MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI DAO QUẦN
CHẸT Ở LÀNG THÀNH CÔNG .10
1.1. Cơ sở lý thuyết . 10
1.2. Khái quát về xã Lãng Công . 13
1.3. Người Dao Quần Chẹt ở làng Thành Công . 17
TiỂu kết chương 1.29
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT.30
2.1. Quan niệm về hôn nhân . 30
2.2. Tiêu chuẩn chọn vợ, chồng . 31
2.3. Quyền quyết định trong hôn nhân . 33
2.4. Tuổi kết hôn . 34
2.5. Các nguyên tắc và hình thức hôn nhân . 36
2.6. Cư trú sau hôn nhân . 39
2.7. Hôn nhân bị chi phối bởi những yếu tố vật chất . 40
2.8. Các trường hợp hôn nhân khác . 41
Tiểu kết chương 2 .43
Chương 3: PHONG TỤC TẬP QUÁN VÀ NGHI LỄ TRONG HÔN
NHÂN CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT .44
3.1. Nghi lễ trước đám cưới . 44
3.2. Nghi lễ trong đám cưới . 47
3.3. Lễ lại mặt (ùi mịn) . 54
3.4. Bước đầu so sánh hôn nhân của người Dao Quần Chẹt ở Thành Công và BaVì (Hà Nội) . 56
Tiểu kết chương 3 .59Chương 4: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ TRONG HÔN
NHÂN CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT .60
4.1. Đặc trưng tộc người qua hôn nhân . 60
4.2. Xu hướng trong hôn nhân . 62
4.3. Một số biến đổi trong hôn nhân . 63
4.4. Nguyên nhân của sự biến đổi . 68
4.5. Một số vấn đề đặt ra và khuyến nghị nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị hônnhân . 74
Tiểu kết chương 4.77
KẾT LUẬN .78
TÀI LIỆU THAM KHẢO .80
PHỤ LỤC
111 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 583 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hôn nhân của người Dao Quần Chẹt hiện nay ở làng Thành Công, xã Lãng Công, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chiếm đến 70% dân số người Dao
Quần Chẹt nên ngoài kết hôn với người khác dòng họ trong làng, thì người họ
Dương còn kết hôn với đồng tộc, khác tộc ở các địa phương khác hay tỉnh
khác như Tuyên Quang, Phú Thọ, huyện Ba Vì (Hà Nội)... Nam nữ thanh niên
thường gặp nhau qua các dịp lễ hội, lễ cấp sắc, đám chay và cả qua quá trình
làm việc tại các cơ quan, doanh nghiệp. Nói như vậy không có nghĩa là những
người trong cùng dòng họ không lấy được nhau, ví dụ như họ Triệu và họ
Dương là hai dòng họ lớn, có nhiều chi, tổ tiên khác nhau, hệ thống tên đệm
không giống nhau, nên vẫn được phép kết hôn với nhau.
Có thể nói, nguyên tắc ngoại hôn dòng họ luôn giữ vai trò quan trọng
đối với hôn nhân của người Dao Quần Chẹt, là nguyên tắc cơ bản để củng cố
sự thống nhất trong mỗi dòng họ, có nghĩa là người đàn ông không rời dòng
họ này sang dòng họ khác, còn phụ nữ khi lấy chồng thì trở thành thành viên
của dòng họ nhà chồng mình.
Trong cộng đồng người Dao Quần Chẹt ở làng Thành Công, cho đến
nay chưa có trường hợp nào vi phạm nguyên tắc hôn nhân này. Người Dao
Quần Chẹt cho rằng, nếu ai vi phạm nguyên tắc ngoại hôn dòng họ thì bị coi
là phạm tội loạn luân, sẽ bị ốm yếu và cuộc sống sẽ rất vất vả, bất hạnh.
2.5.3. Hôn nhân hỗn hợp dân tộc
Dù rằng trước đây thiết lập hôn nhân trong cùng nhóm Dao Quần Chẹt
được khuyến khích với nhiều lý do khác nhau như đã phân tích ở trên, tuy
nhiên ở làng Thành Công vẫn có một số trường hợp kết hôn với người khác
38
tộc, chủ yếu là người Dao Quần Chẹt kết hôn với người Kinh, người Cao Lan
cư trú cận kề. Trong thời gian khảo sát, nghiên cứu tại làng Thành Công, tác
giả luận văn đã ghi lại được một số trường hợp như ông Nguyễn Thế Vỵ, sinh
năm 1948, người Kinh, kết hôn với bà Phùng Thị Kiều, sinh năm 1953, người
Dao Quần Chẹt. Sau đó ông Vỵ đã ở rể, đổi họ sang họ vợ (Phùng Thế Vỵ),
trở thành thầy cúng trong làng Thành Công; ông Dương Văn Sản, sinh năm
1970, người Dao Quần Chẹt kết hôn với bà Hoàng Thị Kiều, người Cao Lan,
sinh năm 1973...
