MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH VÀ YÊU CẦU HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY 6
1.1. Đặc điểm quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy 6
1.2. Nội dung quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp trong nền kinh tế thị trường 13
1.3. Sự cần thiết khách quan phải hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy 24
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY 33
2.1. Khái quát quá trình hình thành, phát triển của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy 33
2.2. Thực trạng nguồn tài chính của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy 38
2.3. Thực trạng công tác quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy 48
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO NGUỒN TÀI CHÍNH VÀ HOÀN THIỆN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY 60
3.1. Các quan điểm cơ bản đảm bảo nguồn tài chính và hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy 60
3.2. Các giải pháp cụ thể về đảm bảo các nguồn tài chính 67
3.3. Các giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính 73
3.4. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính 79
3.5. Một số giải pháp mang tính kiến nghị nhằm huy động các nguồn tài chính và quản lý có hiệu quả tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy 80
KẾT LUẬN 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
87 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2626 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9.500
39,05
6.150
29,50
3.292
15,20
Nguồn: Báo cáo quyết toán tài chính năm 2003, 2004, 2005 của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy
Nguồn thu chủ yếu của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là do nguồn NSNN cấp, nguồn này bao gồm chi thường xuyên, chi không thường xuyên như: XDCB, chi cho mua sắm trang thiết bị dạy học.
Qua nghiên cứu thực tế tại Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy và một số trường trong Bộ Công an cho thấy việc phân bổ NSNN cho các trường còn chưa thống nhất, bất hợp lý, cụ thế:
Thứ nhất, việc phân bổ NSNN cho các trường công an hiện nay chủ yếu dựa trên phân bổ theo đầu học sinh. Như vậy trường nào có chỉ tiêu đào tạo hàng năm lớn hơn thì được phân bổ kinh phí lớn hơn, trường nào có chỉ tiêu ít thì được phân bổ ít hơn, ngoài khoản chi lương, học bổng, các khoản chi hành chính khác cũng phân chia theo tỷ lệ trên. Cách phân chia như trên có ưu điểm là tạo sự công bằng tương đối để các trường có thể hoàn thành được những nhiệm vụ hàng năm do Bộ Công an giao. Tuy vậy, việc phân chia theo định mức có hạn chế là: trong khi chi phí đơn vị đối với mỗi trường không bằng nhau thì việc phân bổ theo chỉ tiêu học sinh hàng năm là không công bằng. Lấy vị dụ, chi phí đơn vị đối với các trường chuyên ngành kỹ thuật thường cao hơn nhiều so với trường chuyên ngành xã hội. Trong thực tế, do tính chất đào tạo của một số trường mang tính đặc thù riêng, nhất là trường khoa học kỹ thuật cần nhiều trang thiết bị chuyên môn nhiều hơn, vật tư tiêu tốn trong thực hành, thí nghiệm nhiều hơn, số lượng học sinh trong một đơn vị lớp không thể nhiều như các trường chuyên ngành xã hội… Do vậy, đối với các trường khoa học kỹ thuật như Đại học Phòng cháy, Chữa cháy cần có định mức phân bổ kinh phí cao hơn các trường chuyên ngành xã hội. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, với cơ sở vật chất phục vụ đào tạo hiện nay chỉ tính riêng các phòng thí nghiệm, thực nghiệm đã có 10 phòng, ngoài ra còn có các phòng học chuyên ngành và khu tập luyện, với 200 tiết học thực hành trên một khoá học cần phải tiêu tốn nhiên liệu, vật tư, hoá chất, phương tiện…Mặt khác do nhiều giờ thực hành, thực nghiệm, tập luyện nên không thể ghép lớp với quy mô lớn được như khi giảng lý thuyết. Do vậy với cách thức phân bổ kinh phí theo định mức chung thì việc đảm bảo chi của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy khó khăn hơn so với các trường khác trong Bộ Công an.
