Luận văn Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Mục lục

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN QUỐC TẾ 4

1.1. Một số khái niệm cơ bản 4

1.2. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hiểm hàng hải 25

1.3. Vai trò của bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế 31

Chương 2: NHỮNG ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN QUỐC TẾ 35

2.1 Khái quát về hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế 35

2.2. Đặc trưng và cơ sở pháp lý của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế 42

2.3. Nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế 51

2.4. Khiếu nại đòi bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế 68

Chương 3: HIỆN TRẠNG THỰC THI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM HÀNG HÓA VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN QUỐC TẾ 76

3.1. Hiện trạng thực thi pháp luật về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế ở Việt Nam và một số vấn đề pháp lý đặt ra 76

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế 81

KẾT LUẬN 103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106

PHỤ LỤC 108

 

 

 

doc115 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3389 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi bằng Nghị định thư SDR 1979. Trường hợp hàng hóa bị mất mát, hư hỏng trong tình huống "bất khả kháng" hoặc do những nguyên nhân ngoài tầm kiểm soát của người vận chuyển, họ sẽ được hưởng quyền miễn trách về những thiệt hại đó. Chủ tàu được hưởng 17 miễn trách theo công ước Brussels 1924 (khoản 2 Điều 78 Bộ luật Hàng hải Việt Nam cũng cho phép chủ tàu được hưởng 17 miễn trách). Trường hợp này, quyền lợi của chủ hàng chỉ có thể được bảo vệ khi hàng hóa của họ đã tham gia bảo hiểm. Việt Nam là một trong số các quốc gia chưa gia nhập Công ước Brussels 1924, Quy tắc Hague Visby 1968 cũng như Công ước Hamburg 1978. Tuy nhiên, khi soạn thảo Bộ luật Hàng hải Việt Nam 1990 và 2005, các công ước quốc tế đã được tham chiếu, sử dụng để quy định về trách nhiệm của người chuyên chở. Tuy còn có những điểm khác biệt song Bộ luật Hàng hải Việt Nam gần tương đồng với Công ước Brussels 1924 về những nghĩa vụ cơ bản của chủ tàu, người thuê tàu khi giao kết và thực hiện hợp đồng vận chuyển. Để chỉ ra những điểm tương đồng cũng như những điểm khác biệt của pháp luật hàng hải Việt Nam với các Công ước quốc tế, luận văn sẽ tiến hành so sánh Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 với Bộ luật hàng hải Việt Nam 1990 và các công ước quốc tế về những quy định pháp luật căn bản có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế. Những quy định này có mối quan hệ mật thiết với việc thực hiện nguyên tắc thế quyền trong hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế ở nước ta. Những ưu điểm của Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005, những điểm tương đồng và khác biệt giữa các nguồn luật sử dụng để so sánh sẽ được thể hiện chi tiết trên bảng so sánh trong phụ lục. Vì giới hạn khuôn khổ của bảng, luận văn quy ước một số chữ viết tắt trong bảng này với nghĩa như sau: H 1924: Quy tắc Hague 1924; HV 1968: Quy tắc Hague-Visby 1968; HG 1978: Quy tắc Hamburg 1978; BV 1990: Bộ luật hàng hải Việt Nam 1990; BV 2005: Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005. Những so sánh chi tiết trong bảng cho thấy, so với Bộ luật hàng hải Việt Nam 1990, quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của người vận chuyển trong Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 đã có những sửa đổi, bổ sung theo hướng phù hợp hơn với các chuẩn mực tiên tiến về pháp luật hàng hải trong các công ước quốc tế. Quy định của Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 trong lĩnh vực này không hoàn toàn giống y nguyên