MỤC LỤC
Trang phụ bìa Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU. 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỎI CUNG BỊ CAN. 8
1.1. Khái niệm và nhiệm vụ hỏi cung bị can. 8
1.1.1 Khái niệm hỏi cung bị can . 8
1.1.2. Nhiệm vụ của hỏi cung bị can. 10
1.2. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự trong hỏi
cung bị can . 14
1.2.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa . 15
1.2.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và nguyên tắc
bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng. 17
1.2.3. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc khác liên quan đến quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can. 19
1.3. Khái quát các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về hỏi
cung bị can . 22
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Bộ
luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988. . 22
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến
năm 2003. 24
1.4. Hỏi cung bị can của pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới
. 26
1.4.1. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa. 26
1.4.2. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga . 281.4.3. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên Bang Đức 29
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ HỎI CUNG BỊ CAN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
. 33
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hỏi cung
bị can. 33
2.1.1. Đối tượng của hỏi cung bị can . 33
2.1.2. Chủ thể của hỏi cung bị can. 34
2.1.3. Trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can. 36
2.1.4. Hỏi cung bị can là người chưa thành niên . 42
2.1.5. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can. 46
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành về hỏi cung bị can. 48
2.2.1. Những kết quả đạt được. 48
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. 53
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN. 68
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
hỏi cung bị can. 68
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can . 77
3.2.1. Hoàn thiện tổ chức Cơ quan điều tra và tăng cường số lượng Điều tra viên
phục vụ cho công tác điều tra . 77
3.2.2. Nâng cao vai trò Người bào chữa trong hoạt động hỏi cung bị can nói
riêng và toàn bộ quá trình điều tra vụ án nói chung. 82
3.2.3. Tăng cường công tác phối hợp, chế ước chặt chẽ giữa hai cơ quan Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trong hỏi cung bị can. . 84
3.2.4. Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất để phục vụ cho công tác điều tra. . 84
KẾT LUẬN. 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 89
99 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 11/09/2024 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u hỏi của bị can.
Mặc dù Điều 132 Bộ luật TTHS không có quy định, nhưng trong
trường hợp Kiểm sát viên tiến hành hỏi cung bị can thì phải thực hiện theo quy
định của Điều này.
Để đảm bảo tính khách quan của hoạt động hỏi cung, Bộ luật TTHS
quy định trong quá trình hỏi cung bị can, nghiêm cấm Điều tra viên và Kiểm
sát viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can. Đây được coi là một
trong những quy định quan trọng, bởi vì, trong quá trình hỏi cung bị can nếu
Điều tra viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can không những dẫn
đến không tôn trọng sự thật, làm mất tính khách quan của hoạt động hỏi cung
mà còn xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ.
Liên quan đến vấn đề này, Bộ Công an vừa ban hành thông tư số 28/2014/TT-
BCA về công tác điều tra hình sự trong Công an nhân dân. Đây là một văn
bản quy phạm pháp luật được đánh giá có nội dung chi tiết, cụ thể và có ý
nghĩa quan trọng đối với công tác điều tra của các đơn vị trong Công an nhân
dân. Trong văn bản quy phạm này, ngoài việc quy định về những việc ĐTV,
cán bộ điều tra không được làm một cách rõ ràng, chi tiết hơn hẳn các văn bản
pháp luật trước đó mà còn quy định khi tiến hành hoạt động điều tra trong đó
có hỏi cung bị can, nghiêm cấm Điều tra viên “bức cung hoặc dùng nhục hình
dưới bất kỳ hình thức nào” – Khoản 4 Điều 132 Bộ luật TTHS . Có thể thấy:
Bức cung là những hành vi của người tiến hành hoạt động điều tra áp
dụng những thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự
thật gây hậu quả nghiêm trọng [22, tr. 186]. Thực tiễn hoạt động điều tra cho
42
thấy, những thủ đoạn trái pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự
thật thường là những hành vi tác động đến thể chất và tâm lý của người bị
thẩm vấn và những hành vi trái pháp luật khác. Những hành vi phổ biến là:
- Những hành vi tra tấn gây đau đớn về thể xác, tổn hại về sức khỏe của
bị can, buộc họ phải khai sai sự thật theo ý chủ quan của Điều tra viên chưa
được kiểm tra xác minh.
- Những lời nói và hành vi đe dọa về tinh thần buộc bị can phải khai sai
sự thật theo ý chủ quan của Điều tra viên chưa được kiểm tra, xác minh...