Thứ hai, NSNN cấp cho mua sắm các trang thiết bị phục vụ dạy học hàng năm do Vụ Đào tạo của Bộ Công an phân bổ duyệt cấp cũng theo nguyên tắc bình quân, tính theo quân số các trường. Do đó, với lượng kinh phí cấp bình quân như vậy, đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, rất khó triển khai mua sắm. Bởi vì, kinh phí này rất thấp, bình quân hàng năm chưa được một tỷ đồng, trong khi giá trị thiết bị thí nghiệm phục vụ đào tạo rất cao, chỉ cần một phòng học tin học, phòng học ngoại ngữ, hoặc một vài thiết bị thí nghiệm về phòng cháy, chữa cháy, phải tập trung kinh phí của nhiều năm mới mua được. Đó là còn chưa kể đến việc mua sắm phương tiện chuyên dùng : một xe ô tô chuyên dùng của Nhật bản loại rẻ nhất cũng trên hai tỷ đồng. Trong khi đó, các trường đào tạo chuyên ngành xã hội có nhu cầu thiết bị phục vụ đào tạo ít hơn, vật tư tiêu tốn trong quá trình đào tạo ít hơn, giá trị thiết bị dạy học không cao, nhưng do số lượng học sinh lớn cho nên các trường đó không gặp khó khăn nhiều.
Thứ ba, nguồn NSNN cấp cho đầu tư xây dựng cơ bản còn quá ít và phân bổ cũng theo tính bình quân. Hàng năm, mỗi đơn vị được phê duyệt đầu tư một đến hai dự án. Do vậy, phải hàng chục năm mới có điều kiện hoàn chỉnh về cơ sở vật chất. Trong khi đó, định mức đầu tư cho thực hiện xây dựng cơ bản của Bộ Công an lại thấp so với mặt bằng xây dựng cơ bản chung. Vì vậy, các công trình được duyệt thường kinh phí rất hạn hẹp, khó điều chỉnh trong quá trình thi công, phần nào ảnh hưởng tới công năng và chất lượng sử dụng công trình. Mặt khác, đầu tư thiết bị kỹ thuật theo dự án có quy trình xét duyệt kéo dài, trong khi đó trang thiết bị thí nghiệm phòng cháy, chữa cháy hầu như chỉ có nguồn nhập ngoại, sản xuất đơn chiếc, do vậy đến khi dự án được duyệt thì trang thiết bị đó đã thay đổi về công nghệ, rất khó thực hiện nội dung mua sắm trang thiết bị của dự án.
Thứ tư, nguồn NSNN cấp cho sửa chữa lớn hầu như không có vì ngoài kinh phí cho xây dựng cơ bản thì kinh phí cho sửa chữa rất nhỏ, không đủ đáp ứng nhu cầu sửa chữa cải tạo cơ sở hạ tầng. Trong thực tế, các công trình cơ sở hạ tầng chỉ năm đến mười năm là phải sửa chữa vừa và sửa chữa lớn. Đặc biệt đối với các trường, các công trình nhà ở, nhà học tập của học sinh do công suất sử dụng cao, lưu lượng đào tạo lớn, khả năng xuống cấp nhanh hơn các công trình dân dụng khác.
Thứ năm, trong thực tế nhu cầu sử dụng kinh phí theo định mức tăng lên hàng năm, nhưng tổng kinh phí hàng năm tăng không đáng kể, do vậy trong việc cân đối sử dụng kinh phí gặp nhiều khó khăn. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, giá mua các trang thiết bị tiêu hao trong quá trình thực hành thực nghiệm tăng, tiền lương, tiền nuôi quân tăng, lượng học sinh theo chiều hướng tăng, nhưng tổng kinh phí được cấp tăng không đáng kể, do đó các khoản chi cần thiết khác ngày càng giảm như: công tác phí giảm làm ảnh hưởng đến thực tế của giáo viên, học viên, kinh phí điện nước giảm: trong khi nhu cầu sử dụng, tiêu chuẩn định mức sử dụng tăng trong thực tế điều kiện sinh hoạt của giáo viên, học viên càng khó khăn hơn.
