Môc lôc
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM 6
1.1. Khái quát về Hội đồng nhân dân 6
1.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân 19
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG TỪ 2004 ĐẾN NAY 31
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội tỉnh
Hải Dương 31
2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương từ 2004 đến nay 33
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG 64
3.1. Quan điểm chỉ đạo về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương 64
3.2. Giải pháp về tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương 67
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHỤ LỤC 94
97 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4843 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
song thực chất đó là cơ sở để quy kết hệ quả, tức là tiền đề để đi đến việc áp dụng các biện pháp chế tài giám sát.
Những chủ thể có quyền nêu ra vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm là: Thường trực HĐND, các ban HĐND, đại biểu HĐND, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh. Mặc dù theo quy định của pháp luật có nhiều chủ thể có quyền đặt ra vấn đề bất tín nhiệm nhưng việc trình HĐND xem xét bỏ phiếu tín nhiệm chỉ thuộc thẩm quyền của Thường trực HĐND.
Người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của mình trước HĐND, HĐND thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm. Trong trường hợp không được quá nửa tổng số đại biểu HĐND tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu ra người có trách nhiệm trình HĐND xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm người không được HĐND tín nhiệm.
Như vậy, quy định bỏ phiếu tín nhiệm theo pháp luật Việt Nam chỉ áp dụng đối với cá nhân chứ không áp dụng đối với tập thể. Đây là một đặc thù của giám sát quyền lực ở Việt Nam.
Theo khoản 7, điều 53 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, cơ sở để Thường trực HĐND tỉnh trình HĐND tỉnh bỏ phiếu tín nhiệm là theo đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu HĐND (tức là hơn 33% tổng số đại biểu). Theo phân cấp quản lý cán bộ của Đảng và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta, có lẽ hiếm khi nào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh tự mình đề nghị việc bỏ phiếu tín nhiệm. Nếu một chức danh nào đó do HĐND bầu bị vi phạm thì cấp ủy Đảng chỉ đạo HĐND miễn nhiệm để thay thế người khác.
Như vậy, hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Hải Dương tại kỳ họp chủ yếu được tiến hành dưới hai hình thức là xem xét báo cáo công tác và xem xét việc trả lời chất vấn. Nhiệm kỳ này, HĐND tỉnh đã có nhiều đổi mới phần nào thể hiện được vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, giảm bớt tính hình thức phát huy tinh thần dân chủ, thẳng thắn của các đại biểu, góp phần nâng cao chất lượng giám sát tại kỳ họp của HĐND tỉnh Hải Dương.
2.2.2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương giữa hai kỳ họp
* Hoạt động của Thường trực HĐND tỉnh Hải Dương năm 2004
Căn cứ vào Điều 53 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Điều 57 Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005, thì hoạt động giám sát của Thường trực HĐND bao gồm:
- Tổ chức Đoàn giám sát;
- Xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
- Xem xét kết quả giám sát của các Ban HĐND; tổng hợp kết quả của giám sát trình HĐND;
- Xem xét việc trả lời chất vấn trong trường hợp người bị chất vấn được HĐND cho phép trả lời bằng văn bản gửi đến Thường trực HĐND;
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, văn bản quy phạm pháp luật cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp để trình HĐND;
Căn cứ vào chương trình giám sát đã được HĐND thông qua, Thường trực HĐND giao Văn phòng HĐND xây dựng kế hoạch, thành lập Đoàn giám sát, tiến hành giám sát tại các cơ quan, đơn vị và các địa phương theo kế hoạch. Thường trực HĐND xem xét cho ý kiến về nội dung, kế hoạch giám sát, thành phần Đoàn giám sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và phân công thành viên của mình tham gia Đoàn giám sát. Tại nhiều cuộc giám sát ở các địa phương, đơn vị, Thường trực HĐND đã trực tiếp chủ trì và có ý kiến kết luận. Qua quá trình giám sát, Đoàn đã yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin tài liệu có liên quan đến nội dung giám sát, giải trình những vấn đề mà Đoàn giám sát quan tâm. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, của tổ chức, cá nhân; Đoàn giám sát đã kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lợi ích của nhà nước, của tổ chức, cá nhân bị vi phạm; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo qui định của pháp luật.
Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND giữa 02 kỳ họp tập trung chủ yếu vào tổ chức Đoàn giám sát và hoạt động xem xét việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân. Việc xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp tuy có tiến hành nhưng không thường xuyên. Dưới đây là tình hình hoạt động của Thường trực HĐND từ 2004 đến nay.
Thứ nhất, về hoạt động tổ chức Đoàn giám sát.
Năm 2004:
Căn cứ chương trình hoạt động giám sát của HĐND năm 2004 Thường trực HĐND tỉnh đã xây dựng chương trình hoạt động hàng quý, hàng tháng; tổ chức, điều hoà, phối hợp cùng với các Ban HĐND tỉnh triển khai tổ chức các cuộc giám sát tại các cơ quan, sở, ngành và đơn vị trong tỉnh trên các lĩnh vực kinh tế, ngân sách, văn hoá - xã hội, an ninh quốc phòng và chấp hành pháp luật ở địa phương. Từ 7/2004 đến 12/2004, Thường trực HĐND đã tổ chức trên 20 cuộc giám sát với các ngành ở địa phương để kiểm tra, đôn đốc thực hiện nghị quyết HĐND tỉnh. Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND đã tập trung vào các vấn đề như: tình hình thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2004 và giải pháp bố trí vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2005; tình hình thẩm định, chấp thuận đầu tư và quản lý dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh; tình hình thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp; tình hình thực hiện một số dự án phát triển nông nghiệp; tình hình triển khai thu thuỷ lợi phí theo quy định mới; tình hình thực hiện các dự án giao thông và thực hiện vốn đầu tư; tình hình thực hiện dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách.
Sau các cuộc giám sát, Thường trực HĐND tỉnh đã thực hiện việc thông báo ý kiến kết luận và kiến nghị đến các đơn vị, cơ quan liên quan về những vấn đề cần xử lý, tháo gỡ và bàn bạc với lãnh đạo UBND tỉnh để cùng phối hợp như:
- Xử lý nợ đầu tư xây dựng cơ bản và phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2005;
- Về thực hiện chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp xuất hiện một số vấn đề cần được sửa chữa để bổ sung cho phù hợp với thực tế;
- Vấn đề đào tạo nghề cho công nhân và nhà ở cho công nhân ở các khu công nghiệp;
- Xử lý vi phạm về sử dụng đất của một số dự án được cấp đất;
- Về việc nghiên cứu điều chỉnh mức thu thuỷ lợi phí đối với mỗi vùng, mỗi loại cây trồng theo mức giá mới;
- Về thực hiện chương trình về giống lúa sản xuất an toàn;
- Về việc sắp xếp lại quy mô hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở huyện Tứ Kỳ;
Năm 2005
Thực hiện Nghị quyết HĐND tỉnh về chương trình giám sát năm 2005, Thường trực HĐND tỉnh đã xây dựng kế hoạch, nội dung giám sát và quyết định thành lập 2 Đoàn giám sát chuyên đề về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách tập trung và quản lý, sử dụng đất đai. Đây là lần đầu tiên Thường trực HĐND tỉnh tổ chức giám sát chuyên đề sâu, dài ngày ở nhiều địa phương, đơn vị. Thường trực HĐND đã tập trung chỉ đạo hoạt động của các đoàn, coi đây là công tác trọng tâm hoạt động giám sát của Thường trực năm 2005. Các Đoàn giám sát đã tích cực triển khai thực hiện theo nội dung, kế hoạch giám sát, các Đoàn giám sát đã thực hiện 73 cuộc làm việc với các sở, ngành của tỉnh có liên quan đến hai lĩnh vực gồm 12 huyện, thành phố, 04 Ban quản lý dự án và một số chủ đầu tư, đơn vị nhà thầu, doanh nghiệp, kiểm tra thực địa tại một số công trình xây dựng cơ bản, dự án được giao đất.