một công ước nào mà có sự chắt lọc từ ba công ước. 2.3. Nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế Nội dung của hợp đồng bảo hiểm được quy định tại Điều 13 Luật kinh doanh bảo hiểm 2000. Theo quy định tại điều này, nội dung hợp đồng bảo hiểm bao gồm hai loại điều khoản đó là: các điều khoản áp dụng chung cho các hợp đồng bảo hiểm cùng loại và các điều khoản riêng có tính đặc thù của từng hợp đồng cụ thể. Các điều khoản chung thường là những điều khoản quy định về: phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm; loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường; các quy định giải quyết tranh chấp. Các điều khoản riêng là những điều khoản quy định về: tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng; đối tượng bảo hiểm; số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản; thời hạn bảo hiểm; mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm; ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng. Tuân thủ các quy định chung của pháp luật kinh doanh bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển cũng có đầy đủ các nội dung trên. 2.3.1 Đối tượng bảo hiểm Trong bảo hiểm hàng hóa, đối tượng bảo hiểm là hàng hóa và theo quy tắc giải thích đơn bảo hiểm của MIA 1906 có ghi rõ từ "hàng hóa" có nghĩa là hàng hóa với tính chất thương mại và không bao gồm đồ đạc cá nhân hay lương thực dự trữ để dùng trên tàu. Nghiên cứu quy định trong các Điều ước quốc tế trong tương quan so sánh với Bộ luật hàng hải Việt Nam có thể thấy một điểm khác biệt nhỏ trong định nghĩa về hàng hóa. Bộ luật hàng hải Việt Nam và Công ước Hamburg 1978 đều coi súc vật sống và hàng hóa xếp trên boong thuộc khái niệm hàng hóa. Trong khi đó, điều 1.c- Quy tắc Hague 1924 lại định nghĩa "Hàng hóa gồm tài sản, đồ vật, hàng hóa và vật phẩm các loại trừ súc vật sống, hàng hóa theo hợp đồng chuyên chở được khai là xếp trên boong và thực sự được chở như thế". Về nội dung, nhìn chung các quy định về đối tượng bảo hiểm của Luật hàng hải Việt Nam không có gì khác biệt lớn so với Luật bảo hiểm hàng hải Anh quốc. Điều 225 Bộ luật hàng hải Việt Nam đã chỉ rõ: Đối tượng bảo hiểm hàng hải có thể là bất kỳ quyền lợi vật chất nào liên quan đến các hoạt động hàng hải mà có thể quy ra tiền, bao gồm tàu biển, tàu biển đang đóng, hàng hóa, tiền cước vận chuyển hàng hóa, tiền công vận chuyển hành khách, tiền thuê tàu, tiền thuê mua tàu, tiền lãi ước tính của hàng hóa, các khoản hoa hồng, chi phí tổn thất chung, trách nhiệm dân sự và các khoản tiền được đảm bảo bằng tàu hoặc hàng hóa hoặc tiền cước vận chuyển [2]. 2.3.2. Điều khoản phạm vi bảo hiểm và loại trừ bảo hiểm Đây là điều khoản cơ bản nhằm phân định trách nhiệm của người bảo hiểm trước rủi ro, tổn thất xảy ra cho đối tượng bảo hiểm. Xác định những trường hợp người bảo hiểm phải chịu trách nhiệm, cũng như không phải chịu trách nhiệm trước thiệt hại của đối tượng bảo hiểm. Thuộc phạm vi bảo hiểm, bao gồm những rủi ro, sự cố đã được chỉ rõ trong hợp đồng bảo hiểm, khi những sự cố này xảy ra gây thiệt hại cho đối tượng bảo hiểm sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế, có thể người bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm ở những quốc gia khác nhau. Để thống nhất thuật ngữ, khái niệm, điều kiện, tổn thất, rủi ro, khiếu nại và đòi bồi thường, trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hóa vận chuyển biển nói riêng, hầu hết các nước trên thế giới đều vận dụng những bộ điều khoản do ủy ban kỹ thuật và điều khoản - Học hội bảo hiểm London soạn thảo. Hiện nay, hai bộ điều khoản của tổ chức này ban hành vào các năm 1963 (Institure Cargo Clauses -ICC 1963) và 1982 (ICC1982) đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Kế thừa những nội dung cơ bản của ICC 1982, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã soạn thảo Quy tắc chung (QTC) về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển. Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển đầu tiên được Bộ Tài chính ban hành vào năm 1990 và từ đó đến nay các doanh nghiệp bảo hiểm đã có một số lần sửa đổi song về cơ bản vẫn giữ nguyên những nội dung chính. Việc ban hành Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm và các chủ hàng Việt Nam giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hóa. Do đó, những quy tắc này thường được áp dụng trong các hợp đồng bảo hiểm hàng nhập khẩu mà chủ hàng Việt Nam trực tiếp ký kết. Đối với các lô hàng xuất khẩu được bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hoặc các lô hàng nhập khẩu về Việt Nam theo giá CIF hoặc các loại giá tương đương thì thường áp dụng các điều kiện bảo hiểm trong ICC 1982 hoặc ICC 1963. - Các điều kiện bảo hiểm trong ICC 1963 (Institute Cargo Clauses 1963) ICC 1963 được Học hội bảo hiểm London áp dụng từ 01/01/1963 bao gồm 6 điều kiện bảo hiểm, trong đó ba điều kiện được áp dụng phổ biến nhất là: bảo hiểm miễn tổn thất riêng, bảo hiểm tổn thất riêng, bảo hiểm mọi rủi ro. + Bảo hiểm miễn tổn thất riêng FPA 1/1/1963 (Free from particular average) Theo điều kiện bảo hiểm này, người bảo hiểm chịu trách nhiệm về những tổn thất và chi phí sau: ã Tổn thất toàn bộ do thiên tai, tai nạn bất ngờ và dỡ hàng ở cảng lánh nạn. ã Tổn thất bộ phận vì 4 rủi ro chính. ã Mất nguyên đai, nguyên kiện trong khi xếp dỡ, chuyển tải. ã Các chi phí được bảo hiểm phát sinh từ các tổn thất trên. + Bảo hiểm tổn thất riêng WA (With average) 1/1/1963 Ngoài những trách nhiệm như điều kiện bảo hiểm FPA, theo điều kiện này, người bảo hiểm còn chịu trách nhiệm thêm về tổn thất bộ phận do thiên tai gây ra ngoài 4 rủi ro chính. Có một đặc điểm là điều kiện bảo hiểm này luôn đi kèm với việc áp dụng quy tắc miễn thường. Tùy từng trường hợp cụ thể mà miễn thường áp dụng là có khấu trừ hay không khấu trừ. + Bảo hiểm mọi rủi ro AR (All Risk) 1/1/1963 Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi trách nhiệm rộng nhất trong số các điều kiện bảo hiểm thuộc ICC 1963. Theo điều kiện bảo hiểm này, người bảo hiểm chịu trách nhiệm về mọi rủi ro gây ra mất mát hư hỏng cho hàng hóa được bảo hiểm trừ khi do những rủi ro loại trừ gây ra. Như vậy, người bảo hiểm không những chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hóa như điều kiện bảo hiểm WA mà còn chịu trách nhiệm về những tổn thất của hàng hóa do các rủi ro phụ gây nên. Khác với điều kiện bảo hiểm FPA và WA, trách nhiệm chứng minh tổn thất theo điều kiện AR thuộc về người bảo hiểm. Điều đó nghĩa là muốn từ chối bồi thường những khiếu nại của người được bảo hiểm, người bảo hiểm phải có nghĩa vụ chứng minh tổn thất đó không thuộc phạm vi bảo hiểm. - Các điều kiện bảo hiểm theo ICC 1982 Để phù hợp với thực tiễn thương mại quốc tế và sửa đổi những hạn chế của ICC 1963, Học hội bảo hiểm London đã ban hành bộ điều khoản mới. Bộ điều khoản này đợc áp dụng từ 1/1/1982 (ICC1982). ICC 1982 bao gồm 5 điều kiện bảo hiểm là: điều kiện bảo hiểm A; điều kiện bảo hiểm B; điều kiện bảo hiểm C; điều kiện bảo hiểm chiến tranh và điều kiện bảo hiểm đình công. + Điều kiện bảo hiểm A: Theo điều kiện bảo hiểm này, người bảo hiểm chịu trách nhiệm về mọi rủi ro gây ra mất mát hư hỏng cho hàng hóa được bảo hiểm trừ khi do những rủi ro loại trừ gây ra. Những rủi ro loại trừ trong điều kiện bảo hiểm A bao gồm loại trừ chung (như đã đề cập trong chương 1) và loại trừ riêng bao gồm hai rủi ro chiến tranh và đình công. + Điều kiện bảo hiểm B: Với điều kiện loại trừ bảo hiểm như điều kiện bảo hiểm A, người bảo hiểm chịu trách nhiệm đối với: • Những mất mát hư hỏng xảy ra cho đối tượng bảo hiểm có thể quy hợp lý cho các nguyên nhân: 1. Cháy hoặc