Luận văn Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Hà Tây

Hoạt động THQCT ư KSĐT các vụ án hình sự là một trong những

nhiệm vụ quan trọng của ngành Kiểm sát nhân dân. Trong phạm vi chức năng

của mình, VKSND có nhiệm vụ phối hợp cùng các cơ quan chức năng thực

hiện tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự nói chung, tội phạm

cố ý gây thương tích nói riêng. Thời gian qua, ngành kiểm sát Hà Tây đã cùng

các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử

loại tội phạm cố ý gây thương tích. Theo thống kê tổng hợp của VKSND tỉnh

Hà Tây từ ngày 01/12/1999 đến 31/5/2005 kết quả giải quyết như sau:

- Cơ quan CSĐT đã thụ lý điều tra tổng số 1057 vụ án/1.276 bị can

(khởi tố mới 991 vụ/1.196 bị can; án cũ 66 vụ/80 bịcan). CQĐT đã kết thúc

điều tra tổng số 1030 vụ án/1.227 bị can. Trong đó,đình chỉ điều tra 131

vụ/152 bị can; tạm đình chỉ 49 vụ/71 bị can; đề nghị truy tố 823 vụ/1.004 bị

can. Trong số các vụ án tạm đình chỉ điều tra đã có36 vụ án/ 48 bị can được

phục hồi điều tra để xử lý theo quy định pháp luật.