Qua giám sát về công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, Đoàn giám sát nhận thấy hầu hết các chủ đầu tư đều thực hiện đầy đủ các quy trình, thủ tục đầu tư theo các quy định hiện hành, thời gian thẩm định dự án đầu tư đã cắt ngắn từ 30 ngày xuống còn 15 ngày/dự án. Các thủ tục về đấu thầu, chỉ định thầu đều được thực hiện nghiêm túc, công tác lập kế hoạch đầu thầu, hồ sơ mời thầu, mở thầu, xét thầu, công bố kết quả, phê duyệt kết quả đầu thầu đều được tiến hành đúng quy định. Tuy nhiên, chất lượng nhiều dự án còn thấp, lập dự án còn sơ sài mang tính định tính, chất lượng thấm định dự án chưa cao, chất lượng công tác tư vấn, thiết kế dự toán công trình còn thấp, có tới 90% số dự án công tác thiết kế, dự toán chưa đáp ứng được yêu cầu theo quy định hiện hành, nhiều công trình phải thay đổi, bổ sung thiết kế, dự toán nhiều lần.
Như vậy, qua hoạt động giám sát, các Đoàn giám sát phát hiện được những việc làm được, chưa được, từ đó đề xuất các kiến nghị với đơn vị chịu sự giám sát sửa đổi cho đúng với quy định của pháp luật hiện hành.
Báo cáo kết quả của Đoàn giám sát được trình bày tại kỳ họp cuối năm 2005.
Năm 2006
Thực hiện nghị quyết số 43/2005/NQ-HĐND về chương trình hoạt động giám sát của HĐND tỉnh năm 2006. Thường trực HĐND tỉnh đã tiến hành 02 cuộc giám sát chuyên đề về kết quả giải quyết kết luận sau thanh thanh tra và công tác quản lý, bảo vệ môi trường. Đoàn đã thực hiện 45 buổi làm việc tại các sở ngành có liên quan tại các khu công nghiệp: Nam Sách, Đại An, UBND các huyện, thành phố, UBND một số xã, phường, một số doanh nghiệp, công nghiệp đang hoạt động trrên địa bàn tỉnh, Bệnh viện đa khoa tỉnh, Viện quân y 7, một số trang trại chăn nuôi, thuỷ sản tập trung. Đoàn giám sát về công tác quản lý, bảo vệ môi trường đã báo cáo kết quả giám sát tại cuộc họp cuối năm. Qua giám sát, Đoàn giám sát đã đưa ra nhận định tổng quát về tình trạng môi trường như sau:
Về tổng thể, môi trường Hải Dương đã có sự ô nhiễm; tuy chưa đến mức nghiêm trọng, nhưng từng thành phần môi trường nước, không khí, đất ở một số khu vực, nhất là khu vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề đang có xu hướng ô nhiễm gia tăng, việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân hoá học, làm ô nhiễm nguồn nước và đất mà thường ở một số khu vực ô nhiễm đang ở mức báo động.
Đoàn giám sát chỉ ra nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm môi trường như xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của vấn đề môi trường, quản lý nhà nước về môi trường còn nhiều bất cập, yếu kém, việc chấp hành bảo vệ môi trường chưa nghiêm, cán bộ chuyên môn về môi trường vừa thiếu, vừa yếu, kinh phí cho hoạt động môi trường chưa được bố trí đầy đủ.
Từ đó, Đoàn kiến nghị đưa ra một số ý kiến đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền về bảo vệ môi trường tăng cường họat động quản lý nhà nước về môi trường, có biện pháp xử lý ngay một số cơ sở đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ban hành nghị quyết chuyên đề về bảo vệ môi trường.
Năm 2007
Trong năm 2007, Thường trực Hội đồng nhân tỉnh chỉ đạo thực hiện 02 Đoàn giám sát chuyên đề về “Hiệu quả sử dụng chương trình nguồn vốn quốc gia và chương trình mục tiêu của tỉnh 3 năm 2004-2006 và hiệu quả dạy nghề trên địa bàn tỉnh trong 3 năm 2004-2006". Kết quả hoạt động của 02 Đoàn giám sát đều được trình tại kỳ họp HĐND giữa và cuối năm 2007.
Đoàn giám sát về sử dụng nguồn vốn chương trình mục tiêu quốc gia và chương trình mục tiêu của tỉnh 3 năm (2004-2006) đã tiến hành giám sát qua báo cáo của 12 đơn vị, quản lý theo dõi và giám sát trực tiếp tại 30 đơn vị.
