Luận văn Hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội giai đoạn 2005-2010

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

Chương I: Lý luận chung về đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước 2

1. Khái niệm đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 2

1.1. Khái niệm đầu tư phát triển 2

1.2. Khái niệm nguồn vốn ngân sách nhà nước 4

2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước 5

3. Nội dung các hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước 8

4. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước 9

5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước 14

Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội 20

1. Điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội 20

2. Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội . 23

2.1. Đánh giá về nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội 23

2.2. Đánh giá cụ thể về nội dung hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội 24

2.2.1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng 27

2.2.2. Đầu tư cho giáo dục 31

2.2.3. Đầu tư cho hoạt động y tế 32

3. Đánh giá khái quát thực trạng hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 33

Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội 39

1. Định hướng đối với hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội 39

1.1. Định hướng về phát triển kinh tế xã hội Hà Nội nói chung 39

1.2. Định hướng đối với hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách. 40

2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước. 42

2.1. Giải pháp để huy động và sử dụng hiệu quả vốn ngân sách Nhà nước cho từng ngành lĩnh vực cụ thể 42

2.2. Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hóa huy động và sử dụng vốn ngân sách cho hoạt động đầu tư phát triển 43

2.3. Tăng cường công tác huy động vốn đầu tư ngoài vốn ngân sách Nhà nước để đầu tư có hiệu quả tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào vốn ngân sách 45

2.4. Nâng cao chất lượng dự án, đặc biệt là dự án khả thi 46

2.5. Về công tác chọn nhà thầu và khảo sát thiết kế 46

2.6. Nâng cao năng lực cán bộ quản lý vốn đầu tư và đào tạo đủ cán bộ cho công tác kế hoạch - đầu tư của thành phố Hà Nội trong những năm tới. 48

KẾT LUẬN 49

 

 