nổ; 2. Tàu hay sà lan bị mắc cạn, chìm đắm hoặc lật úp; 3. Đâm va vào bất kỳ vật thể gì trừ nước; 4. Phương tiện vận chuyển trên bộ bị đổ hoặc trật bánh; 5. Dỡ hàng tại cảng có nguy hiểm; 6. Động đất, núi lửa phun, sét đánh. ã Những mất mát hư hại xảy ra cho đối tượng bảo hiểm do các nguyên nhân: 1. Hy sinh tổn thất chung; 2. Ném hàng xuống biển hoặc nước cuốn trôi khỏi tàu; 3. Nước biển, nước sông, hồ xâm nhập vào tàu, sà lan, hầm hàng, phương tiện vận chuyển, container hoặc nơi chứa hàng. • Tổn thất toàn bộ của bất kỳ kiện hàng nào rơi ra khỏi tàu hoặc rơi trong khi đang xếp hàng lên hoặc dỡ hàng ra khỏi tàu hay sà lan. + Điều kiện bảo hiểm C: Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi trách nhiệm hẹp nhất. Theo điều kiện bảo hiểm này, người bảo hiểm chỉ chịu tách nhiệm đối với: • Những mất mát hư hỏng xảy ra cho đối tượng bảo hiểm có thể quy hợp lý cho các nguyên nhân: 1. Cháy hoặc nổ; 2. Tàu hay sà lan bị mắc cạn, chìm đắm hoặc lật úp; 3. Đâm va vào bất kỳ vật thể gì trừ nước; 4. Phương tiện vận chuyển trên bộ bị đổ hoặc trật bánh; 5. Dỡ hàng tại cảng có nguy hiểm. • Những mất mát hư hại xảy ra cho đối tượng bảo hiểm do các nguyên nhân: 1. Hy sinh tổn thất chung; 2. Ném hàng xuống biển. Ngoài những quy định về phạm vi bảo hiểm và loại trừ bảo hiểm kể trên, các điều kiện bảo hiểm A, B, C còn đề cập đến các điều khoản tổn thất chung, điều khoản đâm va hai bên cùng có lỗi, điều khoản bảo hiểm vận chuyển, điều khoản kết thúc hợp đồng vận chuyển... - Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển (QTC 1990) do Bộ Tài chính Việt Nam soạn thảo trên cơ sở vận dụng ICC 1982 của Học hội bảo hiểm London. Nội dung của quy tắc này bao gồm những điểm chính sau: + Phạm vi bảo hiểm: Người mua bảo hiểm có thể lựa chọn một trong ba điều kiện bảo hiểm A, B, C để bảo hiểm cho hàng hóa của mình. Phạm vi bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm A tương tự như ICC 1982, riêng điều kiện bảo hiểm B, C trách nhiệm của người bảo hiểm cộng thêm trách nhiệm đối với hàng hóa chở trên tàu bị mất tích. + Loại trừ bảo hiểm: Tương tự như trong ICC 1982. Như vậy, có thể thấy về cơ bản phạm vi bảo hiểm của QTC 1990 do Bộ Tài chính Việt Nam soạn thảo không khác biệt lớn so với ICC 1982. 2.3.3. Điều khoản về giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm của hàng hóa được xác định dựa trên cơ sở giá trị của hàng hóa do người được bảo hiểm khai báo. Người được bảo hiểm có thể kê khai theo giá trị hàng hóa tại nơi đến để tham gia bảo hiểm. Về cơ bản, số tiền bảo hiểm của hàng hóa bằng giá hàng hóa ghi trên hóa đơn bán hàng cộng chi phí vận chuyển và phí bảo hiểm tức là bằng trị giá CIF của hàng hóa. Để tính trị giá CIF, người bảo hiểm dùng công thức sau: CIF = C + F 1 - R Trong đó: C: Tiền hàng F: Cước phí vận chuyển R: Tỷ lệ phí bảo hiểm Người được bảo hiểm có thể tính gộp tiền lãi ước tính vào số tiền bảo hiểm, tuy nhiên tiền lãi này không được vượt quá 10% trị giá CIF. Như vậy, số tiền bảo hiểm của hàng hóa được giới hạn trong 110% trị giá CIF. Mọi trường hợp số tiền bảo hiểm vượt quá giới hạn này đều được coi là bảo hiểm trên giá trị và phần vượt quá đó sẽ không được thừa nhận [13, tr. 63-64]. 2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển 2.3.4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên được bảo hiểm (1) Quyền của bên được bảo hiểm Khi giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển quốc tế, bên được bảo hiểm được pháp luật thừa nhận các quyền sau: - Lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam để mua bảo hiểm cho hàng hóa của mình; - Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm; - Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm hoặc trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm khi các rủi ro làm cơ sở tính