Thứ sáu, nguồn NSNN đầu tư cho xây dựng cơ bản, dự án mua sắm trang thiết bị thí nghiệm của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy ba năm gần đây có tăng, nhưng sau khi đầu tư ban đầu thì muốn sử dụng phải có vật tư, nhiên liệu…để thực hành, thực nghiệm… trong khi thực tế kinh phí thường xuyên trong ba năm qua hầu như không được điều chỉnh, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng các trang thiết bị đã được đầu tư. Như vậy có sự mất cân đối giữa chi đầu tư và chi thường xuyên, làm giảm hiệu quả đầu tư.
2.2.2.2. Nguồn ngoài ngân sách nhà nước
Trong bối cảnh đổi mới tài chính công hiện nay, đặc biệt là ở các cơ sở giáo dục, đào tạo, đa dạng hoá nguồn kinh phí là một hướng đi trung tâm của chiến lược đổi mới chính sách tài chính, nhằm đảm bảo khả năng bền vững về mặt tài chính của các cơ sở đại học. Việc Nhà nước cho phép thu học phí, mở rộng các loại hình đào tạo, thực hiện một số chức năng ngoài đào tạo như ứng dụng khoa học kỹ thuật, tham gia cùng với các ngành đào tạo nghề… đã tạo điều kiện cho các trường đại học tăng nguồn thu ngoài NSNN. Nguồn tài chính từ bên ngoài đã và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển của các trường đại học. Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, được phép của Chính phủ, các ngành Giao thông công chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học – Công nghệ…, từ năm 2000 đến nay, Trường đã triển khai các hoạt động đào tạo ngoài chỉ tiêu do Bộ Công an giao; thực hiện các hợp đồng ứng dụng khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy vào các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội; tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đào tạo lái xe ô tô do Sở Giao thông công chính Hà Nội và Cục Đường bộ - Bộ Giao thông - Vận tải cấp phép. Kết quả tài chính của các hoạt động thể hiện tại bảng 2.2 cho thấy nguồn thu ngoài NSNN không ngừng tăng và chiến tỷ lệ khá lớn trong tổng nguồn thu của cả đơn vị, cụ thể:
Bảng 2.2: Tổng hợp nguồn thu ngoài NSNN trong 3 năm 2003-2005
Đơn vị tính: triệu đồng
TT
Tên nguồn thu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số thu
Tỷ lệ %
Số thu
Tỷ lệ %
Số thu
Tỷ lệ %
Tổng số thu ngoài NSNN
8.693
100,00
8.653
100,00
7.895
100,00
1
Ứng dụng KHKT PCCC
5.779
66,47
4.066
46,90
3.933
49,81
2
Đào tạo lái xe
2.909
33,46
4.477
51,64
3.771
47,76
3
Khác
91
0,07
110
1,26
191
2,41
Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2003, 2004, 2005 - Trung tâm UDKHKT và đào tạo lái xe chữa cháy - Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy
Sau đây là phân tích lần lượt các nguồn này.
* Nguồn học phí
Đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy triển khai hợp đồng đào tạo, liên kết đào tạo các cấp học, bậc học mới được thực hiện 10 năm từ 1996 đến nay, các năm trước đây chủ yếu đào tạo cho Quân đội theo chỉ tiêu do Bộ Công an giao hàng năm. Bắt đầu từ năm 1996 trường đã thực hiện các hợp đồng đào tạo cho các ngành kinh tế như: xăng dầu, dầu khí, khai thác than, hàng không…; cho các ngành cơ sở ngành dịch vụ du lịch như: khách sạn, trung tâm văn hoá, giải trí, trung tâm triển lãm, thương mại...; các khu công nghiệp…Tuy vậy, đến nay cấp đào tạo cũng mới chỉ dừng lại ở bậc trung học và thấp hơn, phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của các ngành và cơ sở. Nguồn thu học phí từ đào tạo, liên kết đào tạo tuy đã có, song đến nay hầu như mới thu theo phương thức tính toán lấy thu bù chi, hầu như không có nguồn tích lũy tái đầu tư phát triển.