Theo số liệu năm 2014 của thầy cúng Dương Trường Sinh về việc so
tuổi trên địa bàn làng Thành Công thì có khoảng 50% thanh niên người Dao
Quần Chẹt kết hôn với người đồng tộc ở huyện Ba Vì (Hà Nội), Tuyên
Quang..., 30% kết hôn với người Kinh và 20% kết hôn với các dân tộc thiểu số
khác như người Cao Lan, Thái, Tày ở các xã lân cận, thậm chí ở các tỉnh khác.
Ngày nay, nền kinh tế thị trường phát triển rộng khắp, quan hệ trao đổi
buôn bán ngày một gia tăng tạo điều kiện và thúc đẩy mạnh mẽ sự giao lưu
văn hóa, nhất là sự gặp gỡ, tiếp xúc giữa những người khác dân tộc. Người
Dao Quần Chẹt ở làng Thành Công, nhất là thanh niên tham gia ngày càng
mạnh mẽ các hoạt động sản xuất hàng hóa và các hoạt động kinh tế ở ngoài
phạm vi làng của họ. Tính chất của các hoạt động đó đòi hỏi những quan hệ,
giao lưu, gặp gỡ với những đối tác đa dạng hơn rất nhiều so với kinh tế truyền
thống, tự cung tự cấp trước đây. Thanh niên, nhất là nữ, làm việc trong các
khu công nghiệp có nhiều cơ hội tiếp xúc xã hội rộng rãi hơn, với thanh niên
các dân tộc khác, nhất là người Kinh. Các điều kiện và môi trường mới không
những làm tăng sự tiếp xúc liên dân tộc mà còn là nguyên nhân của sự tăng
lên tỷ lệ kết hôn của người Dao Quần Chẹt với những người khác dân tộc
trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, mặc dù kết hôn hỗn hợp dân tộc đang là xu thế như đã trình
bày, nhưng cũng có những giới hạn, dù chỉ là quan niệm, không bị xóa bỏ. Đó
là trường hợp "kiêng" kết hôn với người Dao Tiền, dù cho địa bàn sinh sống
39
của hai nhóm gần nhau. Họ giải thích kiêng kỵ này bằng quan niệm "anh em"
mang tính truyền thuyết giữa hai nhóm. Theo đó, trước đây, khi di cư vào
Việt Nam, người Dao Quần Chẹt là "anh" và người Dao Tiền là "em", và lẽ
đương nhiên anh em thì không thể kết hôn với nhau [51, tr.135]. Tập quán
không trao đổi hôn nhân này trước đây được các thành viên của cả hai nhóm
tôn trọng, với quan niệm sự vi phạm sẽ không mang lại cuộc sống hạnh phúc
cho đôi vợ chồng và gia đình họ. Thực tế cho thấy, trong làng Thành Công có
trường hợp ông Triệu Văn Kiên, người Dao Quần Chẹt kết hôn với bà Đặng
Thị Dương, người Dao Tiền năm 1978, cuộc sống của họ không hạnh phúc,
đến năm 2003 đã ly hôn. Sau đó ông Kiên chung sống với bà Nguyễn Thị
Năm, người Kinh, nhưng không đăng ký kết hôn.
Theo tập tục hôn nhân, nếu chú rể là người Dao Quần Chẹt thì các nghi
lễ hôn nhân diễn ra ở làng Thành Công tuân thủ tập tục của người Dao Quần
Chẹt, còn những nghi lễ diễn ra tại nhà cô dâu thì tuân theo truyền thống dân
tộc của cô dâu. Như vậy, khi nhà trai mang lễ vật sang nhà gái, phải tuân theo
phong tục của dân tộc bên nhà gái, ngược lại, khi cô dâu về nhà trai phải mặc
trang phục nghi lễ truyền thống của dân tộc của chú rể. Nhưng với trường hợp
cô dâu là người Dao Quần Chẹt, chú rể là người Kinh nếu không ở rể thì
phong tục sẽ theo người Kinh, còn với các tộc người khác thì theo phong tục
của dân tộc ấy.