pdf125 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4241 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c lập, sáng tạo của cán bộ và đề cao trách nhiệm, lơng tâm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên. Do vậy, chất l−ợng THQCT và kiểm sát các hoạt động t− pháp, trong đó có hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án cố ý gây th−ơng tích đ−ợc nâng lên, góp phần tích cực đấu tranh phòng ngừa có hiệu quả đối với các hành vi vi phạm, tội phạm, bảo đảm việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đúng ng−ời, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế và khắc phục các tr−ờng hợp oan sai; đồng thời phục tốt nhiệm vụ chính trị địa ph−ơng. Bên cạnh những kết quả đã đạt đ−ợc, ph−ơng thức tổ chức và phân công cán bộ, Kiểm sát viên THQCT, KSĐT và xét xử sơ thẩm án hình sự cũng còn bộc lộ những tồn tại, bất cập. Qua tổng kết công tác tổ chức và cán bộ, thấy có những tồn tại cơ bản sau: - Cơ cấu tổ chức bộ máy còn thiếu đồng bộ, thống nhất và ch−a phù hợp với các đặc điểm của từng đơn vị, từng địa ph−ơng; một số đơn vị lực l−ợng biên 61 chế mỏng, dàn trải; công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành ở một số đơn vị VKSND huyện, thị xã thiếu tập trung, thống nhất, hiệu quả công tác ch−a cao. - Thực hiện cải cách công tác t− pháp, một số cán bộ, Kiểm sát viên bộc lộ sự yếu kém, bất cập về trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành hoặc có tâm lý thỏa mãn, ngại học tập nâng cao trình độ, không chú trọng đổi mới ph−ơng pháp công tác, ph−ơng pháp quản lý. Thậm chí có cán bộ còn sa sút phẩm chất, ý chí. - Số l−ợng cán bộ, Kiểm sát viên ch−a đáp ứng với yêu cầu và khối l−ợng công việc hiện nay, nhất là đối với VKS cấp huyện trong thời gian tới thực hiện chủ tr−ơng tăng thẩm quyền, một số VKSND huyện, thị xã ch−a đáp ứng đ−ợc yêu cầu, nhiệm vụ mới. Những tồn tại, bất cập về cách thức tổ chức và phân công cán bộ nêu trên là một trong những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, thiếu sót trong chuyên môn nghiệp vụ. Nhất là trong công tác THQCT, KSĐT và xét xử hình sự, nh−: Chất l−ợng điều tra và KSĐT còn hạn chế, vẫn còn tình trạng trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung hoặc án hình sự sơ thẩm bị hủy, sửa... Việc tham gia xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa còn thiếu chủ động, tính thuyết phục của luận tội ch−a cao, chất l−ợng tranh tụng giữa Kiểm sát viên và ng−ời bào chữa, ng−ời tham gia tố tụng khác còn hạn chế... Những tồn tại, bất cập trong công tác tổ chức cán bộ trên là do những nguyên nhân cụ thể sau: - Một bộ phận cán bộ, Kiểm sát viên ch−a nhận thức đúng đắn về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm trong công tác THQCT, KSĐT và xét xử sơ thẩm án hình sự; tinh thần trách nhiệm của một số Kiểm sát viên ch−a cao, ch−a thật sự tâm huyết với công việc. - Chất l−ợng cán bộ, Kiểm sát viên tuy đã đ−ợc nâng lên, nh−ng trình độ chuyên môn nghiệp vụ ch−a đồng đều, ch−a ngang tầm với nhiệm vụ đ−ợc phân công. Một số cán bộ tuy đã có kinh nghiệm thực tiễn nh−ng ch−a đ−ợc 62 đào tạo cơ bản, th−ờng xuyên, ng−ợc lại một số cán bộ trẻ, ch−a có nhiều kinh nghiệm, ch−a đ−ợc bồi d−ỡng về nghiệp vụ kiểm sát, dẫn đến những hạn chế nhất định trong công tác chuyên môn nghiệp vụ. - Một số đơn vị VKSND huyện, thị xã biên chế ít (d−ới 10 ng−ời) trong khi đó lại phải công tác kiêm nhiệm ở nhiều bộ phận, lực l−ợng cán bộ dàn mỏng, nên có cán bộ, Kiểm sát viên ch−a thực sự đầu t− thời gian cho công việc mang tính chuyên sâu. - Sự phối hợp giữa các khâu công tác kiểm sát, nh−: Công tác THQCT, KSĐT và xét xử sơ thẩm án hình sự với công tác THQCT và kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm án hình sự và công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục ng−ời chấp hành án phạt tù ch−a chặt chẽ, ch−a phát huy đ−ợc sức mạnh tổng hợp của các khâu công tác trong một đơn vị. - Cơ sở vật chất, ph−ơng tiện làm việc và kinh phí phục vụ nghiệp vụ của ngành ch−a đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ; chính sách tiền l−ơng, phụ cấp của cán bộ, Kiểm sát viên còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho một số cán bộ, Kiểm sát viên ch−a yên tâm công tác hoặc lo lắng cho đời sống hàng ngày mà ch−a phát huy hết khả năng, trình độ cho chuyên môn nghiệp vụ. 2.3.1.2 Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự + Nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự gồm: Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra v… yêu cầu CQĐT tiến h…nh điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến h…nh một số hoạt động điều tra. Yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên theo quy định của BLTTHS; nếu h…nh vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam v… các 63 biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của CQĐT. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do; hủy bỏ các quyết định không có căn cứ v… trái pháp luật của CQĐT; yêu cầu CQĐT truy nã bị can; quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. CQĐT có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu quyết định của VKS (Điều 112 BLTTHS). + Nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND khi kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra v… việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu CQĐT cung cấp t…i liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến h…nh điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tôi phạm v… vi phạm pháp luật (Điều 113 BLTTHS). Khi THQCT và KSĐT các vụ án hình sự cố ý gây th−ơng tích thì VKS cũng có các nhiệm vụ và quyền hạn nh− nêu trên. 2.3.2 Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong việc kiểm sát giải quyết tố giác tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố vụ án cố ý gây th−ơng tích Tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố vụ án hình sự là một trong những căn cứ quan trọng để CQĐT tiến hành xác minh làm căn cứ ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Trên cơ sở đó, VKSND khi thực hiện kiểm sát việc ra các quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án của CQĐT. Xác định đ−ợc tính quan trọng của nguồn tố giác, tin báo về tội phạm và nắm vững diễn biến tình hình tội phạm cố ý gây th−ơng tích trên thực tế có nhiều phức tạp. Trong những năm qua, VKSND tỉnh Hà Tây đã quan tâm, chú trọng nâng cao chất l−ợng công tác quản lý, chỉ đạo điều hành, nhằm tăng c−ờng hoạt động kiểm sát đối với các cơ quan t− pháp trong việc phân loại xử 64 lý tố giác, tin báo về vi phạm và tội phạm. VKSND hai cấp đã mở hòm th để tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và cử cán bộ, Kiểm sát viên chuyên trách xử lý tố giác và tin báo về tội phạm nói chung, tội phạm cố ý gây th−ơng tích nói riêng. Tăng c−ờng việc nắm, quản lý và xử lý thông tin chặt chẽ hơn, th−ờng xuyên phối hợp với cơ quan Công an, trao đổi nguồn tin ngay từ đầu. Thực hiện Thông t− liên ngành số 03 ngày 15/5/1992, VKSND tỉnh Hà Tây đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm bắt diễn biến tình hình vi phạm, tội phạm trên địa bàn, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm để phối hợp phân loại, xử lý đ−ợc th−ờng xuyên, kịp thời. Kết quả từ năm 2000 đến tháng 6/2005, VKS hai cấp đã phối hợp với CQĐT và các cơ quan có thẩm quyền cùng cấp, tiếp nhận tổng số 13.252 tố giác, tin báo về tội phạm, trong đó có 1.640 nguồn tố giác, tin báo về tội phạm cố ý gây th−ơng tích, chiếm tỷ lệ 12,37% (1.640/13.252) CQĐT đã tiến hành xác minh theo nguồn tố giác, tin báo về tội phạm, kết quả đã ra quyết định khởi tố tổng số 6.869 vụ án hình sự, để tiến hành điều tra xử lý theo đúng quy định của pháp luật, chiếm 51,8% (6.869/13.252). Trong đó, đã khởi tố 991 vụ án/1.196 bị can về tội cố ý gây th−ơng tích chiếm 14,4% (991/6.869). Qua kết quả kiểm tra của liên ngành Công an - VKS - Tòa án tỉnh Hà Tây từ năm 2000 đến năm 2004 về công tác giải quyết án hình sự của Công an - VKS - Tòa án ở 14 huyện, thị xã, trong đó có công tác phân loại xử lý tội phạm thấy các VKS huyện, thị xã đều đã mở sổ quản lý tin báo tội phạm, việc phân loại xử lý các tố giác, tin báo về tội phạm đ−ợc thực hiện tốt, tỷ lệ giải quyết t−ơng đối cao nh− VKSND hai thị xã Hà Đông, Sơn Tây và VKSND huyện Ba