Thực tế trong những năm gần đây cho thấy triển vọng nguồn thu này sẽ tăng cao do nhu cầu ngày càng tăng về đào tạo phòng cháy, chữa cháy của các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội…Mặt khác, nếu các cơ quan chức năng cho phép Trường được chủ động đào tạo các hệ đa dạng hơn thì phần thu học phí còn có thể tăng đáng kể.
* Nguồn thu do thực hiện các hợp đồng ứng dụng khoa học kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy vào thực tế các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội.
Thực tế, trong năm năm từ 2001-2005 cho thấy, nguồn thu từ thực hiện các hợp đồng thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy, chữa cháy cho các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội đã được thực hiện và có số lượng tăng đáng kể và chiếm tỷ lệ 50% so với tổng nguồn thu ngoài NSNN.
Thực tế quá trình thực hiện các hợp đồng thiết kế, lắp đặt thiết bị phòng cháy chữa cháy trong thời gian qua cho thấy một số vấn đề như sau:
Một là, qua kết quả hoạt động và qua khảo sát thị trường trong lĩnh vực này cho thấy nhu cầu thị trường này còn rất lớn và rất mới, nhất là trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay. Nếu mở rộng đầu tư cho hoạt động này thì nguồn thu sẽ ngày càng lớn hơn.
Hai là, ngoài đóng góp tăng nguồn thu thì các hoạt động này còn góp phần nâng cao năng lực thực hành của cán bộ, giáo viên trong thực hiện ứng dụng kết quả lý thuyết vào thực tiễn. Mặt khác, các công trình được nhà trường thi công lại chính là những cơ sở cho học viên tham quan, khảo sát thực tế để nâng cao kiến thức thực tế cho học sinh.
Ba là, thực hiện các hoạt động này góp phần cùng lực lượng phòng cháy, chữa cháy chuyên nghiệp làm tốt hơn chức năng quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy và làm hạn chế nạn cháy xảy ra trong thực tế, góp phần làm giảm bớt áp lực của nhu cầu tăng quá nhanh hiện nay về thiết kế, thi công, bảo hành, bảo trì hệ thống thiết bị phòng cháy, chữa cháy.
Bốn là, một số dịch vụ có thế mạnh về nhân lực và trang thiết bị của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy chưa được khai thác vì nhiều lý do, trong đó có những dịch vụ cần được cấp phép như: tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, kiểm định thiết bị an toàn phòng cháy, chữa cháy. Nếu các dịch vụ này được thực hiện thì về mặt tài chính sẽ tăng nguồn thu, vì đây là lợi thế tuyệt đối của nhà trường.
* Nguồn thu từ đào tạo lái xe
Nguồn thu từ dịch vụ đào tạo lái xe ô tô, mô tô chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn thu ngoài NSNN. Nguồn thu này rất ổn định và có mức tăng đáng kể hàng năm. Thực tế hoạt động đào tạo lái xe ô tô, mô tô cho thấy một số vấn đề sau:
Một là, cầu thị trường về đào tạo lái xe ô tô, mô tô hiện nay đang ở mức rất cao, đối với Trung tâm đào tạo của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, trong ba năm 2003-2005 chỉ đáp ứng được 50% số lượng người ghi danh học và sát hạch cấp giấy phép lái xe ô tô, mô tô. Trong nhiều năm tới, nhu cầu này vẫn còn tăng và thị trường chưa thể đáp ứng được cầu.
Hai là, với năng lực hiện nay của cơ sở, cần được tăng về chỉ tiêu đào tạo hiện nay lên gấp đôi, vì về đội ngũ giáo viên, phương tiện ô tô, cơ sở vật chất khác, khả năng quản lý, điều hành… đều có thể đáp ứng được với quy mô gấp đôi hiện nay. Nhưng trong nhiều năm nay, chỉ tiêu cho phép vẫn chưa được tăng, trong khi đó nhu cầu người học ngày càng tăng.
Ba là, để đáp ứng yêu cầu về cơ sở vật chất của một cơ sở đào tạo lái xe chuyên nghiệp, thì cơ sở cần phải chuẩn hóa một số nội dung sau:
- Đội ngũ giáo viên dạy lái phải thực sự được chuẩn hoá về tiêu chuẩn: số lượng, chất lượng.