2.6. Cư trú sau hôn nhân
Cũng như các nhóm Dao khác, hình thức cư trú phổ biến sau hôn nhân
của người Dao Quần Chẹt ở làng Thành Công là hôn nhân một vợ một chồng
và cư trú bên chồng, với các hình thức sau:
- Cư trú với gia đình nhà chồng: Sau khi kết hôn, đôi vợ chồng trẻ sống
cùng gia đình bên chồng dưới sự điều hành của bố mẹ chồng. Theo thời gian,
khi bố mẹ chồng đã cao tuổi, họ được trao quyền làm chủ gia đình đồng thời
có trách nhiệm chăm sóc bố mẹ già. Hình thức cư trú này không hẳn là lựa
chọn của cặp vợ chồng trẻ, mà chủ yếu là sự lựa chọn của bố mẹ chồng trên
40
cơ sở truyền thống phụ hệ. Đa số bố mẹ các gia đình người Dao Quần Chẹt ở
làng Thành Công lựa chọn sống chung với người con trai trưởng, nhưng cũng
có gia đình lựa chọn con trai thứ hoặc con trai út.
- Cư trú riêng: Thông thường sau khi cưới, hai vợ chồng sống chung
cùng gia đình bên chồng một thời gian. Vài ba năm sau, cặp vợ chồng trẻ đã
có con và tách ra để tạo lập gia đình riêng.
Ngoài ra, dù hiếm gặp nhưng hình thức cư trú bên nhà vợ cũng tồn tại ở
người Dao Quần Chẹt làng Thành Công, thường liên quan đến một số hoàn
cảnh đặc biệt, như bố mẹ vợ không có con trai hoặc các em còn nhỏ. Hình
thức ở rể này xuất phát từ nhu cầu của gia đình cô dâu và phải được sự đồng ý
của gia đình chú rể cũng như của chính chú rể. Trong trường hợp này, nhà gái
mang lễ vật sang nhà trai để xin cưới con rể. Người con rể được quyền thừa
kế tài sản và có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên của vợ2 ( như trường hợp của
ông Phùng Thế Vỵ và bà Phùng Thị Kiều đã nêu ở trên).
2.7. Hôn nhân bị chi phối bởi những yếu tố vật chất
Người Dao quan niệm rằng, khi con gái đi lấy chồng gia đình mất một
lao động, để bù lại, nhà trai phải trả cho nhà gái một lượng của cải nhất định.
Đây là sự biểu hiện hôn nhân bị chi phối bởi những yếu tố vật chất thể hiện
qua thách cưới bằng tiền và lễ vật. Đồng thời, việc nhà trai chịu trách nhiệm
mọi chi phí làm tiệc cưới mời họ hàng nhà gái mang ý nghĩa nhà trai tỏ lòng
biết ơn, mong đền đáp phần nào công lao nuôi dưỡng của bố mẹ cô gái. Theo
phỏng vấn hồi cố, trước đây ở làng Thành Công, lễ vật thường là 120 kg thịt
lợn, 10 kg gạo nếp, 10 kg gạo tẻ, 40-60 đồng bạc trắng, 8 hũ rượu (mỗi hũ
khoảng 3 lít), trầu cau, chè, thuốc lào Ngày nay, lễ vật được hai bên gia
đình thoả thuận sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế của mỗi bên. Nhà trai
2 Ở người Dao Quần Chẹt còn có hình thức "ở rể tạm thời", thường được áp dụng ở một số gia đình có con
trai nhưng vào thời điểm người chị kết hôn thì các em còn nhỏ. Nhà gái yêu cầu vợ chồng mới sống chung
với gia đình một số năm, tuỳ theo trường hợp. Khi các em của vợ đã lớn, đôi vợ chồng lập gia đình riêng, họ
được chia tài sản, thóc lúa, dụng cụ lao động, vật dụng thường ngày... Tuy nhiên, ở làng Thành Công hiện tại
không quan sát thấy trường hợp ở rể tạm thời nào.
41
cũng thường giảm bớt lễ vật và đưa cho nhà gái một khoản tiền để làm cỗ mời
họ hàng nhà gái.
Nghi lễ, thủ tục hôn nhân của các con luôn do cha mẹ hai bên quyết
định, nhưng có một người đàn ông đại diện nhà gái, gọi là (mùi te) đóng vai
trò rất quan trọng. Mùi te tham gia góp ý kiến và đại diện cho họ hàng nhà gái
trong việc thoả thuận lễ vật, sắp xếp các nghi thức, thay mặt bố mẹ cô dâu
trong việc tổ chức đám cưới... Người đảm nhiệm vai trò mùi te được lựa chọn
theo tập tục. Nếu cô dâu là con gái cả của gia đình thì mùi te sẽ là một người
anh em của mẹ cô dâu; nếu là con gái thứ 2 thì mùi te sẽ là anh rể của cô dâu;
nếu là con gái thứ 3, mùi te sẽ là người đàn ông bất kỳ trong nội tộc. Nếu gia
đình có nhiều đàn ông thì dễ dàng chọn được một mùi te thích hợp, nhanh
nhẹn, tháo vát, biết đối đáp với nhà trai, am hiểu phong tục của dân tộc. Đi
cùng mùi te bao giờ cũng là vợ ông ta với vai trò mùi te nhây, là người dẫn dắt
cô dâu trong suốt quá trình diễn ra hôn lễ.
