−ớc đây. Trên cơ sở những quy định pháp luật về hoạt động giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng của giai đoạn này, hoạt động giám sát đ−ợc tiến hành một cách có nề nếp nếp và b−ớc đầu đạt đ−ợc những kết quả khả quan. 2.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay Đây là một giai đoạn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển pháp luật về giám sát hành chính hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Bởi lẽ, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cùng với việc đổi mới t− duy kinh tế, t− duy chính trị cũng đ−ợc đổi mới, bộ máy nhà n−ớc đứng tr−ớc một thực tế cấp bách là phải cải cách một cách đồng bộ mà đi 66 đầu là cải cách hành chính. Để đạt đ−ợc mục đích đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng là hoạt động của cơ quan hành chính, trong đó có cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng phải đ−ợc đổi mới cơ bản về tổ chức và ph−ơng thức hoạt động, và phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Để đạt đ−ợc yêu cầu đó, đòi hỏi các cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng phải đ−ợc đặt d−ới sự giám sát hữu hiệu của không chỉ từ phía cơ quan dân cử mà còn từ phía nhân dân. Chính vì lẽ đó, Hiến pháp năm 1980 đã đ−ợc sửa đổi, Hiến pháp năm 1992 ra đời, là cơ sở pháp lý cao nhất, quan trọng nhất cho hoạt động giám sát của nhân dân. Tiếp đến là việc sửa đổi bổ sung các Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, ban hành mới Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại tố cáo, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản liên quan khác đã hình thành nên hệ thống quy định pháp luật về giám sát hành chính hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Tuy nhiên, pháp luật của giai đoạn này cũng đ−ợc chia làm hai thời kỳ - thời kỳ từ 1992 đến 2001 (gắn liền với thời kỳ này là Hiến pháp năm 1992 và các văn bản pháp luật cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992), và thời kỳ từ 2001 đến nay (gắn liền với thời kỳ này là bản Hiến pháp năm 1992 đ−ợc sửa đổi, bổ sung và các văn bản pháp luật đ−ợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với bản Hiến pháp năm1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001). Nội dung cụ thể của pháp luật giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng thời kỳ này nh− sau: - Về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng, pháp luật giai đoạn này đánh dấu một b−ớc đổi mới quan trọng. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân sửa đổi (năm 1994) đã quy định rõ tên gọi và số l−ợng các Ban của Hội đồng nhân dân, theo đó, Hội đồng nhân dân gồm ba ban: Ban Kinh tế và Ngân sách, Ban Văn hóa - xã hội, Ban Pháp chế, nơi nào có nhiều dân tộc thì có thể thành lập 67 Ban Dân tộc (khoản 1, Điều 38). Đồng thời, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1994) cũng có quy định cụ thể về tổ chức, thành phần của các Ban, gồm Tr−ởng ban của Hội đồng nhân dân không thể hoạt động chuyên trách, không thể đồng thời làm thủ tr−ởng của các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân và không thể đồng thời làm Viện tr−ởng viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp (khoản 3, Điều 38). Quy định này đã khắc phục đ−ợc tình trạng chủ thể giám sát lại đi giám sát chính hoạt động của mình. Phạm vi giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng cũng đ−ợc quy định một cách rộng hơn, không chỉ là giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học công nghệ, môi tr−ờng, quốc phòng, an ninh, dân tộc, tôn giáo, xây dựng chính quyền địa ph−ơng và quản lý địa giới hành chính mà Hội đồng nhân dân còn giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà n−ớc, đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa ph−ơng (khoản 2, Điều 11, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 1994). Cùng với việc ban hành Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở mỗi cấp, ngày 25/6/1996, ủy ban th−ờng vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 310 NQ/UBTVQH ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp. Quy chế này nhằm quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp trên cơ sở căn cứ vào Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1994), Pháp lệnh về giám sát và h−ớng dẫn của ủy ban Th−ờng vụ Quốc hội, h−ớng dẫn và kiểm tra của Chính phủ đối với Hội đồng nhân dân. Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân là bản quy chế quy định chi tiết, cụ thể hơn về họat động giám sát của Hội đồng nhân dân so với Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 1994) và Pháp lệnh về 68 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ở mỗi cấp, cũng quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn và trình tự thực hiện các trách nhiệm, quyền hạn của đại biểu Hội đồng nhân dân. Quy chế quy định quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, đồng thời quy định cụ thể cả trình tự chất vấn và trả lời chất vấn trong thời gian Hội đồng nhân dân họp và thời gian giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, vấn đề giám sát vẫn còn thiếu những quy định về hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát, thủ tục và thời gian, trách nhiệm trả lời chất vấn, đánh giá qua chế độ bỏ phiếu tín nhiệm để đảm bảo cho Hội đồng nhân dân có thực quyền trong lĩnh vực này, và để ủy ban nhân dân và các ngành chấp hành nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật. Ngoài ra về thủ tục thực hiện các quyền hạn khác của đại biểu Hội đồng nhân dân nhân dân vẫn ch−a đ−ợc quy định một cách chi tiết nên khi áp dụng trên thực tế còn có nhiều lĩnh vực đại biểu Hội đồng nhân dân vẫn còn có những băn khoăn, v−ớng mắc áp dụng các điều luật vào thực tiễn nh− việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị với các cơ quan nhà n−ớc, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân chấm dứt những việc làm trái pháp luật, chính sách của nhà n−ớc. Sau khi Hiến pháp năm 1992 đ−ợc sửa đổi, bổ sung năm 2001, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân đ−ợc tiến hành sửa đổi năm 2003, trong đó, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng đã đ−ợc chú trọng và quy định thành một ch−ơng riêng - Ch−ơng 3: Giám sát của Hội đồng nhân dân. Đây là một quy định mới, đánh dấu b−ớc phát triển về mặt thể chế của hoạt động giám sát hành chính hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 2003) đã khẳng định hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân là họat động đ−ợc tiến hành th−ờng xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Giám sát của Hội đồng nhân dân đ−ợc quy định bao gồm: giám 69 sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp, giám sát của Th−ờng trực Hội đồng nhân dân, giám sát của các ban của Hội đồng nhân dân và giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 57, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003). Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 2003) cũng có quy định cụ thể về các hình thức giám sát của Hội đồng nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng nh−: xét báo cáo công tác của ủy ban nhân dân, xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch ủy ban nhân dân, các thành viên khác của ủy ban nhân dân, Thủ tr−ởng cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân, xem xét văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân cùng cấp khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban th−ờng vụ Quốc hội, văn bản pháp luật của cơ quan nhà n−ớc cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, thành lập đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết, bỏ phiếu tín nhiệm đối với ng−ời giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu. Điểm mới của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 2003) về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng còn thể hiện trong việc quy định về việc xây dựng ch−ơng trình giám sát hàng năm trên cơ sở căn cứ đề nghị của Th−ờng trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ban th−ờng trực ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và kiến nghị của cử tri ở địa ph−ơng (Điều 59). Trình tự, thủ tục giám sát cũng nh− hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát cũng đ−ợc quy định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 2003) làm cơ sở pháp lý vững chắc cho Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình đối với hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà n−ớc ở địa ph−ơng. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (năm 2003) đã có điểm mới phát triển hơn khi quy định cho Th−ờng trực Hội đồng nhân dân quyền quyết định việc thành lập Đoàn giám sát. Theo đó, Đoàn giám sát có nhiệm vụ và 70 quyền hạn nh−: thực hiện đúng kế hoạch, nội dung giám sát trong nghị quyết về việc thành lập Đoàn giám sát; có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung giám sát, giải trình những vấn đề mà đoàn giám sát quan tâm; xem xét, xác minh những vấn đề mà Đoàn giám sát thấy cần thiết; khi phát hiện có vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà n−ớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lợi ích của Nhà n−ớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfHoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương - từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc.pdf
Tài liệu liên quan