- Phương tiện ô tô dạy lái phải được đảm bảo đa dạng về chủng loại, nâng cao chất lượng, nhất là những phương tiện mới phù hợp với thị trường ô tô hiện nay.
- Cần có kế hoạch xây dựng bãi tập, trường thi chuẩn theo quy định của Bộ Giao thông - Vận tải.
Bốn là, với chức năng đào tạo lái xe chữa cháy hiện nay thì chỉ tiêu được giao rất hạn chế, mỗi năm chỉ khoảng 50 học viên, trong khi đó lực lượng, phương tiện đào tạo lái xe ô tô của trường khá đầy đủ, dẫn đến lãng phí không hiệu quả trong sử dụng phương tiện. Trong khi đó, chỉ tiêu đào tạo lái xe tải, xe du lịch cho cảnh sát giao thông lại rất lớn mà các cơ sở đào tạo của các trường trong ngành công an không thể đáp ứng. Điều đó cho thấy sự điều tiết trong đào tạo lái xe ô tô trong lực lượng công an chưa thật hợp lý, cần có điều chỉnh để tận dụng hết khả năng của trường cũng như tăng nguồn thu từ hoạt động này.
Năm là, chi phí đào tạo lái xe ô tô trong một số năm gần đây tăng lên do nhiều yếu tố, nhất là về giá xăng dầu, giá chi phí cho phương tiện ô tô tăng lên, trong khi đó học phí do Bộ Giao thông - Vận tải điều chỉnh không kịp thời và chưa phù hợp làm cho cơ sở đào tạo rất khó khăn trong quá trình đào tạo.
* Các nguồn thu khác
Trong thực tế hiện nay Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy còn một số nguồn thu khác như cho thuê mặt bằng kinh doanh, một số hoạt động dịch vụ trông giữ xe, căng tin - dịch vụ…tuy vậy số thu này chiếm tỷ lệ rất nhỏ và có xu hướng ngày càng giảm đi.
2.2.2. Xu hướng thay đổi cơ cấu nguồn thu
Từ số liệu khảo sát tài chính tại Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, có thể thấy rõ sự thay đổi của cơ cấu nguồn tài chính theo bảng sau:
Bảng 2.3: Cơ cấu nguồn tài chính ở Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy giai đoạn 2003-2005
Đơn vị tính %
TT
Nội dung
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số thu
%
Số thu
%
Số thu
%
1
Tổng nguồn thu
33.038
100,00
29.449
100,00
29.514
100,00
2
Số thu từ NSNN
24.327
73,63
20.780
70,56
21.619
73,24
3
Số thu ngoài NSNN
8.711
26,36
8.669
29,43
7.895
26,75
Nguồn: Báo cáo tài chính 2003,2004,2005 của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy
Phân tích cơ cấu nguồn tài chính có một số vấn đề nhận xét sau:
Một là, nguồn ngoài NSNN chiếm tỷ trọng bình quân khoảng 27,5% so với nguồn thu từ NSNN, mặt khác tỷ lệ này rất ổn định trong thời gian ba năm 2003-2005. Điều này chứng tỏ khả năng tự chủ tài chính đối với một số hoạt động của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy khả thi hơn các trường khác trong Bộ Công an. Kết quả huy động tối đa các nguồn thu phục vụ công tác đào tạo nói riêng và các hoạt động của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy nói chung là rất tốt và đã góp phần đảm bảo các hoạt động chi.
Hai là, nguồn thu ngoài NSNN ở mức đáng kể chứng tỏ nếu được tự chủ nhiều hơn nữa trong các mặt công tác của Trường thì khả năng tăng thu là có thực và không chỉ dừng ở mức lấy thu bù chi mà còn có tích luỹ, mở rộng và tăng thu nhập cho cán bộ, giáo viên và học viên. Kết quả thu cũng chứng tỏ bên cạnh thực hiện chức năng đào tạo theo kế hoạch được giao, Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy còn sử dụng được cả năng lực đội ngũ cán bộ, giáo viên, trang thiết bị cơ sở vật chất hiện có để tăng nguồn thu. Ngoài mục đích về lợi nhuận, đối với các hoạt động dịch vụ phòng cháy, chữa cháy còn góp phần nâng cao trình độ, năng lực thực tiễn của cán bộ, giáo viên và học viên của Trường.