Người Dao Quần Chẹt có truyền thống xây dựng gia đình một vợ - một
chồng. Tuy nhiên, những đàn ông giàu có không có con, hoặc không có con
trai, thường lấy vợ lẽ, với sự đồng ý của người vợ cả, ví dụ như trường hợp
ông Triệu Vân Nam (45 tuổi) ở làng Thành Công. Bà Dương Thị Thuý (42
tuổi) là vợ ông Nam, sau 20 năm kết hôn không sinh con, ông Nam đã lấy vợ
lẽ là bà Nguyễn Thị Nghi (dân tộc Kinh) và sinh được 3 người con. Bà Thúy
cũng thường chăm sóc chu đáo các con riêng của ông Triệu Vân Nam.
2.8. Các trường hợp hôn nhân khác
- Trường hợp có thai trước khi cưới
Trong xã hội truyền thống, quan hệ tình dục khi chưa kết hôn hoàn toàn
bị nghiêm cấm và bị cộng đồng người Dao Quần Chẹt lên án gay gắt, vì quan
niệm rằng, nếu để xảy ra điều này thần linh sẽ nổi giận, ảnh hưởng đến mùa
màng và đời sống của nhân dân trong làng. Gia đình có con gái mang thai khi
chưa kết hôn phải cung cấp gạo và nấu cơm mời người đến cúng thổ công thổ
địa tại miếu làng và thết đãi cộng đồng, Ngày nay phạt vạ vẫn cúng ở miếu
42
nhưng việc mời già làng, trưởng thôn, dân làng đến ăn phạt vạ diễn ra ở nhà
cô gái. Còn chàng trai gây ra cái thai thì bị phạt một con lợn, rượu Nếu
chàng trai không thừa nhận cái thai thì sẽ bị trát gừng muối, bị đánh 120 roi
Sau khi phạt vạ xong, nếu chàng trai đồng ý lấy cô gái thì hôn lễ được tổ chức
bình thường. Theo quan niệm của người Dao Quần Chẹt, người con gái có
thai ngoài hôn nhân là do gia đình không làm tròn trách nhiệm dạy dỗ con cái,
do vậy, gia đình cô gái phải chịu trách nhiệm nhiều hơn gia đình chàng trai.
Hiện nay, các khoản phạt vẫn không thay đổi, tuy nhiên, người con trai không
còn bị phạt đánh đòn như trước đây nữa.
Trường hợp nếu không biết bố đứa trẻ là ai thì nhà gái hoàn toàn chịu
phạt vạ, cô gái bị cả làng chê cười. Những người chửa hoang như thế bị khinh
ghét, thường bị đưa ra rìa rừng, làm lều đẻ ở đó, sau khi sinh đẻ xong mới đưa
về nhà; người đỡ đẻ phải là người trong gia đình vì sự sinh đẻ này cần phải
giấu kín. Gái chửa hoang coi như uế tạp, là nguyên nhân của hoả hoạn, mất
mùa, phải làm lễ cúng để xua đuổi vía xấu, bảo vệ sự bình an cho cộng đồng.
- Người góa vợ, góa chồng
Phong tục của người Dao Quần Chẹt cho phép phụ nữ góa chồng tái
giá, đàn ông góa vợ có thể lấy vợ kế. Tuy nhiên, để có thể tái hôn, người goá
phải tổ chức làm chay, hoặc ít nhất cũng phải hoàn tất công việc làm mộ cho
người quá cố, thường là sau 3 năm. Ở làng Thành Công có một trường hợp
lấy vợ kế, đó là ông Dương Văn Sơn (50 tuổi), sau khi vợ mất 4 năm mới lấy
vợ kế.
Lễ cưới của những trường hợp này đơn giản hơn nhiều so với những
trường hợp hôn nhân bình thường. Thường thì hai bên gia đình cúng báo tổ
tiên và làm mâm cỗ mời họ hàng thân thích.
43
Tiểu kết chương 2
Hôn nhân không chỉ nhằm duy trì nòi giống mà nó còn phản ánh những
đặc điểm văn hoá tộc người. Đối với người Dao Quần Chẹt ở làng Thành
Công, hôn nhân vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ đối với gia đình, để có người
nối dõi tông đường và khẳng định vị thế của dòng họ. Đồng bào cũng quan
niệm rằng, có lập gia đình mới là người trưởng thành, mới được mọi người coi
trọng, được tham gia đóng góp ý kiến trong những cuộc hội họp của làng.