Vì. Tuy nhiên, công tác quản lý tố giác, tin báo về tội phạm vẫn còn hạn chế. Nhiều VKSND ch−a quan tâm đúng mức đến công tác này, còn thụ động trong việc nắm và xử lý thông tin hoặc ỷ lại vào cơ quan Công an. Sau khi, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm từ quần chúng, từ cơ quan chức năng hoặc các cơ quan thông tin đại chúng, VKSND đã chuyển đến cơ quan Công an để xác minh. Nh−ng sau đó, không thực hiện tốt việc kiểm sát giải quyết tố 65 giác, tin báo về tội phạm đó, không yêu cầu Công an báo cáo lại kết quả xác minh. Một số vụ cố ý gây th−ơng tích hậu quả ít nghiêm trọng th−ơng tích trên d−ới 11% và bị hại có mối quan hệ họ hàng thân thuộc với ng−ời đã thực hiện hành vi phạm tội, CQĐT th−ờng tạo điều kiện cho hai bên hòa giải, nếu không hòa giải đ−ợc thì chờ kết quả giám định mức độ tổn hại th−ơng tích, mà không báo cho VKS biết để thực hiện việc phân loại tội phạm dẫn đến tình trạng vi phạm Điều 103 BLTTHS và Điều 7 Quy chế tạm thời về công tác THQCT - KSĐT các vụ án hình sự do VKSNDTC ban hành. Do đó, nhiều vụ việc không đ−ợc khởi tố điều tra hoặc chậm khởi tố điều tra, nh− vụ án Bùi Viết H−ng phạm tội cố ý gây th−ơng tích, kết quả điều tra chứng minh: Hồi 16 giờ ngày 5/12/2000 tại xã Cổ Đông, thị xã Sơn Tây, H−ng đã có hành vi dùng tay đánh vào mắt anh Nguyễn Xuân Luân làm anh Luân bị th−ơng tích 11%. Vụ án xảy ra từ ngày 5/12/2000 nh−ng đến 22/2/2001 Cơ quan CSĐT - Công an thị xã Sơn Tây mới ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành điều tra theo quy định BLTTHS. Việc kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của VKSND còn bộc lộ những hạn chế, ch−a kịp thời, thiếu đầy đủ, còn mang tính hành chính, thiếu chủ động, tích cực và hiệu quả ch−a cao. Điều này dẫn đến việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cố ý gây th−ơng tích của CQĐT các cấp ch−a đ−ợc kiểm sát một cách chặt chẽ, kịp thời, còn để lọt tội phạm và xảy ra những vi phạm pháp luật khác. Bên cạnh đó, việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm cố ý gây th−ơng tích vẫn ch−a tuân thủ đúng quy định tại Điều 103 BLTTHS; cụ thể trong tổng số là 1.640 tố giác, tin báo tội phạm cố ý gây th−ơng tích, CQĐT ra quyết định khởi tố 991 vụ án hình sự, còn lại 649 tố giác, tin báo chiếm 39,57% (649/1640) thì xác định là không có sự việc phạm tội nh−ng CQĐT chỉ trả lời đơn th tố giác, không ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong những năm qua, ngành Kiểm sát Hà tây đã thực hiện tốt công tác kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Quá trình kiểm sát việc xử lý tố 66 giác, tin báo về tội phạm, khi phát hiện thấy có dấu hiệu tội phạm mà CQĐT ch−a khởi tố thì VKS đã yêu cầu CQĐT ra quyết khởi tố, nếu yêu cầu của VKS không đ−ợc CQĐT chấp nhận thì VKS quyết định khởi tố vụ án và chuyển cho CQĐT để tiến hành điều tra theo thẩm quyền. Tr−ờng hợp CQĐT đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì sau khi tiếp nhận quyết định khởi tố vụ án và thực hiện kiểm sát việc lập hồ sơ khởi tố nếu thấy ch−a đủ căn cứ để khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì VKS đã yêu cầu CQĐT tiếp tục xác minh làm rõ, nếu kết quả xác minh vẫn ch−a đủ căn cứ chứng minh có dấu hiệu phạm tội thì ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can nhằm tránh tình trạng làm oan ng−ời vô tội. Kết quả, từ năm 2000 đến 6/2005 chất l−ợng công tác kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội cố ý gây th−ơng tích đ−ợc nâng lên rõ rệt, toàn ngành Kiểm sát Hà Tây đã có tổng số 508 phiếu yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Các yêu cầu của VKS đều đ−ợc CQĐT chấp nhận và thực hiện. Đồng thời, VKS hai cấp đã thực hiện kiểm sát chặt chẽ tổng số 6.869 quyết định khởi tố vụ án hình sự, 11.313 quyết định khởi tố bị can về các tội phạm hình sự của CQĐT, trong đó có 991 quyết định khởi tố vụ án và 1.196 quyết định khởi tố bị can về tội cố ý gây th−ơng tích, không có tr−ờng hợp nào CQĐT ra quyết định khởi tố không có căn cứ pháp luật. Theo quy định tại khoản 4 Điều 126 BLTTHS thì: Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định khởi tố bị can đó và các tài liệu