Ba là, trước mắt hai nguồn thu từ đào tạo lái xe và thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy, chữa cháy đều có xu hướng tăng, nhưng về lâu dài nguồn thu từ thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy, chữa cháy sẽ tăng và chiếm tỷ lệ cao hơn nguồn thu từ đào tạo lái xe, vì nó gắn với thế mạnh, năng lực hiện có của Trường và nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Đối với nguồn thu từ đào tạo (học phí) cũng có xu hướng tăng lên trong thời gian tới vì năng lực, quy mô đào tạo phải được nâng lên thì mới đáp ứng được nhu cầu đào tạo không chỉ cho lực lượng phòng cháy, chữa cháy của Bộ Công an mà còn cả cho các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội.
2.3. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY
2.3.1. Công tác lập dự toán thu chi
Lập dự toán ngân sách thu chi của Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy là quá trình cân đối, phân tích, đánh giá giữa nhu cầu chi và khả năng nguồn tài chính huy động được, từ đó xác định việc đáp ứng nhu cầu chi tiêu của đơn vị để làm căn cứ điều hành việc thu chi trong năm của đơn vị.
Theo luật NSNN, dự toán thu chi ngân sách của các trường đại học công lập được lập theo đúng chế độ hiện hành, gồm hai phần dự toán thu và dự toán chi. Dự toán chi được lập theo đúng mục lục ngân sách cho từng nguồn. Dự toán chi phần NSNN được lập chi tiết còn là căn cứ để cấp phát ngân sách sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Dự toán thu căn cứ vào chỉ tiêu phân bổ của cơ quan có thẩm quyền, định mức phân bổ để tính nguồn thu từ NSNN. Các nguồn thu khác ngoài NSNN được dự toán theo các nguyên tắc thông thường.
Trình tự lập dự toán thu, chi của đơn vị như sau: căn cứ vào chỉ tiêu tuyển sinh được giao, trong đó có chỉ tiêu được NSNN đảm bảo, hướng dẫn xây dựng kế hoạch của cơ quan chủ quản, định mức kinh phí cho một sinh viên. Ngoài ra còn căn cứ vào các nhu cầu khác như về chương trình mục tiêu, đầu tư XDCB, giáo trình…để làm căn cứ lập dự toán. Đối với các khoản thu chi phát sinh ngoài nguồn NSNN, đơn vị dựa vào các tiêu chuẩn, định mức của Nhà nước, của đơn vị quy định cho từng khoản chi.
Quá trình lập dự toán thu, chi hiện nay đã chặt chẽ hơn trước, về cơ bản đã phản ánh được cả nguồn NSNN và nguồn ngoài NSNN. Thông qua công tác lập dự toán, các Bộ môn, Phòng, Trung tâm trong trường đã có sự phối hợp để xây dựng kế hoạch thu chi, xây dựng dự toán của đơn vị. Tuy vậy qua dự toán do đơn vị lập và dự toán được phê duyệt, vẫn còn có các tồn tại sau:
Thứ nhất, đối với những khoản NSNN cấp theo định mức thì các đơn vị lập rất chuẩn theo định mức. Những khoản cấp phát cho chương trình mục tiêu, XDCB, mua sắm trang thiết bị dạy học… thuộc những kinh phí không thường xuyên thì trường lập dự toán vượt so với dự toán được phê duyệt, vì tâm lý sợ bị cắt xén khi duyệt của các cơ quan có thẩm quyền. Đây là vấn đề mang tính phổ biến trong dự toán và cấp phát NSNN nói chung cần khắc phục.
Thứ hai, đối với các nguồn thu ngoài NSNN, đơn vị lập rất sơ sài, mang tính chiếu lệ, không có chi tiết. Nếu so với số thực đạt được trong năm kế hoạch thường thấp hơn nhiều.