Ngược lại, những ai không lấy vợ, lấy chồng sẽ bị coi là không hoàn thiện và bị
chê cười, ít có vai trò trong cuộc sống sinh hoạt của dòng họ và cộng đồng.
Nếu như trước đây, người Dao Quần Chẹt ở làng Thành Công đề cao
tiêu chuẩn “môn đăng hậu đối”, hợp tuổi, hôn nhân do cha mẹ sắp đặt thì ngày
nay trai gái được tự do tìm hiểu, sau đó mới thông qua ý kiến của cha mẹ, dòng
họ. Có thể nói, hôn nhân ngày nay được xây dựng trên cơ sở tình yêu và yếu tố
hoà hợp tính tình là tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu của các bạn trẻ.
Các quy tắc trong hôn nhân truyền thống vẫn được duy trì như ngoại
hôn dòng họ, nội hôn tộc người, cư trú bên nhà chồng. Nền kinh tế thị trường
phát triển, giao lưu, tiếp xúc giữa cộng đồng người Dao Quần Chẹt với người
Kinh và một số tộc người khác ngày càng mở rộng nên ngày càng có nhiều
cuộc hôn nhân hỗn hợp dân tộc trên địa bàn làng Thành Công. Mục đích
chính trong hôn nhân của người Dao Quần Chẹt ở làng Thành Công vẫn là
sinh con để nối dõi tông đường, tăng thêm nhân lực cho gia đình, dòng họ.
Trước đây, hôn nhân mang nặng tính chất mua bán thể hiện qua việc
thách cưới khá cao, ngày nay các lễ vật chỉ mang yếu tố tượng trưng. Nhà trai
thường đưa cho nhà gái một khoản tiền theo thoả thuận của hai bên gia đình.
Tuy nhà trai không đóng vai trò chủ đạo trong việc làm tiệc cưới mời họ hàng
nhà gái mà chỉ mang tính chất phối hợp nhưng vẫn thể hiện được sự gắn kết,
tinh thần trách nhiệm giữa hai bên gia đình.
44
Chương 3
PHONG TỤC, TẬP QUÁN VÀ NGHI LỄ TRONG HÔN NHÂN
CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT
Người Dao Quần Chẹt quan niệm rằng, hôn nhân không những là việc hệ
trọng trong cuộc đời mỗi người, mà còn quan trọng đối với gia đình, dòng họ.
Theo tác giả Hoàng Thị Thu Hường, hôn nhân truyền thống của người
Dao Quần Chẹt trải qua 8 bước lễ nghi theo thứ tự như sau: Lễ dạm hỏi, lễ
thông đường, lễ định cha mẹ, lễ xin định lễ vật, lễ xem ngày và định ngày
cưới, lễ mời ông mờ, lễ cưới, lễ lại mặt [29, tr. 26-30]. Ngày nay, trong sự
phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phong tục tập quán, nghi lễ của người
Dao, trong đó có nhóm Dao Quần Chẹt nói riêng, đã có nhiều thay đổi. Tuy
nhiên, các bước nghi lễ được coi là quan trọng vẫn được các gia đình người
Dao Quần Chẹt tuân thủ. Có thể xếp các nghi lễ này theo 3 nhóm: Các nghi lễ
trước đám cưới, đám cưới và các nghi lễ sau đám cưới.
3.1. Nghi lễ trước đám cưới
3.1.1. Lễ dạm hỏi (nại chìn cha)
Trong hôn nhân truyền thống của người Dao Quần Chẹt ở làng Thành
Công, bố mẹ chú rể là người tìm và chọn con dâu cho con trai mình. Trong lễ
dạm hỏi, thành phần tham dự chỉ có bố mẹ chú rể và lễ vật mang sang nhà gái
cũng chỉ có vài lạng thuốc lào. Mục đích chính của nghi lễ này là bố mẹ chàng
trai sang hỏi ngày sinh, tháng đẻ của cô gái để mang về so tuổi. Để đề cao
phẩm giá của con gái mình, bố mẹ cô gái thường không cho tuổi cô gái ngay
nên nhà trai thường phải đi lại vài ba lần mới xin được. Sau lễ dạm hỏi là lễ so
tuổi (mình bủa), nhà trai đi nhờ thầy cúng so tuổi và báo cho nhà gái biết chàng
trai và cô gái có hợp mệnh hay không; tuổi của cô gái cũng được so với tuổi
của bố mẹ chàng trai. Nếu tuổi cô gái hợp với tuổi chàng trai và bố mẹ chàng
trai thì đôi trai gái được phép gặp gỡ, tìm hiểu nhau một cách chính thức.