liên quan đến VKS cùng cấp để xét phê chuẩn và trong thời hạn 3 ngày, VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Sau khi, BLTTHS có hiệu lực từ 1/7/2004 đến 31/5/2005, toàn ngành Kiểm sát Hà Tây đã ra quyết định phê chuẩn 2767 quyết định khởi tố bị can của CQĐT. Trong đó, có 214 quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can về tội cố ý gây th−ơng tích và ra 15 quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, trong đó có 4 quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can về tội cố ý gây th−ơng tích. Các quyết định của VKSND đều đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật, đ−ợc CQĐT chấp nhận. 67 Bên cạnh kết quả đạt đ−ợc nh− trên, trong khâu công tác này còn một số hạn chế cần đ−ợc khắc phục. ở một số VKS huyện, thị xã ch−a thực hiện công tác kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, vẫn còn yếu, ch−a kiểm sát chặt chẽ quá trình tiếp nhận xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và việc ra quyết định khởi tố vụ án của CQĐT. Có vụ án xảy ra các cơ quan thông tin đại chúng nắm đ−ợc và đã đa tin thì VKS mới biết; VKS chỉ mới tiến hành kiểm sát đ−ợc những vụ án do CQĐT khởi tố và bắt đ−ợc bị can (bắt quả tang). Do vậy, tình trạng bỏ lọt tội phạm vẫn còn. Những vụ ch−a phát hiện đ−ợc bị can hoặc sau khi đối t−ợng gây án bỏ trốn không rõ tên, tuổi, địa chỉ thì gần nh− VKSND không nắm đ−ợc. Khi tiếp nhận các quyết định khởi tố và hồ sơ vụ án do CQĐT chuyển đến thì VKS ch−a thực hiện tốt việc nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu đã thu thập nh−: Các biên bản bắt giữ ng−ời có hành vi phạm tội quả tang, các biên bản ghi lời khai, vật chứng và các tài liệu ban đầu khác để xác định việc khởi tố có căn cứ hay không, khởi tố có đúng tội danh hay không, nên không kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, định h−ớng điều tra để làm rõ hành vi phạm tội của đối t−ợng làm căn cứ khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn và các biện pháp TTHS khác hoặc nếu thấy việc khởi tố không có căn cứ để báo cáo lãnh đạo có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố. Thậm chí, có tr−ờng hợp CQĐT chỉ chuyển quyết định khởi tố vụ án cho VKS, nh−ng Kiểm sát viên cũng không yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu để thực hiện kiểm sát việc khởi tố. Có tr−ờng hợp tài liệu thu thập đã có căn cứ để xác định hành vi của bị can có dấu hiệu phạm tội, nh−ng VKSND không phê chuẩn kịp thời nên không hỗ trợ cho CQĐT trong việc điều tra vụ án và làm rõ hành vi phạm tội của bị can làm ảnh h−ởng không nhỏ đến chất l−ợng giải quyết án. Nh− vụ án Bùi Viết H−ng nêu trên, kết quả điều tra chứng minh hành vi phạm tội của H−ng đã rõ, nh−ng VKS thị xã Sơn Tây không kịp thời yêu cầu Công an thị xã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Vụ án xảy ra từ ngày 5/12/2000 nh−ng đến 22/2/2001 Công an thị xã Sơn Tây mới ra quyết định khởi tố (quá thời hạn 2 tháng). Đến ngày 22/3/2001 ra 68 lệnh bắt tạm giam và có công văn đề nghị VKS phê chuẩn nh−ng trong hồ sơ không thể hiện việc VKS phê chuẩn hay không và lệnh bắt tạm giam có đ−ợc thi hành không. Việc làm thủ tục truy nã bị can không đảm bảo quy định, Công an thị xã ra quyết định truy nã nh−ng ch−a có lệnh truy nã. Do khởi tố vụ án chậm, nên bị can đã bỏ trốn gây nhiều khó khăn cho công tác điều tra. Một số VKSND huyện, thị xã do ch−a nắm vững h−ớng dẫn của các thông t− liên tịch để áp dụng vào việc giải quyết các vụ án cụ thể nên còn để xảy ra tình trạng khởi tố không đúng tội danh. Mặt khác, vẫn còn không thống nhất về nhận thức nên cùng một hành vi nh−ng ở địa ph−ơng này thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nơi khác thì không hoặc vận dụng ch−a đúng các tình tiết định khung, tình tiết định tội nên việc xử lý đối với ng−ời phạm tội còn ch−a nghiêm khắc. 2.3.3 Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng và thay thế hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn Biện pháp ngăn chặn quy định trong pháp luật TTHS Việt Nam là biện pháp nhằm mục đích ngăn ngừa ng−ời bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Thực tiễn cho thấy việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đã phát huy tác dụng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và đảm bảo quyền công dân. Tuy nhiên, vẫn còn để xảy ra những tr−ờng hợp oan sai. Do đó, khi quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét, đánh giá kỹ những căn cứ áp dụng để vừa đảm bảo việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đúng đối t−ợng, đúng thời hạn luật định, vừa tránh lạm dụng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thay thế hoạt động điều tra dẫn đến xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân. Qua hoạt động thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Tây thì tội phạm cố ý gây th−ơng tích đa số là loại tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, số l−ợng tội phạm rất nghiêm trọng không nhiều nh−ng tính chất thì rất phức tạp, có đông ng−ời tham gia. Vì vậy, biện pháp ngăn chặn th−ờng áp dụng là biện pháp cấm 69 đi khỏi nơi c− trú, việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam th−ờng là đối với các đối t−ợng phạm tội rất nghiêm trọng. Để vừa nâng cao chất l−ợng công tác phòng chống tội phạm, vừa đảm bảo quyền công dân, BLTTHS quy định trừ tr−ờng hợp bắt quả tang, bắt truy nã và đầu thú còn mọi tr−ờng hợp do CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn đều phải đ−ợc sự phê chuẩn của VKSND. Việc quy định nh− trên là cần thiết nhằm thể hiện rõ vai trò, trọng trách quan trọng và tạo điều kiện cho ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm pháp chế XHCN, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; đáp ứng đ−ợc tinh thần Chỉ thị 53 của Bộ Chính trị trong đó có nhấn mạnh: Oan sai trong việc bắt tạm giữ, tạm giam tr−ớc hết thuộc về trách nhiệm của VKSND. Từ năm 2000, khi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTHS đ−ợc Quốc hội thông qua có sự thay đổi cơ bản về các thời hạn áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và nhất là từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực. Toàn ngành kiểm sát Hà Tây đã có những chuyển biến tích cực trong hoạt động THQCT và KSĐT, nhất là đối với các vụ án cố ý gây th−ơng tích. VKS hai cấp đã làm tốt công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhằm đảm bảo việc bắt, tạm giữ, tạm giam đúng ng−ời, đúng tội, đúng pháp luật. Theo thống kê tổng hợp của ngành Kiểm sát Hà Tây cho thấy, VKSND hai cấp đã thực hiện kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn cụ thể nh− sau: - Việc áp dụng biện pháp bắt: Từ 01/12/1999 đến 31/5/2005, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Tây đã bắt tổng số 383 đối t−ợng có hành vi cố ý gây th−ơng tích chiếm 5,4% trong tổng số đối t−ợng hình sự bị bắt (383/7.114 ng−ời). Gồm: Bắt quả tang 137 đối t−ợng; bắt khẩn cấp 115 đối t−ợng, bắt theo lệnh truy nã, đầu thú là 56 đối t−ợng, ra lệnh bắt tạm giam 75 bị can. VKS hai cấp đã phê chuẩn bắt khẩn cấp 110 đối t−ợng, không phê chuẩn bắt khẩn cấp 5 tr−ờng hợp, phê chuẩn lệnh bắt tạm giam 70 bị can, không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam đối với 5 bị can. 70 - Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn (tạm giữ, tạm giam…): Tính từ ngày 01/12/1999 đến 31/5/2005, Cơ quan CSĐT hai cấp đã ra quyết định tạm giữ về hành vi gây th−ơng tích tổng số 308 đối t−ợng; gia hạn tạm giữ lần thứ nhất 283 đối t−ợng; gia hạn tạm giữ lần 2 có 169 tr−ờng hợp; ra lệnh tạm giam 232 bị can; trả tự do, chuyển xử lý hành chính 32 tr−ờng hợp, chiếm tỷ lệ 10,38% (32/308), trả tự do vì không có tội có 4 tr−ờng hợp, chiếm tỷ lệ 1,29% (4/308); khởi tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn khác 32 tr−ờng hợp, chiếm tỷ lệ 10,38% (32/308); chuyển nơi truy nã có 5 bị can, chiếm tỷ lệ 1,62% (5/308); Thi hành lệnh bắt tạm giam 70 bị can. VKS đã kiểm sát việc tạm giữ tổng số 308 đối t−ợng, phê chuẩn gia hạn tạm giữ lần một tổng số 283 đối t−ợng; phê chuẩn gia hạn tạm giữ lần hai tổng số 196 tr−ờng hợp; không phê chuẩn gia hạn tạm giữ 5 tr−ờng hợp (5/283, chiếm tỷ lệ 1,8%); phê chuẩn việc ra lệnh tạm giam của Cơ quan CSĐT tổng số 232 bị can (232/235 chiếm 98,7% số bị can CQĐT ra lệnh tạm giam); không phê