Thứ ba, dự toán hiện nay lập vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa ở chỗ quá chi tiết theo “ mục”. Nhìn vào dự toán được lập có thể thấy được tổng quỹ lương của trường là bao nhiêu nhưng lại không thấy được lương chi cho giảng viên, chi cho quản lý là bao nhiêu, nguồn lương chi cho khoá đào tạo chính quy, tại chức khác là bao nhiêu để từ đó cấp chủ quản có thể quản lý và phê duyệt, trên cơ sở đó giúp các đơn vị có định hướng quản lý tiết kiệm ngay từ khi lập dự toán. Mặt khác, dự toán lập cho khoản tiền lương, tiền công, phụ cấp hiện nay thiếu căn cứ khoa học vì chỉ dựa vào số cán bộ giảng dạy và số cán bộ quản lý của trường. Trong khi đó quỹ lương không chỉ phụ thuộc vào đội ngũ giảng viên, cán bộ hiện có mà còn phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ thỉnh giảng, hợp đồng…
Những tồn tại trên có nguyên nhân xuất phát từ chỗ, công tác dự toán tài chính trong Trường thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, dự toán vẫn chủ yếu do Phòng Hậu cần của Trường lập, do vậy không tính toán đầy đủ và phản ánh hết các công việc của các bộ phận, do vậy thiếu chính xác.
2.3.2. Công tác chấp hành dự toán thu-chi
2.3.2.1. Công tác chấp hành dự toán thu
* Nguồn NSNN
Chấp hành dự toán chính là quá trình giải ngân. Căn cứ vào dự toán được duyệt, các đơn vị lập dự toán theo quý, tháng, làm căn cứ để tiếp nhận kinh phí hàng tháng, hàng quý. Nguồn NSNN hiện nay được cấp qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, các đơn vị phải gửi dự toán được phê duyệt ra Kho bạc Nhà nước nơi mở tài khoản để theo dõi quản lý việc cấp phát.
Thực hiện Luật NSNN, đối với Trường Đại học Phòng cháy, Chữa cháy, lập dự toán và được cấp phát theo 17 “ mục”. Việc tiếp nhận kinh phí và chi tiêu theo “ mục” là quy định bắt buộc được Kho bạc Nhà nước giám sát. Điều này có thuận lợi cho các đơn vị thực hiện đúng theo kế hoạch được lập, ít có tình trạng phát sinh. Tuy vậy, dự toán được lập, cấp phát, chi trả theo nhiều “ mục” và các “ mục” có nội dung chưa thực sự rõ ràng cũng gây khó khăn cho Trường trong việc giải ngân. Đối với Bộ Công an để khắc phục tình trạng này, đến hết tháng 10 hàng năm, các đơn vị được quyền điều chỉnh “ mục” một lần. Việc cho phép này cũng đã góp phần vào việc sử dụng kinh phí hợp lý hơn, hiệu quả hơn trước đây.
Như vậy, có thể đi đến kết luận rằng việc xác định quá chi tiết các “ mục” trong khoản cấp phát đã làm hạn chế khả năng vận dụng linh hoạt nguồn tài chính, vừa thừa lại vừa thiếu nguồn, hiệu quả sử dụng kinh phí giảm sút. Các khoản ngân sách cấp vào cuối năm cho các “ mục” không điều chuyển được thường được các trường tiếp nhận và sử dụng một cách lãng phí vì không thể chuyển sang năm sau được.
* Nguồn ngoài NSNN
Nếu so với nguồn NSNN thì việc quản lý thu từ nguồn ngoài NSNN không bị ràng buộc bởi hệ thống mục lục ngân sách và không bị kiểm soát chặt chẽ bởi hệ thống các cơ quan nhà nước.
Các khoản thu học phí, lệ phí được cấp biên lai thu tiền theo mẫu do Bộ Tài chính phát hành, chế độ quản lý được thực hiện theo Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu.