45
Người Dao Quần Chẹt rất coi trọng vấn đề hợp tuổi (hợp mệnh), nhất là giữa
vợ và chồng. Vì thế, trước đây, kết quả của việc so tuổi có ảnh hưởng mang
tính quyết định đối với việc tiến hành hay huỷ bỏ hôn lễ của đôi trai gái.
Ngày nay, đôi trẻ được tự do tìm hiểu nhau nên chàng trai đã biết trước
tuổi của cô gái, nếu họ ưng thuận nhau, chàng trai thưa chuyện với bố mẹ, gia
đình sẽ chuẩn bị cho lễ so tuổi mà bố mẹ không nhất thiết phải sang nhà gái
để xin ngày sinh tháng đẻ của cô gái nữa. Do đó, nghi lễ so tuổi (mình bủa) đã
được lược bớt.
Quan niệm về hợp tuổi của người Dao Quần Chẹt vẫn luôn tồn tại trong
xã hội ngày nay, tuy nhiên điều này được xử lý linh hoạt hơn. Trong trường
hợp nếu so tuổi cho thấy có sự xung khắc về tuổi của đôi trai gái, giữa cô gái
với bố mẹ chàng trai, thì gia đình nhà trai có thể nhờ thầy cúng cúng để giải
xung khắc và để đổi ngày sinh của cô gái sao cho tránh xung khắc với tuổi
của chàng trai.
3.1.2. Lễ xin cưới (hắt chìn cha)
Sau lễ dạm hỏi vài ba tháng, nhà trai sang nhà gái để bàn bạc về các
công việc trong đám cưới và cùng thoả thuận về sính lễ. Thành phần đoàn nhà
trai gồm có bố mẹ chú rể, chú rể, cô, dì, chú, bác. Gia đình nhờ thầy cúng chọn
ngày đẹp, hợp với tuổi của chú rể và bố mẹ chú rể để sang nhà gái xin ngày tổ
chức lễ cưới. Người Dao Quần Chẹt ở làng Thành Công quan niệm có một số
ngày tam sát cần phải tránh như: 3,7, 13, 18, 22, 27 (tính theo Âm lịch).
Trước đây, để sang nhà gái xin cưới và định lễ vật, nhà trai thường
mang theo vài lạng thuốc lào để đặt vấn đề. Nhà gái cũng không nói ngay số
lượng lễ vật nên nhà trai phải đi lại vài lần mới có câu trả lời, thông thường
gồm 40-60 đồng bạc trắng, 10 kg gạo nếp, 10 kg gạo tẻ, 120 kg thịt lợn móc
hàm, rượu không quy định số lượng nhưng thường là 18 chai (hoặc 10 hũ,
mỗi hũ khoảng 3 lít) Cũng có khi nhà gái thách cưới quá cao, nhà trai phải
xin giảm bớt xuống cho phù hợp với điều kiện kinh tế của gia đình.
Ngày nay, lễ vật xin cưới nhà trai mang sang nhà gái thường là hai đôi
46
trầu cau, vài ba bao thuốc lá, một ít bánh kẹo. Sính lễ thoả thuận giữa hai bên
gia đình thường trong khoảng 10 - 15 triệu đồng tiền mặt (năm 2015). Khoản
tiền này được giao cho nhà gái khi “gánh cưới”, tuy nhiên nhà trai phải đặt
trước cho nhà gái 2-3 triệu đồng vào hôm đến xin cưới.
3.1.3. Lễ xin gặp đại diện nhà gái (xinh mùi te)
Sắp đến ngày cưới, nhà trai tổ chức lễ xin mùi te tức là đến nhà gái để
xin được gặp mặt đại diện nhà gái trong đám cưới của đôi trẻ. Cũng như các
công việc khác, gia đình nhà trai phải nhờ thầy cúng chọn ngày đẹp, tránh
ngày bại lụi. Lễ vật mà bố mẹ chàng trai mang sang nhà gái gồm có 2 mảnh
vải hình vuông: một đỏ, một trắng (kích cỡ khoảng 30 cm x 30cm), vài bao
thuốc lá, 200-300 ngàn đồng.
Bố mẹ chàng trai đến nhà cô gái và được bố mẹ cô gái dẫn sang nhà mùi
te. Người đảm nhiệm vai trò mùi te bên nhà gái được lựa chọn theo tập tục.