Nhục hình là những hành vi tra tấn hoặc dùng hành vi thô bạo khác
gây đau đớn về thể xác hoặc tinh thần của con người trong hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án [22, tr.187]. Áp dụng các hình thức nhục hình
đối với bị can có thể nhằm mục đích bức cung, buộc bị can phải khai sai sự
thật hoặc cũng có thể nhằm mục đích trả thù bị can do động cơ thù tức
cá nhân
Hỏi cung bị can là một hoạt động điều tra do đó khi tiến hành phải đảm
bảo tính nhân đạo. Tính nhân đạo của hỏi cung là hệ thống những tiêu chuẩn
đạo đức, phẩm hạnh trong hành vi xử sự của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do
đó Điều tra viên, Kiểm sát viên bên cạnh việc cần nắm rõ những quy đinh của
pháp luật thì cần phải thường xuyên rèn luyện mình để có những phẩm chất
nghề nghiệp cần thiết như thái độ lịch sự, tôn trọng bị can, hành động có suy
nghĩ, luôn làm chủ được mình trong mọi tình huống. Khi áp dụng biện pháp
hỏi cung, chủ thể có thẩm quyền cần tuyệt đối tuân thủ những quy định
trên. Những trường hợp bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can gây hậu quả
nghiêm trọng cần được kiểm tra làm rõ và lập hồ sơ đề nghị truy tố những người có
hành vi phạm tội theo Điều 298, Điều 299 BLHS năm 1999.
2.1.4. Hỏi cung bị can là người chưa thành niên
BLHS của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đề cập người chưa
thành niên dưới hai phương diện. Một mặt, họ là đối tượng cần được bảo vệ
đặc biệt bằng luật hình sự khỏi những hành vi bị coi là tội phạm. Mặc khác,
43
người chưa thành niên còn là chủ thể của tội phạm. Khái niệm người chưa
thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự chỉ bao gồm những người đã đủ
14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi. Điều 12 BLHS quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải TNHS về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiệm trọng” [26].
Người chưa thành niên là người đang trong giai đoạn phát triển cả về
nhân cách, trí lực và thể lực. Đặc điểm của lứa tuổi này là chưa phát triển đầy
đủ về tâm sinh lí, đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách. Họ
chưa có đầy đủ khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm đối với hành vi
của họ, ngoài ra họ còn dễ bị tác động bởi tác động của các hành vi ngoài xã
hội. Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên chủ
yếu là giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm, tạo điều kiện để họ phát
triển một cách lành mạnh và dần dần trở thành một công dân hữu ích cho xã
hội nói chung và gia đình nói riêng. Thủ tục TTHS tất yếu cũng phải phù hợp
với lứa tuổi chưa thành niên.
Bộ luật TTHS Việt Nam hiện hành cũng dành hẳn một chương XXXII
để quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên và các ngành hữu
quan Trung ương cũng đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2011TTLT-
VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày12/07/2011 của Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động, Thương binh và
Xã hội để hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham
gia tố tụng là người chưa thành niên (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số
01/2011) trong đó có quy định về hỏi cung bị can là người chưa thành niên.
Hoạt động điều tra trong vụ án hình sự mà trong đó có hỏi cung bị can
người chưa thành niên cũng được tiến hành theo thủ tục chung do Bộ luật
TTHS quy định (xem Điều 131 Bộ luật TTHS và Điều 10 Thông tư liên tịch
số 01/2011) nhưng khi tiến hành cần phải chú ý những điểm sau: chỉ ra quyết
44
định khởi tố bị can khi người đó đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều
12 BLHS; trong trường hợp đã có quyết định khởi tố bị can là người chưa thành
niên thì khi áp dụng các biện pháp hỏi cung đối với họ nên có mặt đại diện gia
đình bị can, thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội khác.
Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra nhằm thu thập chứng cứ từ
lời khai của bị can. Đối với bị can là người chưa thành niên thì biện pháp điều
tra này đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên phải là người có những hiểu biết
cần thiết về đặc điểm tâm sinh lý của các em. Ngoài ra Điều 4 Thông tư liên
tịch số 01/2011 quy định về phân công người tiến hành tố tụng. Theo đó,
những người được phân công tiến hành tố tụng trong các vụ án này phải là
những người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm về điều tra, truy tố, xét xử
đối với người chưa thành niên hoặc người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học,
khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm
liên quan đến người chưa thành niên. Những kiến thức tâm lí giáo dục, đấu
tranh phòng chống tội phạm người chưa thành niên là tiêu chuẩn quan trọng
đối với người tiến hành tố tụng được phân công nhiệm vụ giải quyết vụ án mà
bị can là người chưa thành niên, đòi hỏi phải rất thận trọng trên cơ sở xem xét
đầy đủ, toàn diện các tình tiết liên quan, nhằm hạn chế ở mức tối đa những
ảnh hưởng tiêu cực có thể xảy ra với họ.