Việc giám sát tập trung vào 3 nội dung chính:
+ Việc thực hiện quyết định của Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư về chương trình mục tiêu quốc gia do trung ương phân bổ cho tỉnh.
+ Việc phân bổ cấp phát, quản lý, giải ngân và thanh toán quyết toán vốn.
+ Hiệu quả vốn từ mục tiêu chương trình mục tiêu.
Qua giám sát Đoàn nhận thấy:
+ Nguồn vốn được các đơn vị sử dụng đúng mục đích, việc thanh toán quyết toán đúng quy định của trung ương và của tỉnh.
+ UBND tỉnh đã thực hiện việc phân bổ đầy đủ đúng đối tượng sử dụng theo đúng các quyết định của Bộ tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư về vốn chương trình mục tiêu quốc gia, kinh phí chương trình mục tiêu được phân bổ và quản lý theo phân cấp ngân sách tới đơn vị trực tiếp quản lý chương trình, đầu tư vào các dự án mục tiêu trọng điểm về y tế, văn hoá, giáo dục, hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội, giải quyết việc làm phòng chống các tệ nạn xã hội...Tuy nhiên, việc sử dụng vốn của chương trình mục tiêu còn một số điểm cần khắc phục.
+ Kinh phí của chương trình mục tiêu chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, hiệu quả mang lại chương trình, dự án chưa cao, phương thức hỗ trợ và thanh quyết toán ở một số lĩnh vực còn rườm rà chưa thống nhất gây khó khăn cho đơn vị hưởng thụ.
+ Khối lượng vốn chương trình mục tiêu từ trung ương cấp so với nhu cầu ở các lĩnh vực còn quá thấp. Hơn nữa, ngân sách tỉnh không bố trí thêm nên phân bổ đến đối tượng quá ít và dàn trải, làm ảnh hưởng đến hiệu quả đồng vốn.
Đoàn giám sát đã đưa ra nhiều kiến nghị đối với Trung ương và địa phương để có biện pháp xử lý hiệu quả hơn nguồn vốn này.
Nhìn chung, hoạt động giám sát chuyên đề mà HĐND tỉnh đã tiến hành năm 2004 được đánh giá là hình thức giám sát có hiệu quả. Các đại biểu HĐND tỉnh và các chuyên gia được mời làm thành viên Đoàn giám sát hoặc tổ chuyên viên đã tích cực tham gia. Có nhiều sáng kiến để giám sát có hiệu quả hơn như hình thức phát phiếu điều tra với các tiêu chí phù hợp với nội dung cần giám sát. Do vậy Đoàn giám sát có điều kiện khảo sát sâu hơn, rộng hơn về các nội dung. Các kiến nghị đoàn đưa ra cơ bản chính xác kịp thời và được các đơn vị chịu giám sát tiếp thu thực hiện. Nhiều kiến nghị được xây dựng thành nghị quyết của HĐND tỉnh và được UBND tỉnh thể chế hoá để tổ chức thực hiện.
Từ năm 2005-2007, Thường trực HĐND tỉnh tổ chức mỗi năm 02 cuộc giám sát chuyên đề, riêng năm 2008 chỉ thực hiện 01 cuộc giám sát theo nghị quyết của HĐND tỉnh. Thường trực HĐND tỉnh thấy rằng khoảng cách từ kỳ họp giữa năm đến cuối năm rất ít thời gian, kỳ họp cuối năm lại phải thường xem xét nhiều nội dung nên thực hiện 01 cuộc giám sát chuyên đề về 6 tháng đầu năm là hợp lý.
Năm 2008
Thực hiện Nghị quyết HĐND tỉnh Thường trực HĐND tỉnh đã quyết định thành lập Đoàn giám sát để thực hiện việc thực hiện giám sát chuyên đề về công tác quản lý thuế. Kết quả giám sát đã được trình HĐND tỉnh tại kỳ họp thứ 12. Qua giám sát, Đoàn đã đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý thuế, tình hình chấp hành pháp luật về thuế của các đơn vị và người nộp thuế, kết quả thu nộp ngân sách trên địa bàn 3 tỉnh năm 2005-2007. Đồng thời chỉ ra được nhiều yếu kém, hạn chế trong công tác quản lý thu thuế, kiến nghị với ngành thuế nhiều biện pháp đảm bảo thu đúng, thu đủ các loại thuế phát sinh, góp phần tăng ngân sách trên địa bàn tỉnh.