Nếu cô dâu là con gái cả của gia đình thì mùi te là một người anh (em) của mẹ
cô dâu; nếu là con gái thứ hai thì mùi te là anh rể của cô dâu; nếu là con gái thứ
ba thì mùi te là một người đàn ông bất kỳ trong nội tộc. Trong thời gian điền dã
tại làng Thành Công, tác giả luận văn đã được tham dự một đám cưới của
người Dao Quần Chẹt mà cô dâu là con thứ nên mùi te là anh rể của cô dâu.
Bố mẹ chàng trai trình bày lý do cuộc gặp gỡ này và sau bữa cơm thân
mật ở nhà mùi te, bố chú rể gói tiền trong vuông vải đỏ và thuốc lá đặt lên
vuông vải trắng rồi đặt lên mâm (trước đây có thể dùng cái sàng) trao cho mùi
te, cúi chào nhau, và coi như đây là nghi lễ xin đại diện nhà gái để gánh đỡ
công việc trong ngày cưới của đôi trẻ sau này.
Để chuẩn bị cho đám cưới, gia đình nhà trai cũng phải lựa chọn hènh
mùi (người đại diện cho nhà trai), tuy nhiên không phải chuẩn bị lễ vật như
xin mùi te đến nhà gái. Nhà trai thường tìm người có uy tín trong dòng họ
hoặc trong làng, là người đã lập gia đình có cả con trai và con gái, vợ chồng
hòa thuận, điều kiện kinh tế khá giả, am hiểu phong tục tập quán dân tộc...
sang đặt vấn đề với gia đình nhà gái để chuẩn bị cho hôn lễ.
47
3.2. Nghi lễ trong đám cưới
3.2.1. Lễ báo tổ tiên (sip bủa ông)
Trước lễ cưới, gia đình chàng trai và gia đình cô gái đều tổ chức lễ sip
bủa ông (cúng báo tổ tiên). Nghi lễ của nhà trai diễn ra trước lễ cưới hai ngày,
lễ vật gồm có: Thủ lợn, rượu, tiền giấy... Thầy cúng được mời đến làm lễ
trình báo với tổ tiên về việc đoàn nhà trai sắp sang nhà gái để lo công việc và
đón dâu về nhà chồng, đồng thời cầu mong tổ tiên phù hộ cho mọi việc may
mắn. Nhà gái tổ chức lễ báo tổ tiên trước ngày cưới một ngày, tức là vào ngày
nhà trai sang gia đình nhà gái làm cỗ mời họ hàng nhà gái. Một mâm cỗ được
chuẩn bị gồm: Thủ lợn, gà, gan lợn, tiền giấy. Trước đây mâm cỗ này do gia
đình nhà trai lo liệu, nhưng hiện nay vì nhà trai đã đưa cho nhà gái một khoản
tiền bao gồm tất cả các lễ vật trong quá trình đám cưới nên những lễ vật này
hoàn toàn do nhà gái chuẩn bị. Trong thời gian nghiên cứu điền dã ở làng
Thành Công vào năm 2015, tác giả luận văn đã tham dự một đám cưới của cô
dâu có bố mới qua đời, nên trong lễ báo tổ tiên của mỗi bên gia đình có thêm
một mâm lễ vật, thường là gà, thịt lợn, rượu và tiền giấy để giành riêng cho
người quá cố. Nhà trai mang sang nhà gái ba con gà trống, một con dùng
trong nghi lễ tách khẩu cho cô dâu, một con biếu mẹ cô dâu và một con để
cúng bố cô dâu. Thầy cúng được mời đến để làm lễ và cầu xin sự phù hộ của
tổ tiên cho đám cưới diễn ra suôn sẻ. Đồng thời, trong nghi lễ này, thầy cúng
cũng làm lễ se miền khu nghĩa là "tách khẩu" cho cô dâu để về nhà chồng.
3.2.2. Lễ gánh cưới (chẩu miền pâu)
Trong cưới của người Dao Quần Chẹt, lễ gánh cưới là nghi lễ rất quan
trọng, vì vậy ngoài việc xem ngày giờ cẩn thận, nhà trai cũng phải cúng báo
tổ tiên trước khi đoàn gánh cưới sang nhà gái. Lễ vật bao giờ cũng có thủ lợn,
gan lợn, tiền giấy Sau khi thầy cúng làm lễ trình báo tổ tiên xong, ngày
hôm sau đoàn nhà trai mang lễ vật sang nhà gái để cùng nhà gái làm cỗ mời
anh em họ hàng nhà gái, đồng thời xin tổ tiên phù hộ cho mọi việc luôn được
suôn sẻ trước khi đưa cô dâu về nhà chồng.