Theo quy định của pháp luật tố tụng, khi tiến hành hỏi cung bị can là
người chưa thành niên, họ có thể tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp mời người bào chữa (Điều 305 Bộ luật TTHS). Đại diện hợp pháp của
người chưa thành niên có thể tự mình bào chữa cho những người này. Trong
trường hợp bị can là người chưa thành niên hoặc đại diện hợp pháp của họ
không lựa chọn được người bào chữa thì CQĐT phải yêu cầu Đoàn luật sư
phân công văn phòng luật sự cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban
Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào
45
chữa cho thành viên của tổ chức mình. Xuất phát từ cơ sở tâm sinh lý của
người chưa thành niên, khi tham gia tố tụng, họ không thể tự đứng ra để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên với những vụ án mà bị can là
người chưa thành niên thì sự tham gia tố tụng của người tham diện hợp pháp,
đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức xa hội là rất quan trọng. Đó vừa là
quyền, vừa là nghĩa vụ bắt buộc để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người
chưa thành niên, giúp CQĐT giải quyết vụ án nhanh chóng, hiệu quả. Là
người gần gũi với bị can, hiểu được tâm lý, thái độ xử sự của họ nên sự có
mặt của đại diện gia đình bị can sẽ giúp đỡ cán bộ điều tra tạo được mối quan
hệ tin cậy, gần gũi, tín nhiệm đối với bị can, làm cho bị can không còn cảm
thấy lo sợ, hoảng hốt và có thể khai báo những tình tiết có liên quan đến
vụ án. Bên cạnh đó, thông qua đại diện gia đình, cán bộ hỏi cung sẽ nắm
bắt được điều kiện sinh sống, giáo dục, nguyên nhân, điều kiện phạm tội
của bị can là người chưa thành niên. Từ đó có những biện pháp hỏi cung
thích hợp.
So với Bộ luật TTHS năm 1998 (Khoản 2 Điều 276), quy định tại
Khoản 2 Điều 306 BLTTHS năm 2003 được sửa đổi, bổ sung đã bảo vệ được
quyền lợi của bị can là người chưa thành niên hơn. Cụ thể: Trong trường hợp
bị can là người từ đủ 14 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc
hỏi cung những người này phải có mặt đại diện gia đình, trừ trường hợp đại
diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng.
Nếu trước đây “chỉ trong trường hợp cần thiết” việc hỏi cung bị can tại
CQĐT mới phải có mặt đại diện gia đình bị can thì hiện nay trong bất kể
trường hợp nào nếu “bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là
người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong
những trường hợp cần thiết khác” thì hỏi cung những người này phải có mặt
đại diện gia đình. Tuy nhiên, có thể nhận thấy Bộ luật TTHS quy định còn
46
quá chung chung về căn cứ để thực hiện biện pháp này: “Trong trường hợp
cần thiết”. Cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp lí nào hướng dẫn cụ
thể như thế nào là trong trường hợp cần thiết mà “trường hợp cần thiết” “
hiện nay phụ thuộc vào đánh giá CQĐT. Do quy định chung chung như vậy
cho nên CQĐT rất lúng túng không biết nên hay không nên mời hoặc chấp
nhân yêu cầu của đại diện gia đình bị can. Mặt khác có nhiều trường hợp
CQĐT thường lấy lí do “để giữ gìn bí mật đảm bảo cho việc phát hiện điều tra
tội phạm” nên rất ít khi để gia đình bị can có mặt tham gia trong buổi hỏi
cung tại giai đoạn điều tra.
Thực tiễn điều tra những vụ án mà bị can là người chưa thành niên cho
thấy, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết vụ án hình sự, tuy
nhiên do Bộ luật TTHS chưa có sự phân định rõ ràng trách nhiệm giữa các
CQĐT và giữa CQĐT với VKS nên dẫn đến nhiều trường hợp các cơ quan
này cùng kiểm tra, hỏi cung dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm và bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội.