chuẩn lệnh tạm giam 3 bị can (3/232, chiếm 1,3%). Nhìn chung, VKSND hai cấp đã làm tốt công tác này, thể hiện ở số l−ợng các bị can đã phê chuẩn tạm giam về tội cố ý gây th−ơng tích, sau đó đình chỉ điều tra đã giảm dần (năm 2000 CQĐT và VKS đã đình chỉ điều tra 25 bị can có tạm giam, trong đó có 11 bị can đình chỉ về tội cố ý gây th−ơng tích, nh−ng đến năm 2004 giảm xuống đình chỉ điều tra chỉ còn 3 bị can có tạm giam, trong đó có 2 bị can đình chỉ về tội cố ý gây th−ơng tích (giảm 81,8%). VKSND hai cấp đã nâng cao trách nhiệm và có nhiều tiến bộ trong hoạt động kiểm sát việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ.. Các hoạt động này đã đ−ợc thực hiện thận trọng và chính xác hơn. Vì vậy, đã giảm đáng kể các tr−ờng hợp bắt giữ theo thủ tục TTHS, nh−ng sau đó trả tự do xử lý hành chính. Theo số liệu thống kê của VKSND tỉnh Hà Tây cho thấy, năm 2000 bắt tạm giữ hình sự về tội cố ý gây th−ơng tích 49 đối t−ợng, đã trả tự do xử lý hành chính 6 tr−ờng hợp, chiếm tỷ lệ 12,2%; đến năm 2004 bắt hình sự tổng số 67 đối t−ợng, kết quả giải quyết đã trả tự do xử lý hành chính 5 tr−ờng hợp, chiếm tỷ lệ 7,5% (giảm 4,7% so với 71 năm 2000). Tuy nhiên, trong hoạt động kiểm sát việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, ở một số nơi, một số vụ án còn bộc lộ những thiếu sót, vi phạm làm ảnh h−ởng đến chất l−ợng, tiến độ giải quyết vụ án của các Cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và của VKS nói riêng đó là: - Công tác phân loại và xử lý ngay từ đầu đối với các tố giác, tin báo tội phạm nói chung, tội phạm cố ý gây th−ơng tích nói riêng vẫn còn ch−a đảm bảo yêu cầu. Tình trạng bắt giữ theo trình tự thủ tục TTHS, sau đó trả tự do xử lý hành chính mặc dù có giảm dần theo từng năm, nh−ng vẫn còn xảy ra nhiều. Đến nay việc bắt hình sự sau đó trả tự do xử lý hành chính về tội cố ý gây th−ơng tích vẫn còn chiếm tỷ lệ 7,5%. - Một số VKS còn thụ động trong việc chờ CQĐT trong những tr−ờng hợp đề nghị gia hạn điều tra, gia hạn tạm giam. Thậm chí có bị can trong vụ án đang KSĐT đã hết hạn tạm giam mà chính Kiểm sát viên thụ lý cũng không hay biết để yêu cầu CQĐT có đề nghị xin gia hạn tạm giam hay không và quyết định giải quyết tr−ờng hợp đó theo đúng quy định của pháp luật. Có tr−ờng hợp hết hạn điều tra và tạm giam đến hàng tháng, VKS cấp huyện, thị xã mới có công văn đề nghị VKSND cấp tỉnh gia hạn hoặc có tr−ờng hợp khi gia hạn tạm giữ, tạm giam không nghiên cứu hồ sơ tr−ớc để xác định sự cần thiết cũng nh− mục đích của việc gia hạn và đề ra những yêu cầu cụ thể khi gia hạn... - Trong một số tr−ờng hợp CQĐT còn vội vàng, thiếu chủ động, trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, do đó sẽ ảnh h−ởng đến chất l−ợng giải quyết vụ án nh−: Để bị can trốn, vi phạm thời hạn tạm giữ, tạm giam, thủ tục hồ sơ áp dụng biện pháp ngăn chặn thiếu đầy đủ và chặt chẽ. 2.3.4. Hoạt động kiểm sát điều tra cụ thể các vụ án hình sự cố ý gây th−ơng tích Hoạt động THQCT - KSĐT các vụ án hình sự là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Kiểm sát nhân dân. Trong phạm vi chức năng của mình, VKSND có nhiệm vụ phối hợp cùng các cơ quan chức năng thực 72 hiện tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự nói chung, tội phạm cố ý gây th−ơng tích nói riêng. Thời gian qua, ngành kiểm sát Hà Tây đã cùng các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm cố ý gây th−ơng tích. Theo thống kê tổng hợp của VKSND tỉnh Hà Tây từ ngày 01/12/1999 đến 31/5/2005 kết quả giải quyết nh− sau: - Cơ quan CSĐT đã thụ lý điều tra tổng số 1057 vụ án/1.276 bị can (khởi tố mới 991 vụ/1.196 bị can; án cũ 66 vụ/80 bị can). CQĐT đã kết thúc điều tra tổng số 1030 vụ án/1.227 bị can. Trong đó, đình chỉ điều tra 131 vụ/152 bị can; tạm đình chỉ 49 vụ/71 bị can; đề nghị truy tố 823 vụ/1.004 bị can. Trong số các vụ án tạm đình chỉ điều tra đã có 36 vụ án/ 48 bị can đ−ợc phục hồi điều tra để xử lý theo quy định pháp luật. VKS thụ lý 828 vụ án/1.019 bị can (án mới có 823 vụ/1.004 bị can, án tồn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfHoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Hà Tây.pdf
Tài liệu liên quan