Đoàn giám sát về “Công tác quản lý thuế trên địa bàn tỉnh” đã giám sát qua báo cáo thuế của 12 chi cục thuế huyện, thành phố và 43 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, giám sát trực tiếp trên 500 hộ kinh doanh cá thể tại một số huyện, thành phố, cục thuế tỉnh, cục thuế huyện..
Qua giám sát, Đoàn nhận thấy tình trạng thất thu thuế trên địa bàn tỉnh còn xảy ra khá phổ biến, hoạt động gian lận thương mại, kinh doanh trốn thuế diễn ra phức tạp với hành vi thủ đoạn tinh vi hơn. Theo báo cáo của chi cục quản lý thị trường 2 năm 2006-2007 đã phát hiện 794 vụ kinh doanh hàng lậu chiếm 26,57% tổng số vụ kiểm tra chi cục thuế thực hiện. Tình trạng nợ thuế, nợ ngân sách còn diễn ra khá phổ biến (còn tới 60% doanh nghiệp còn nợ thuế). Công tác hoàn thuế còn chậm chễ, công tác quản lý thuế còn yếu kém...Từ đó đoàn giám sát đã đưa ra những kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ tài chính, Tổng cục thuế, HĐND tỉnh, UBND tỉnh ngành thuế tỉnh, UBND cấp huyện, cấp xã các đối tượng nộp thuế từ đó nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế trên địa bàn tỉnh.
Thứ hai, xem xét giải quyết việc khiếu nại, tố cáo của công dân
Thường trực HĐND tổ chức tiếp công dân theo lịch hàng tháng. Xác định việc tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo phải gắn với hoạt động giám sát của HĐND. Hoạt động này giúp Thường trực HĐND có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu nắm bắt bản chất sự vật, góp phần đảm bảo cho công tác xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đúng trình tự, thủ tục, thấu tình, đạt lý. Đối với đơn thư gửi trực tiếp, Thường trực HĐND nghiên cứu kỹ từng vụ việc, chỉ đạo văn phòng phân loại và có văn bản chuyển cho cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết. Những vụ việc phức tạp tổ chức giám sát, xem xét trực tiếp. Qua giám sát, Thường trực HĐND có cơ sở giải thích cho công dân và kiến nghị những vấn đề cần giải quyết bảo đảm đúng pháp luật. Đối với đơn thư thể hiện bức xúc của công dân đã gửi nhiều lần, nhiều cơ quan thì giao Văn phòng lập danh sách đôn đốc, theo dõi kết quả giải quyết của các cơ quan và tổng hợp báo cáo gửi Thường trực.
Từ 2004 đến nay, Thường trực HĐND đã nhận các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân cụ thể như sau:
Năm 2004
Thường trực HĐND đã tiếp nhận 86 lượt đơn thư của công dân, đã chỉ đạo văn phòng gửi tới các cơ quan, cá nhân liên quan và giúp Thường trực HĐND phối hợp với các cơ quan chức năng theo dõi, đôn đốc, giải quyết. Trong số đơn thư gửi đến Thường trực HĐND thì đơn thư khiếu nại về đền bù giải phóng mặt bằng là chủ yếu, ngoài ra còn có đơn khiếu nại về giải quyết chế độ chính sách, về sai phạm quản lý đất đai và ngân sách ở cấp xã...
Năm 2005
Thường trực HĐND tỉnh đã tiếp nhận 148 đơn của công dân gửi đến và giải quyết các kiến nghị của 105 lượt công dân. Đến cuối năm cơ quan có thẩm quyền mới giải quyết được 37/92 đơn (40,26%). Đồng chí Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh trực tiếp tiếp công dân 4 ngày, trực tiếp giải thích tiếp thu và đôn đốc giải quyết các kiến nghị của công dân.
Năm 2006
Thường trực HĐND tỉnh nhận được 78 đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, Thường trực HĐND tỉnh đã chỉ đạo chuyển 67 đơn tới UBND tỉnh, các cơ quan chức năng xem xét giải quyết và trả lời công dân chiếm 85,9% số đơn nhận được. Tuy nhiên số các cơ quan phải trả lời đơn trách nhiệm chưa cao nên số đơn được giải quyết còn hạn chế, đến cuối năm mới có 13 đơn được giải quyết và trả lời về Thường trực HĐND tỉnh (đạt 19,4%).