2.1.5. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can
Thực hành quyền công tố và kiểm sát giai đoạn điều tra trong đó có
hoạt động hỏi cung bị can là một trong những hoạt động quan trọng trong
công tác đấu tranh phát hiện tội phạm. Bởi vậy, hoạt động này cần phải bảo
đảm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Để đảm bảo thực
hiện quyền này, Điều 112 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định, VKS có quyền
đề ra yêu cầu điều tra. Đó là yêu cầu về những vấn đề cần điều tra làm rõ, tài
liệu chứng cứ cần phải được thu thập, được hiểu là mệnh lệnh của cơ quan
công tố đối với CQĐT trong quá trình điều tra. Ngay sau khi vụ án được khởi
tố, VKS có thể đề ra yêu cầu điều tra cho CQĐT để xác định chứng cứ về
hành vi phạm tội của bị can hay mở rộng điều tra vụ án. Hơn nữa, pháp luật
còn quy định: Kiểm sát viên được phân công tiến hành tố tụng phải đề ra yêu
cầu điều tra vụ án ngay từ khi có quyết định khởi tố vu án và trong suốt quá
47
trình điều tra. Yêu cầu điều tra phải cụ thể, toàn diện, làm rõ chứng cứ xác
định có tội và chứng cứ xác định vô tội những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ
của bị can.
Nhằm đảm bảo cho VKS thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động
hỏi cung bị can nói riêng, đảm bảo khả năng thực tế cho VKS có thể nắm rõ
toàn bộ quá trình hỏi cung một cách cụ thể, kịp thời kiểm tra, củng cố chứng
cứ phục vụ cho việc thực hiện chức năng của mình trong quá trình điều tra,
Bộ luật TTHS đã tăng cường vai trò của VKS. Trong hoạt động hỏi cung bị
can, việc kiểm sát hoạt động này được thực hiện như sau:
Kiểm sát viên cần chủ động bàn với Điều tra viên kế hoạch và đề ra yêu
cầu hỏi cung bị can ngay sau khi khởi tố bị can để làm rõ những vấn đề liên
quan đến tội phạm đã khởi tố. Nếu thấy việc hỏi cung chưa đạt yêu cầu hoặc
có vấn đề mới phát sinh thì Kiểm sát viên tiếp tục yêu cầu để Điều tra viên
hỏi cung làm rõ. Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc hỏi cung bị can và việc
lập biên bản hỏi cung bị can của Điều tra viên, bảo đảm việc hỏi cung và lập
biên bản hỏi cung bị can thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều
131 và Điều 132 Bộ luật TTHS năm 2003.
Trong quá trình điều tra vụ án, khi có đề nghị của CQĐT hoặc thấy bị
can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không thống nhất, lúc nhận tội, lúc
chối tội; bị can khiếu nại về việc điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác
thực trong lời khai bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt
nghiêm trọng thì Kiểm sát viên trực tiếp gặp, hỏi cung bị can. Trước khi hỏi
cung, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh
đạo đơn vị kiểm sát điều tra để xin ý kiến chỉ đạo và thông báo trước cho
Điều tra viên biết.
Sau khi kết thúc điều tra, nhận hồ sơ vụ án từ CQĐT chuyển sang,
Kiểm sát viên có thể trực tiếp hỏi cung bị can để kiểm tra tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án. Việc hỏi cung bị can lập biên bản hỏi cung bị can
48
do Kiểm sát viên tiến hành phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 131
và Điều 132 Bộ luật TTHS. Biên bản hỏi cung bị can của Kiểm sát viên phải
được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát một bản.
Như vậy, theo quy định của Bộ luật TTHS, thực hành quyền công tố
trong hỏi cung bị can là việc VKS thực hiện các hoạt động nhằm thu thập các
tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết khác
có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Kiểm sát việc hỏi cung
bị can là việc VKS thực hiện các hoạt động giám sát, mục đích nhằm bảo đảm
các hoạt động hỏi cung được tiến hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách
quan theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung của pháp luật quy định, không trực
tiếp ra quyết định, chỉ ra kiến nghị khi có dấu hiệu vi phạm trong quá trình hỏi
cung. Hai lĩnh vực này song song tồn tại từ khi khởi tố cho đến khi kết thúc
việc hỏi cung, giữa chúng tuy độc lập về chức năng, nhưng có tác động qua
lại lẫn nhau. Nếu làm tốt nhiệm vụ thực hành quyền công tố sẽ hỗ trợ đắc lực
cho kiểm sát hỏi cung. Như vậy, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động hỏi cung bị can tu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_hoi_cung_bi_can_trong_luat_to_tung_hinh_su_viet_nam.pdf