docx50 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2356 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội giai đoạn 2005-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống, đồng bộ và nhất quán thì sự nghiệp công nghiệp hoá sẽ thắng lợi, vốn đầu tư sẽ mang lại hiệu quả sử dụng cao. Nếu các chính sách kinh tế phù hợp với mô hình chiến lược công nghiệp hoá, tạo điều kiện cho sự thành công của công nghiệp hoá, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Công tác tổ chức quản lý vốn đầu tư và quản lý đầu tư xây dựng Công tác này không chỉ ở một địa phương riêng lẻ, mà nó được phần cấp từ trung ương đến địa phương. Hệ thống quản lý có tác động mạnh tới hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và kết quả của các dự án đầu tư cũng như công cuộc đầu tư nói chung. Tổ chức quản lý đầu tư xây dựng là một lĩnh vực rất rộng, bao gồm nhiều nội dung nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của vùng, của địa phương trong từng thời kỳ, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hóa, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao vật chất đời sống tinh thần của nhân dân. Sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư do Nhà nước quản lý, chống thất thoát lãng phí. Bảo đảm xây dựng dự án theo quy hoạch xây dựng yêu cầu bền vững, mỹ quan, bảo vệ môi trưưòng sinh thái, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong xây dựng, áp dụng công nghệ tiên tiến, đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý, bảo hành công trình xây dựng. Việc tổ chức quản lý chặt chẽ theo đúng trình tự xây dựng cơ bản đối với các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do các Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước và vốn do doanh nghiệp nhà nước. Quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước phải được phân cấp rõ ràng, chủ đầu tư, tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình đầu tư và xây dựng nhằm sử dụng có hiệu qủa vốn đầu tư. Theo đó, nội dung gồm: Phân loại các dự án đầu tư theo tính chất và quy mô đầu tư của các dự án thuộc các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, dự báo các cân đối vĩ mô. ở các doanh nghiệp cân đối và phản ánh đầy đủ các nguồn vốn khấu hao cơ bản, tích luỹ từ lợi tức sau thuế, các nguồn huy động trong và ngoài nước.Công tác giám định đầu tư các dự án cho cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư. Công tác xây dựng cơ chế chính sách về quản lý quy hoạch, quản lý đầu tư xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn quy phạm, quy chuẩn trong lĩnh vực xây dựng, quy trình thiết kế xây dựng, các quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng, hệ thống định mức chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí tư vấn, xây dựng đơn giá,... Công tác chuẩn bị đầu tư, thăm dò thị trường, thu nhập tài liệu, môi trường sinh thái, điều tra khí tượng thuỷ văn, lập dự án đầu tư, điều tra, khảo sát thiết kế,... Công tác đấu thầu xây dựng theo quy chế. Công tác tổ chức chuẩn bị thực hiện dự án, quản lý thi công xây lắp, triển khai thực hiện dự án đầu tư. Công tác kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn đầu tư. Công tác tạm ứng, thanh toán quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản hoàn thành. Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản theo trình tự xây dựng cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nhóm nhân tố này ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, trước hết là tác động đến việc tạo ra kết quả đầu tư. Về công nghiệp hóa: Đầu tư là cái đầu tiên và là điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển đất nước, muốn đất nước phát triển thì chúng ta phải tiến hành các công cuộc đầu tư.Công nghiệp hoá được coi là cái khởi đầu cho thời kỳ quá độ nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn, hiện đại. Vì vậy, chiến lược công nghiệp hoá sẽ ảnh hưởng đến các chính sách kinh tế khác. Lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá đúng sẽ tạo cho việc lựa chọn các chiến lược, các chính sách đúng đắn. Đó là điều kiện cực kỳ quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng lâu bền, tạo nhiều việc làm, ổn định giá cả, đảm bảo nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư và thiết lập một xã hội cộng đồng văn minh, biểu hiện của việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Các chiến lược công nghiệp hoá từ trước tới nay đã được các nhà kinh tế tổng kết thành 4 mô hình: công nghiệp hoá, hình thành trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Thực tế đã chứng minh, quốc gia nào lựa chọn mô hình chiến lược công nghiệp hoá đúng đắn thì sự công nghiệp hoá sẽ thành công, vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả, đẫn chứng như Hàn Quốc, Singapo, Nhật bản, Đài Loan... Các nước công nghiệp hoá mới là những nước đã thành công trong sự nghiệp công nghiệp hoá theo mô hình "công nghiệp hoá theo hướng thay thế nhập khẩu" của mình. Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chúng ta cần phải học hỏi các nước đi trước để vận dụng cho quá trình phát triển kinh tế của mình. Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội Điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Hà Nội Hà Nội là thủ đô đồng thời là thành phố đứng đầu Việt Nam về diện tích tự nhiên và đứng thứ hai về diện tích đô thị sau thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời cũng đứng thứ hai về dân số. Nằm giữa đồng bằng sông Hồng trù phú, Hà Nội đã sớm trở thành một trung tâm chính trị và tôn giáo đây là một lợi thế rất lớn cho sự phát triển kinh tế của Hà Nội cho đến bây giờ. *Vị trí địa lý: Hà Nội nằm chếch về phía Tây Bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Năm, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía TâySau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích 3.324,92 km², nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng. *Địa hình: Địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Nhờ phù sa bồi đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác. Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức, với các đỉnh như Ba Vì cao 1.281 m, Gia Dê 707 m, Chân Chim 462 m, Thanh Lanh 427 m, Thiên Trù 378 m... Khu vực nội thành có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng. *Khí hậu: Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Thuộc vùng nhiệt đới, thành phố quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Và do tác động của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa khá lớn. Một đặc điểm rõ nét của khí hậu Hà Nội là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Khí hậu Hà Nội cũng ghi nhận những biến đổi bất thường như lũ lụt hạn hán. Nguyên nhân của vấn đề này một phần là do biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của thành phố. *Dân số: Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 1.979 người/km². Mật độ dân số cao nhất là ở quận Đống Đa lên tới 35.341 người/km², trong khi đó, ở những huyện như ngoại thành như Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, mật độ dưới 1.000 người/km² *Đánh giá chung về kinh tế của thành phố Hà Nội: Sau một thời gian dài của thời kỳ bao cấp, từ đầu thập niên 1990, kinh tế Hà Nội bắt đầu ghi nhận những bước tiến mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của thành phố thời kỳ 1991–1995 đạt 12,52%, thời kỳ 1996–2000 là 10,38%. Từ năm 1991 tới 1999, GDP bình quân đầu người của Hà Nội tăng từ 470 USD lên 915 USD, gấp 2,07 so với trung bình của Việt Nam. Theo số liệu năm 2010, GDP của Hà Nội chiếm 12,73% của cả quốc gia và khoảng 41% so với toàn vùng Đồng bằng sông Hồng. Giai đoạn phát triển của thập niên 1990 cũng cho thấy Hà Nội đã có những thay đổi về cơ cấu kinh tế. Từ 1990 tới 2000, trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp tăng mạnh từ 29,1% lên 38% thì nông–lâm nghiệp và thủy sản từ 9% giảm xuống còn 3,8%. Tỷ trọng ngành dịch vụ cũng giảm trong khoảng thời gian này, từ 61,9% xuống còn 58,2%. Ngành công nghiệp của Hà Nội vẫn tập trung vào 5 lĩnh vực chính, chiếm tới 75,7% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, là cơ–kim khí, điện–điện tử, dệt–may–giày, chế biến thực phẩm và công nghiệp vật liệu. Bên cạnh đó, nhiều làng nghề truyền thống như gốm Bát Tràng, may ở Cổ Nhuế, đồ mỹ nghệ Vân Hà... cũng dần phục hồi và phát triển. Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng, trong khi con số của cả Việt Nam là 13,4 triệu. Hà Nội là một trong những địa phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án. Thành phố cũng là địa điểm của 1.600 văn phòng đại diện nước ngoài, 14 khu công nghiệp cùng 1,6 vạn cơ sở sản xuất công nghiệp. Nhưng đi đôi với sự phát triển kinh tế, những khu công nghiệp này đang khiến Hà Nội phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường. Bên cạnh những công ty nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hà Nội. Năm 2003, với gần 300.000 lao động, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 77% giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố. Ngoài ra, 15.500 hộ sản xuất công nghiệp cũng thu hút gần 500.000 lao động. Tổng cộng, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22% ngân sách thành phố và 10% kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội. Năm 2010 vừa qua cũng là lế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nôi. Trong Báo cáo đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 của Ban cán sự Đảng UBND Thành phố Hà Nội vào cuối năm đã cho biết: Tổng sản phẩm nội địa (GDP) ước tăng 11% so với năm 2009, cao hơn chỉ tiêu HĐND đề ra và tăng gấp 1,64 lần mức tăng bình quân chung của cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực (tỷ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp xây dựng tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần). GDP bình quân đầu người đạt khoảng 37 triệu đồng (tương đương 1.950 USD). Thu ngân sách Nhà nước đạt 97.428 tỷ đồng, tăng 13% so với dự toán Chính phủ giao và tăng 31,2% so với năm 2009. Huy động vốn đầu tư xã hội đạt 175.063 tỷ đồng, tăng 18,5% so với năm 2009. Công tác xã hội hóa đầu tư tiếp tục được đẩy mạnh, nhất là trong lĩnh vực xử lý rác thải, cải tạo môi trường các hồ và thực hiện các công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. 9 tháng đầu năm có 64 dự án sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng kinh phí gần 66.300 tỷ đồng, sử dụng 150 ha đất. Đánh giá: có thể thấy từ khi Đảng và Nhà nước có chính sách đổi mới nền kinh tế sau 25 năm đổi mới, kinh tế Hà Nội đã có sự phát triển và chuyển biến tích cực. Nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao và ngày càng tiến bộ. Sự phát triển này có được thành công là do đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước nói chúng và của Đảng bộ và UBND thành phố Hà Nội nói riêng, đó là do sự đầu tư phát triển đúng đắn của thành phố trong đó hiệu quả của nguồn vốn đầu tư phát triên sử dụng vốn ngân sách Nhà nước đóng vai trò quan trọng. Thực trạng hoạt động đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội Đánh giá về nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội Bảng 1: Tổng vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Hà Nội năm 2005-2010 Đơn vị : tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Khối lượng vốn đầu tư nguồn vốn ngân sách trên cả nước(tỷ đồng) 100200 107300 119500 180000 140000 Khối lượng vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách (tỷ đồng) 8880.0 7456.7 13376.9 12600 21500 23700 Tỷ trọng vốn đầu tư NSNN Hà nôi so với cả nước(%) 7.44 12.46 10.54 11.94 16.93 Nguồn số liệu từ Tổng cục Thống kê Từ bảng số liệu trên có thể thấy khối lượng vốn đầu tư ngân sách của thành phố Hà nội tăng qua các năm và luôn chiếm tỷ trọng cao trong nguồn vốn ngân sách nhà nước của cả nước. Về giá trị tuyệt đối từ năm 2006 đến năm 2010 khối lượng vốn đầu tư từ NSNN của Hà Nội tăng liên tục cao nhất là năm 2010 là 23700 tỷ đồng và thấp nhất là năm 7456,7 tỷ đồng chứng tỏ sự đầu tư mạnh mẽ của thành phố và trung ương vào sự phát triển của thành phố Hà Nội. Tỷ trọng của vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách của Hà Nội so với cả nước cũng chiếm luôn chiếm tỷ trọng cao, cao nhất là năm 2010 là chiếm 16,93% và thấp nhất là năm 2006 là 7,44%. Có thể thấy nhà nước ngày càng chú trọng vai trò phát triển của thành phố Hà Nội trong sự phát triển chung của nền kinh tế trong cả nước. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò phát triển chủ đạo trong nền kinh tế chứng tỏ là hai trung tâm kinh tế lớn nhất trên cả nước. Qua bảng số liệu trên cũng cho biết việc thực hiện đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhaí nước so với kế hoạch trong năm. Chỉ có 2 năm là năm 2005 và năm 2007 là vượt kế hoạch còn tất cả những năm còn lại thành phố đều không thực hiện được kế hoạch đề ra. Đây cũng là một trong những mặt hạn chế trong việc thực hiện đầu tư vốn NSNN của thành phố Hà Nội. Điều này xuất phát từ nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan. Nền kinh tế của thế giới bắt đầu từ năm 2008 rơi vào khủng hoảng ảnh hưởng đến nền kinh tế của Việt Nam khiến nhiều chỉ tiêu của cả nước và địa phương không thực hiện được đúng đến kế hoạch đề ra. Đồng thời mặt hạn chế này cũng có nguyên nhân từ khâu quản lý của thành phố còn nhiều mặt chưa tốt ảnh hưởng đến kết quả. Đánh giá cụ thể về nội dung hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Hà Nội Xét về cơ cấu các lĩnh vực trong hoạt động đầu tư sử dụng vốn ngân sách tại Hà Nội Bảng 2: Cơ cấu đầu tư các lĩnh vực trong nền kinh tế sử dụng vốn ngân sách tại Hà Nội Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Quy mô vốn ( tỷ đồng Tỷ trọng (%) Quy mô vốn ( tỷ đồng Tỷ trọng (%) Quy mô vốn ( tỷ đồng Tỷ trọng (%) Quy mô vốn ( tỷ đồng Tỷ trọng (%) Quy mô vốn ( tỷ đồng Tỷ trọng (%) Quy mô vốn ( tỷ đồng Tỷ trọng (%) Tổng số vốn ngân sách nhà nước 8880 100 7457 100 13377 100 12600 100 21500 100 23700 100 Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng 5665 63.8 4654 62.4 8307 62.1 7585 60.2 12298 57.2 12632 53.3 Đầu tư giáo dục 693 7.8 604 8.1 1097 8.2 1222 9.7 2107 9.8 2583 10.9 Đầu tư y tế 728 8.2 641.3 8.6 1110 8.3 1197 9.5 2129 9.9 2370 10 Đầu tư khoa học công nghệ 133 1.5 1193 1.6 321 2.4 478.8 3.8 301 1.4 497.7 2.1 Đầu tư văn hóa xã hội- thể dục thể thao 133 1.5 126.8 1.7 240.8 1.8 189 1.5 451.5 2.1 545.1 2.3 Đầu tư an ninh quốc phòng 151 1.7 216.2 2.9 307.7 2.3 100.8 0.8 258 1.2 308.1 1.3 Đầu tư quản lý nhà nước 302 3.4 179 2.4 521.7 3.9 478.8 3.8 1333 6.2 1872 7.9 Đầu tư hỗ trợ doanh nghiệp 107 1.2 111.9 1.5 173.9 1.3 226.8 1.8 451.5 2.1 450.3 1.9 Đầu tư khác khác 968 10.9 12.08 10.8 1298 9.7 1121 8.9 2172 10.1 2441 10.3 Nguồn số liệu : Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội Nhận xét chung: Nguồn vốn đầu từ ngân sách nhà nước được Hà Nội sử dụng ở rất nhiều các lĩnh vực trong nền kinh tế phục vụ cho sự phát triển của thành phố. Tất cả các lĩnh vực mỗi năm được đầu tư và ngày càng tăng. Cao nhất là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng luôn chiếm trên 50% ( cao nhất là năm 2005 chiếm 67,2%) tiếp theo là đầu tư vào giáo dục và y tế chiếm trên dưới 10%. Điều này phản ánh đúng xu hướng phát triển chung của thành phố và đất nước. Thành phố Hà Nội là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa xã hội của cả nước, vẫn đang trong quá trình phát triển, dân số ngày càng gia tăng cả về mặt gia tăng dân số tự nhiên và gia tăng cơ học nên việc phát triển cơ sở hạ tầng là điều tất yếu của quá trình phát triển. Có thể thấy nguồn vốn đầu tư được tập trung vào 3 lĩnh vực chính là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đầu tư cho giáo dục và đầu tư cho y tế. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng Hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng luôn chiếm tỷ trọng quan trọng trong hoạt động đầu tư của toàn thành phố. Vốn ngân sách được đầu tư cho hoạt động này luôn được tăng đều theo các năm, năm 2005 là 5665 tỷ đồng đến năm 2010 là 12632 tỷ đồng có năm 2006 và năm 2008 vốn đầu tư của ngân sách dùng cho hoạt động đầu tư này bị giảm, giai đoạn tăng mạnh mẽ nhất là năm 2008-2009. Vốn đầu tư trong giai đoạn 2005-2010 tăng lên hơn 2 lần có thể thấy sự đầu tư mạnh mẽ của thành phố vào hoạt động đầu tư này. Sự tăng giảm này có thể lý giải là thành phố Hà Nội có lợi thế là trung tâm kinh tế lớn của cả nước đang trong quá trình phát triển nền kinh tế, cơ sở hạ tầng cần được đầu tư cấp thiết phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế phát triến công nghiệp và dịch vụ đồng thời đáp ứng nhu cầu xã hội nâng cao cuôc sống của người dân, đặc biêt là tại Hà Nội dân số tăng nhanh, mật độ dân số cao, số lượng người nhập cư lớn gây nên áp lực cho thành phố về cơ sở hạ tầng là rất lớn. Năm 2006 và năm 2008 số vốn đầu tư của ngân sách dùng cho hoạt động phát triển cơ sở hạ tầng giảm ( năm 2006 là 4654 tỷ đồng, năm 2008 là 7585 tỷ đồng) lý do là do khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam điều này buộc chính phủ cắt giảm một số dự án không hiệu quả của các tỉnh địa phương trong đó có thành phố Hà Nội. Đến năm 2009 mặc dù nền kinh tế thế giới vẫn rơi vào khủng hoảng chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế các dự án cơ sở hạ tầng tiếp tục được triển khai, và đặc biệt năm 2010 Hà Nội kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội nên số vốn đầu tư ngân sách cho cơ sở hạ tầng cho các dự án phục vục đại lễ tăng lên. Nội dung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tập trung vào 3 lĩnh vực chính là -Đầu tư phát triển giao thông cầu đường -Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị -Đầu tư hệ thống cấp thoát nước -Đầu tư vào lĩnh vực khác Bảng 3: Bảng số liệu nội dung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước Đơn vị : tỷ đồng Số vốn đầu tư từ nguồn ngân sách 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Đầu tư phát triển giao thông cầu đường 3523 3027 4943 4356 7198 7323 Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị 2015 1525 3324 3024 4923 5078 Đầu tư hệ thống cấp thoát nước 137 102 178 159 212 324 Đầu tư vào lĩnh vực khác - 115 132 156 212 267 Nguồn số liệu : Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội Qua bảng số liệu trên ta thấy nội dung đầu tư phát triển giao thông cầu đường chiếm tỷ trọng cao nhất khoảng trên dưới 50% và tăng đều qua các năm, chiếm tỷ trọng cao thứ hai là nội dung đầu tư phát triển hạ tầng đô thị. Điều này phù hợp với xu thế và tình hình phát triển của thành phố Hà Nội giải quyết nhu cầu giao thông và nhà ở là nhiệm vụ cấp bách của thành phố hiện nay. -Nội dung đầu tư phát triển giao thông cầu đường Số lượng vốn đầu tư cho nội dung này tăng đều qua các năm. Từ năm 2005-2010 số lượng vốn đầu tư tăng lên gấp đôi từ 3523 tỷ đồng lên 7323 tỷ đồng. Trong 5 năm từ năm 2005-2010 Hà Nội đã triển khai thực hiện 525 dự án phát triển giao thông sử dụng vốn ngân sách trong đó có 54 dự án trọng điểm quốc gia, Trong các dự án phát triển giao thông bao gồm các dự án : xây dựng cầu đường mới, cải tạo đường cầu, phát triển điểm đỗ bến xe phục vụ giao thông. Tuy nhiên các dự án đầu tư phát triển giao thông hiện nay chỉ chú trọng vào khu nội thành như quận Ba Đình, quận Hoàn Kiếm, quận Cầu Giấy. Từ sau khi mở rộng địa giới hành chính năm 2008 thành phố Hà Nội có nhiều vùng sâu vùng xa như Sóc Sơn, Thạch Thất… giao thông chưa phát triển nhưng chưa được quan tâm và đầu tư. -Nội dung phát triển hạ tầng đô thị Nội dung đầu tư hạ tầng đô thi nhà ở số vốn đầu tư tăng đều qua các năm với năm 2005 là 2015 tỷ đồng đến năm 2010 là 5078 tỷ đồng. Hiện nay vấn đề hạ tầng đô thị nhà ở được Hà Nội đầu tư khoảng 25% nguồn vốn ngân sách nhà nước. Bao gồm các nội dung là đầu tư xây dựng các khu đô thị mới, hỗ trợ xây dựng các khu đô thị giải quyết nhà ở cho người có thu nhập thấp. Đặc biệt là thành phố đang tập trung vào nội dung xây nhà cho người có thu nhập thấp bắt đầu triển khai từ năm 2008 đến nay. Tuy nhiên lượng vốn ngân sách thành phố dùng cho phát triển hạ tầng đô thị nhà ở vẫn còn thấp chưa tương xứng vói tốc độ phát triển kinh tế của thành phố và nhu cầu nhà ở hiện nay. Mật đô dân số ngày Hà Nội hiện nay gần gấp 100 lần mật độ dân số chuẩn đứng đầu cả nước. Từ năm 2005 đến 2009, Hà Nội đã triển khai tới 80 dự án xây nhà tái định cư, những dự án này một phần do thành phố đầu tư trực tiếp, một phần theo phương thức đặt hàng mua bằng vốn ngân sách trong đó quỹ nhà tái định cư nữa do Quỹ Đầu tư phát triển thành phố hoặc Ban quản lý dự án thuộc nguồn vốn ngân sách (Sở Xây dựng) đặt ký hợp đồng mua như nhà chung cư 17T10-17T11 khu đô thị Trung Hòa - Nhân Chính, 80 căn hộ khu Pháp Vân - Tứ Hiệp (Thanh Trì), 780 căn khu đô thị Nam Thăng Long (Tây Hồ). Tuy nhiên chất lượng của các khu nhà tái định cư này còn kém, các hệ thống dịch vụ không đảm bảo thường xuyên bị người dân phàn nàn. Tuy nhiên quá trình giải quyết còn chậm trễ -Nội dung phát triển hệ thống cấp thoát nước Số lượng vốn đầu tư dùng cho nội dung đầu tư phát triển hệ thống cấp thoát nước được tăng đều qua các năm từ năm 2005 là 115 tỷ đồng đến năm 2010 là 267 tỷ đồng. Lượng vốn đầu tư từ ngân sách được tăng thêm nhanh do trận lụt lịch sử năm 2008 gây