Năm 2007
Thực hiện lịch tiếp công dân của lãnh đạo tỉnh, đồng chí Phó Chủ tịch HĐND tỉnh đã tiếp dân để giải quyết kiến nghị của cử tri. Thường trực HĐND tỉnh đã nhận được 48 đơn thư khiếu nại tố cáo. Nội dung đơn chủ yếu là khiếu nại, tố cáo về đất đai, 01 đơn khiếu nại về hiện tượng mất dân chủ ở xã Hiệp Sơn, Kinh Môn. Thường trực HĐND tỉnh cùng ông Tổ trưởng Tổ đại biểu HĐND tỉnh đã tổ chức 2 buổi làm việc trực tiếp tại UBND huyện Kinh Môn và xã Hiệp Sơn để giải quyết đơn của 03 cử tri ở xã. Đã rút ra kinh nghiệm với cơ quan chức năng của huyện Kinh Môn và xã Hiệp Sơn về quy trình cuộc tiếp xúc cử tri, phương pháp điều hành buổi tiếp xúc, thành phần mời dự tiếp xúc và quyền của cử tri đến dự tiếp xúc. Thường trực HĐND tỉnh đã trực tiếp gặp gỡ người khiếu nại để giải quyết và hướng dẫn công dân thực hiện đúng quyền khiếu nại tố cáo theo luật định.
Năm 2008
Thường trực HĐND tỉnh đã tiếp nhận được 68 đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Nội dung đơn công dân gửi đến hầu hết là khiếu nại, tố cáo về đất đai. Trong số 6 đơn chỉ có 33 đơn đủ điều kiện chuyển. Thường trực HĐND tỉnh đã nhận được 11 công văn trả lời của các cơ quan chức năng đạt 33% số đơn đã chuyển. Như vậy từ năm 2004 đến năm 2008 các đồng chí Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh đã trực tiếp tham gia tiếp công dân, tiếp nhận các ý kiến, kiến nghị của cử tri, tuy nhiên số buổi tiếp dân cũng chưa nhiều. Số đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến Thường trực HĐND và được phân loại, nếu đủ điều kiện thì gửi cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên mức độ giải quyết và trả lời đơn thư của các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa cao, chưa đáp ứng được nguyện vọng của cử tri trong tỉnh. Thường trực HĐND không là cơ quan giải quyết trực tiếp các đơn thư khiếu nại, tố cáo nên cũng gặp không ít những khó khăn. Thường trực HĐND tỉnh đã yêu cầu văn phòng bố trí chuyên viên phù hợp, tổng hợp, theo dõi tình hình đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân gửi đến thường trực HĐND. Tuy nhiên đây là lĩnh vực còn gặp nhiều khó khăn do các quy định của pháp luật còn chưa sâu rộng, thẩm quyền chưa cụ thể, thiếu các cơ chế đôn đốc, giải quyết các ý kiến, kiến nghị của nhân dân.
Thứ ba, xem xét văn bản qui phạm pháp luật của UBND cùng cấp, Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp, xem xét hoạt động giám sát của các Ban HĐND.
Đây là hình thức HĐND giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp và Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, tại các kỳ họp HĐND cũng như giữa hai kỳ họp, Thường trực HĐND, các ban HĐND và từng đại biểu HĐND phải thường xuyên thực hiện việc giám sát các văn bản thuộc thẩm quyền của mình nhằm có những kiến nghị, đề xuất kịp thời.
Các bước để HĐND xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản được quy định như sau:
Đại diện của Thường trực HĐND trình văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; HĐND thảo luận. Trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày bổ sung những vấn đề liên quan. Hệ quả của hoạt động này có thể dẫn đến hai khả năng: HĐND ra nghị quyết khi văn bản quy phạm pháp luật trên không trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên, hoặc quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
Đối với hoạt động xem xét văn bản qui phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp, chủ yếu do Ban pháp chế thực hiện với sự tham gia của Thường trực HĐND. Tuy nhiên, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, hoạt động xem xét văn bản qui phạm pháp luật không được tiến hành thường xuyên.