48
Trước khi mang lễ vật sang nhà gái, nhà trai cử người đan 4 cái sọt nhỏ
(đường kính 25cm, cao 35cm) : 2 sọt dùng để đựng lễ vật cho ngày cưới và 2
sọt đựng lễ vật cho ngày lại mặt sau khi cưới.
Trước ngày cưới, đoàn nhà trai do hèenh mùi dẫn đầu sang nhà gái, với
mục đích phối hợp với gia đình nhà gái tổ chức đám cưới cho thật chu đáo,
vui vẻ. Ông Dương Văn Cường, 43 tuổi, ở làng Thành Công cho biết: “Tôi
được làm hèenh mùi 5 năm rồi nhưng đến bây giờ vẫn không quên lần đầu
tiên đảm nhiệm trọng trách này. Tôi rất tự hào nhưng cũng lo lắm, vì đứng
trước họ hàng nhà gái phải ăn nói sao cho lưu loát, chỉ đạo các công việc
suôn sẻ, không được để xảy ra bất kỳ sai sót gì”.
Trước đây, đoàn nhà trai sang nhà gái có khoảng 10 người. Họ đảm
đương toàn bộ công việc của bữa tiệc cưới tại nhà gái: Làm cỗ, tiếp khách,
dọn dẹpDo đó, lễ vật mang sang nhà gái cũng rất nhiều và được tổ chức rất
chu đáo đúng như hai bên gia đình đã thỏa thuận trong nghi lễ hắt chìn cha.
Ngày nay, thành viên đoàn nhà trai sang nhà gái phải có đủ cả nam lẫn
nữ và nhất thiết phải là số lẻ, vì theo tập quán của người Dao Quần Chẹt đã
tồn tại từ bao đời nay là "đi lẻ, về chẵn" (đón cô dâu về). Thường thường đoàn
có bảy hoặc chín thành viên, trong đó một nam thanh niên gánh hai sọt lễ vật,
một bên là năm lít rượu, một cây thuốc lá và một bên là 0,5kg chè khô, 5kg
gạo nếp và gạo tẻ, một chiếc khăn. Các lễ vật nhà trai mang sang được sử
dụng để làm lễ cúng gia tiên nhà gái; chiếc khăn dùng để lau bát đũa mời già
làng, trưởng bản trong bữa tiệc.
Hiện nay, các gia đình dựng phông bạt, thuê bàn, ghế, loa đài... phục vụ
giao lưu văn nghệ, tương tự như ở đa số các làng của người Kinh. Hơn nữa,
nhà nào cũng chuẩn bị loa đài, ampli để giới trẻ ca hát, không khí rất tưng
bừng, vui vẻ. Đây cũng là dịp để nam nữ thanh niên trong và ngoài làng gặp
gỡ, chia sẻ, kết bạn với nhau.
Trong lúc ông, chú, bác trai, anh em họ hàng đại diện của nhà gái đón
tiếp những người đàn ông của đoàn nhà trai thì mẹ cô dâu và cô dâu không
được phép có mặt. Nhà trai trao đổi với nhà gái về quá trình tìm hiểu của đôi
49
trẻ, sự nhất trí của hai gia đình về các lễ vật mang sang trình báo tổ tiên nhà
gái. Lễ vật được chuyển cho mùi te, nhà gái kiểm tra lại và nhận lễ. Trước
đây, gia đình nhà gái thường cân kiểm tra lại xem thịt, các lễ vật có đầy đủ
với số lượng đã được hai gia đình thỏa thuận từ trước hay không; nếu thiếu thì
nhà trai phải bổ sung cho đầy đủ. Nếu sự tiếp nhận lễ vật ổn thỏa, hèenh mùi
nhà trai xin phép chuẩn bị lễ vật dâng cúng tổ tiên nhà gái, tiếp đến là làm các
mâm cỗ để đãi khách. Nhà trai không nhất thiết phải ngủ lại nhà gái, họ tiếp
khách đến khuya rồi ra về. Sáng sớm hôm sau, đoàn nhà trai lại sang giúp nhà
gái lo liệu công việc. Hai gia đình cùng ăn cơm sáng rồi nhà trai xin phép đón
cô dâu về nhà chồng. Theo quan niệm của người Dao Quần Chẹt, thành phần
đoàn nhà gái đưa cô dâu về nhà chồng không quy định số lượng chẵn hay lẻ,
càng đông người càng vui, gặp nhiều may mắn cho đôi trẻ.
3.2.3. Lễ cưới
Người D
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hon_nhan_cua_nguoi_dao_quan_chet_hien_nay_o_lang_thanh_cong_xa_lang_cong_huyen_song_lo_tinh_vinh_phu.pdf