Đánh giá chung cho thấy, công tác quản lý đối với các nguồn tài chính ngoài NSNN trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, việc nắm được nguồn thu ngoài NSNN đã giúp cho trường chủ động hơn trong chi tiêu, góp phần tăng thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc cho cán bộ, giảng viên. Tuy vậy công tác quản lý các nguồn thu ngoài NSNN còn những tồn tại. Có thể phân tích hai tồn tại chính sau:
Thứ nhất, đối với các khoản thu học phí của các lớp tại chức liên kết, ngành ngoài… định mức thu học phí chưa nhất quán hàng năm. Thực tế, định mức này chưa sát, nếu tính toán kỹ thì mức học phí đang thu chỉ đủ chi trả tiền giờ giảng còn các chi phí khác rất hạn chế. Bên cạnh đó, nhiều lớp mở liên kết với các địa phương vẫn còn tình trạng trực tiếp thu, sau đó chi ngay rồi mới làm thủ tục lấy thu bù chi về Tài vụ của trường. Việc làm này là không phù hợp với chế độ hiện hành, làm giảm chức năng giám đốc, kiểm tra của tài chính. Mặt khác việc thu học phí của một số lớp ngắn hạn thường thanh toán hợp đồng bằng tiền mặt do vậy việc kiểm soát chặt chẽ thu - chi của kế toán rất hạn chế.
Thứ hai, các khoản thu của các hợp đồng thiết kế, lắp đặt hệ thống phòng cháy chữa cháy thường thực hiện rất chậm, kéo dài, làm cho tình trạng quyết toán không gọn theo năm. Trong thực tế, có những hợp đồng thực hiện xong 3 năm vẫn chưa thanh toán xong. Đến khi thanh toán thì giá trị thực của hợp đồng đã bị thay đổi do trượt giá… Có nhiều hợp đồng vi phạm quy chế quản lý tài chính nhưng chưa thực hiện phạt được trường hợp nào.
2.3.2.1. Công tác chấp hành dự toán chi
* Chi lương, tiền công và các khoản có tính chất lương
Đối với bộ phận là đơn vị sự nghiệp không có thu:
Đây là phần chi trả lương cho cán bộ, giáo viên, công nhân viên, sinh hoạt phí cho học sinh. Khoản chi này thường chiếm tỷ trọng lớn trong khoản NSNN cấp. Trong 3 năm 2003-2005, tỷ lệ này dao động trong khoảng 40% -50%.
Theo chế độ tài chính hiện hành, các khoản chi cho cán bộ, giáo viên được chi trả theo cấp hàm của lực lượng công an. Một số khoản chi như trả tiền giảng dạy ngoài định mức giờ chuẩn (vượt giờ định mức) được thực hiện theo từng học kỳ và theo quy định trả vượt giờ của Bộ Công an, tuy vậy khoản chi này thường không lớn. Đối với các lớp mở theo dạng liên kết thì giáo viên được trả trực tiếp theo giờ thực tế thực hiện cũng theo quy định của Bộ Công an.
Trong khoản chi lương hiện nay của trường còn có khoản chi lương áp dụng cho các đối tượng hợp đồng xác định thời gian: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng (ngắn hạn), nhưng trên thực tế, những đối tượng này có thời hạn làm việc thực tế trên 1 năm (đúng ra phải được hưởng mức lương cho đối tượng hợp đồng dài hạn). Đến nay, Bộ Công an vẫn chưa có điều chỉnh về đối tượng hợp đồng này. Điều đó đã làm cho người lao động về hình thức vẫn là hợp đồng xác định thời gian, nhưng trong thực tế đã hợp đồng với đơn vị liên tục nhiều năm. Điều đó làm cho người lao động rất thiệt thòi. Bởi vì, những đối tượng này không được nâng lương theo thời gian, không được tham gia đóng bảo hiểm theo quy định của bảo hiểm xã hội. Theo các quy định của Luật Lao động và Bảo hiểm xã hội, sử dụng người lao động và chi trả lương như vậy là không đúng, cần phải sửa đổi.
Đối với bộ phận là đơn vị sự nghiệp có thu: Việc chi trả lương và các khoản có tính chất lương hiệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luậnvănthacsi.doc
- bia.doc