Để thực hiện vai trò chỉ đạo, điều hoà phối hợp hoạt động của các Ban, Thường trực HĐND tỉnh đã luôn quan tâm hoạt động giám sát của các Ban, dự các cuộc họp của Ban, định kỳ hàng tháng tổ chức họp giao ban Thường trực HĐND với các Ban và Văn phòng HĐND để tổ chức tốt các hoạt động giám sát, kịp thời phát hiện các vấn đề cần thiết, kiến nghị các cơ quan Nhà nước khắc phục, sửa chữa. Ngoài ra, Thường trực HĐND còn xem xét việc trả lời chất vấn trong trường hợp người bị chất vấn được HĐND cho phép trả lời bằng văn bản gửi đến Thường trực HĐND.
Tuy nhiên, hoạt động giám sát giữa hai kỳ họp của Thường trực HĐND tập trung chủ yếu vào hoạt động tổ chức Đoàn giám sát và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Các hoạt động này đều có đại diện các Ban HĐND tham gia.
* Hoạt động của các Ban HĐND nhiệm kỳ từ 2004 đến nay
Trong hoạt động giám sát, các Ban của của HĐND có nhiệm vụ giúp HĐND giám sát hoạt động của UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, hoạt động của TAND và VKSND tỉnh; giúp HĐND giám sát cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND tỉnh.
Theo qui định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003: Ban Kinh tế - Ngân sách phụ trách lĩnh vực kinh tế, ngân sách, khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường; Ban Văn hóa - xã hội phụ trách lĩnh vực y tế, giáo dục, xã hội, văn hóa, thông tin, thể thao và chính sách tôn giáo; Ban Pháp chế phụ trách lĩnh vực thi hành pháp luật, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính
Trước kỳ họp các Ban có nhiệm vụ thẩm tra các báo cáo, đề án, tờ trình ... do HĐND hoặc Thường trực HĐND phân công. Báo cáo thẩm tra của các Ban trình tại kỳ họp đã khắc phục dần tính hình thức, giúp HĐND nắm rõ thực chất hoạt động của UBND, các cơ quan chuyên môn của UBND, VKSND, TAND trong 6 tháng đầu năm, hoặc cả năm; là căn cứ để HĐND tỉnh thảo luận, thông qua các nghị quyết quan trọng, quyết định sự phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Đến nay, báo cáo thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu: xác nhận những kết quả mà UBND, các cơ quan chuyên môn của UBND, VKSND, TAND tỉnh đã đạt được; đồng thời thể hiện được tính phản biện, chỉ ra được những hạn chế thiếu sót, tìm ra được nguyên nhân và có những đề xuất kiến nghị yêu cầu UBND và các cơ quan hữu quan khắc phục. Quá trình thẩm tra đã phát hiện những khiếm khuyết của đề án, tờ trình, dự thảo nghị quyết để kịp thời chỉnh sửa ngay từ giai đoạn chuẩn bị trình, giúp HĐND thông qua các văn bản đó có chất lượng. Sự phản biện trong báo cáo thẩm tra sẽ giúp cho đại biểu HĐND nhìn nhận, đánh giá về các báo cáo một cách khách quan, không chỉ thấy được những kết quả mà còn thấy được những hạn chế, những khó khăn vướng mắc trong chỉ đạo và triển khai nhiệm vụ; không chỉ đánh giá các đề án và dự thảo nghị quyết một cách xuôi chiều, mà còn thấy được những vấn đề trái bất cập yêu cầu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Ví dụ: Báo cáo thẩm tra của Ban pháp chế về tờ trình của UBND tỉnh đề nghị thông qua Đề án công nhận thành phố Hải Dương là đô thị loại II, Ban đã thống nhất cách tính điểm nêu trong Tờ trình của UBND tỉnh và thuyết minh trong Đề án đề nghị công nhận thành phố Hải Dương là đô thị loại II. Áp theo tiêu chí đô thị loại II thì các tiêu chí cơ bản của thành phố Hải Dương như: chỉ tiêu kinh tế- xã hội, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, quy mô và mật độ dân số....nhìn chung đều đạt quy định, đủ điều kiện đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận thành phố Hải Dương là
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van.doc