nên tổn thất nặng nề cho thấy những mặt yếu kém về hệ thống cấp thoát nước của thành phố. Ở bảng số liệu trên có thể thấy tỷ trọng vốn đầu tư cho nội dung này là thấp. Thành phố Hà Nội tập trung đầu tư xây dựng cải tạo hệ thống nước sạch và hệ thống thoát nước đô thị. Hai nội dung này được thành phố chú trọng như nhau. Bảng 4: Nội dung đầu tư hệ thống cấp thoát nước các vùng tại Hà Nội sử dụng vốn ngân sách giai đoạn 2005-2010 Đơn vị : tỷ đồng Đầu tư hệ thống cấp nước Đầu tư hệ thống thoát nước Nội dung đầu tư khác Khu vực ngoại thành 323 89 0.2 Khu vực nội thành 154 413 0.5 Nguồn số liệu: Sở tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội Qua bảng số liệu trên có thể thấy khu vực nội thành chủ yếu đầu tư hệ thống thoát nước còn khu vực ngoại thành chủ yếu đầu tư hệ thống cấp nước sạch. Sau khi mở rộng địa giới hành chính năm 2008, Hà Nội có nhiều vùng khó khăn chưa có nước sạch điều này yêu vầu nguồn ngân sách cần cho một khoản đầu tư cho hệ thống cấp nước sạch cho người dân. Còn khu vực nội thành do hệ thống giao thông nhà ở mặc dù vẫn đang phát triển và đầu tư nhưng vẫn còn nhiều bất cập ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư dành cho hệ thống thoát nước. Năm 2009, Sở Nông nghiệp & PTNT Hà Nội đã xây dựng chương trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn của thành phố giai đoạn 2009-2020. Dự kiến tổng kinh phí để thực hiện Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn khoảng 4.949 tỷ đồng, trong đó ngân sách thành phố là 1.133 tỷ đồng, ngân sách huyện 449 tỷ đồng, còn lại là do các hộ dân đóng góp và doanh nghiệp đầu tư. Để tăng lượng cung nước sạch cho vùng ngoại thành, thành phố Hà Nội triển khai mở rộng mạng lưới cấp nước tại các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì và Từ Liêm. Đồng thời đầu tư, nâng cấp các điểm khai thác nước tại khu vực này Đầu tư cho giáo dục Đơn vị: tỷ đồng Qua sơ đồ trên kết hợp với bảng số liệu bảng 2 cho thấy số vốn đầu tư từ ngân sách cho hoạt động giáo dục tăng trong giai đoạn 2005-2010 tăng gấp 4 lần từ năm 2005 là 693 tỷ đồng đến năm 2010 là 2583 tỷ đồng. Đồng thời cũng thấy được đầu tư cho giáo dục chiếm tỷ trọng thứ hai trong vốn đầu tư sử dụng NSNN chứng tỏ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục cho nền kinh tế. Hoạt động đầu tư cho giáo dục ngày càng được chú trọng phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế coi giáo dục là quốc sách hàng đầu phát triển nền kinh tế, đồng thời cũng thấy được đời sống người dân được nâng cao càng coi trọng sự phát triển của giáo dục. Tuy nhiên có thể thấy nguồn ngân sách cho hoạt động của thành phố vẫn còn eo hẹp do nguồn ngân sách có hạn và phải đầu tư cho các lĩnh vực quan trọng khác nữa. Hoạt động đầu tư chủ yếu là xây dựng mới và cải tạo các trường học. Năm 2010 sở giáo dục đào tạo đã triển khai hành loạt dự án phục vụ giáo dục. Ngành giáo dục Hà Nội đã triển khai 40 dự án với kinh phí gần 250 tỷ đồng. Trong đó, hơn 80 tỷ đồng dành cho chống xuống cấp trường học, gần 5 tỷ đồng cho chương trình chống mối ở hơn 30 trường, trên 64 tỷ đồng cho chương trình cải tạo nhà vệ sinh và nước sạch ở gần 60 trường. Kinh phí đầu tư cho xây dựng cơ bản năm học 2009-2010 cũng tăng hơn 100 tỷ đồng so với năm học trước, đạt 405 tỷ đồng Đầu tư cho hoạt động y tế Đơn vị: tỷ đồng Qua bảng số liệu trên có thể thấy số lượng vốn đầu tư từ ngân sách cho hoạt động y tế tăng đều qua các năm từ năm 2005 là 728 tỷ đồng đến năm 2010 là 2370 tỷ đồng, tăng lên gấp 3 lần. Mỗi năm thành phố sử dụng từ 10-15% vốn đầu tư ngân sách thành phố để đầu tư vào y tế. Tuy nhiên do thành phố Hà Nội tập trung nhiều bệnh viện tuyến trên, bệnh viện trung ương, ngoài áp lực bệnh nhân trong thành phố, các bệnh viện của thành phố Hà Nội còn phải chịu áp lực bệnh nhân ở các tỉnh lân cận. Chính vì thế tuy tốc độ gia tăng vốn đầu tư cho hoạt động này là khá nhanh nhưng vẫn chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của thành phố. Nội dung đầu tư là xây dựng bệnh viện mới, cải tạo các bệnh viện cũ, nâng cao số giường bệnh. Các cơ sở chữa bệnh lớn đều tập trung nội thành nên từ năm 2009 Hà Nội có những dự án triển khai xây

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDE AN NGOC.docx
Tài liệu liên quan