phí bảo hiểm giảm; - Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm khiến hàng hóa bị tổn thất hoặc phát sinh chi phí; - Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật; - Các quyền khác theo quy định của pháp luật [4, tr. 21]. (2) Nghĩa vụ của bên được bảo hiểm Đối với hợp đồng bảo hiểm nói chung, hợp đồng bảo hiểm hàng hóa bằng đường biển nói riêng, người được bảo hiểm phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình kể từ khi xác lập, thực hiện hợp đồng bảo hiểm đến khi chấm dứt hợp đồng. a) Nghĩa vụ của bên được bảo hiểm trước và sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm Khi có nhu cầu tham gia bảo hiểm cho một lô hàng nào đó, chủ hàng phải cung cấp những thông tin cần thiết cho người bảo hiểm để người bảo hiểm có thể đánh giá rủi ro. Việc cung cấp thông tin phải đảm bảo nguyên tắc "Trung thực tối đa". Khác với các nghiệp vụ bảo hiểm khác, đối tượng được yêu cầu bảo hiểm có thể ở cách xa người bảo hiểm và người được bảo hiểm cả ngàn dặm vào thời điểm đàm phán và ký kết hợp đồng, do đó việc giám định đối tượng trước khi nhận bảo hiểm là không thể thực hiện được. Vì vậy, người được bảo hiểm phải khai báo tất cả các thông tin mà người bảo hiểm đòi hỏi trước khi ký kết hợp đồng một cách trung thực nhất. Nếu người được bảo hiểm không trung thực trong việc khai báo rủi ro thì người bảo hiểm có quyền coi như hợp đồng bảo hiểm vô hiệu. Điều này đã được thể hiện rõ trong MIA 1906 từ Điều 17 đến Điều 20 và tại Điều 229 Bộ luật hàng hải Việt Nam đã quy định: Người được bảo hiểm có nghĩa vụ thông báo cho người bảo hiểm biết tất cả các thông tin mà mình biết hoặc phải biết liên quan đến việc giao kết hợp đồng bảo hiểm có thể ảnh hưởng đến việc xác định khả năng xảy ra rủi ro hoặc quyết định của người bảo hiểm về việc nhận bảo hiểm và các điều kiện bảo hiểm, trừ thông tin mà mọi người biết hoặc người bảo hiểm đã biết hoặc phải biết [2]. Nghĩa vụ này được áp dụng đối với cả người đại diện của người được bảo hiểm (thường là người môi giới bảo hiểm). Việc cung cấp thông tin được thực hiện bằng cách chủ hàng làm giấy yêu cầu bảo hiểm để gửi cho người bảo hiểm. Thông thường, giấy yêu cầu bảo hiểm bao gồm những nội dung sau: + Tên người được bảo hiểm; + Tên hàng hóa cần được bảo hiểm; + Loại bao bì, cách đóng gói và ký mã hiệu của hàng hóa; + Trọng lượng hay số lượng hàng hóa cần được bảo hiểm; + Tên tàu biển và loại phương tiện vận chuyển; + Cách thức xếp hàng xuống tàu; + Nơi bắt đầu vận chuyển, chuyển tải và nơi nhận hàng; + Ngày tháng phương tiện chở hàng bắt đầu rời bến; + Giá trị hàng hóa cần bảo hiểm; + Điều kiện bảo hiểm; + Nơi thanh toán bồi thường; + Những thông tin cần thiết khác. Trên cơ sở giấy yêu cầu bảo hiểm, người bảo hiểm đánh giá rủi ro và quyết định chấp nhận bảo hiểm hay không và thỏa thuận về mức phí bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm coi như đã ký kết khi người bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm bằng văn bản. Căn cứ vào giấy yêu cầu bảo hiểm, người bảo hiểm cấp đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Nếu không có thỏa thuận gì khác, người được bảo hiểm phải thanh toán phí bảo hiểm cho người bảo hiểm ngay sau khi nhận được đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Điều 240 Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định: "Người được bảo hiểm phải có nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm cho người bảo hiểm ngay sau khi ký kết hợp đồng hoặc ngay sau khi được cấp đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác" [2]. Trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã được xác lập với thỏa thuận về thời hạn nộp phí và người tham gia bảo hiểm không nộp phí khi đã kết thúc thời hạn đó, sẽ không phát sinh trách nhiệm của người bảo hiểm. Quyền khởi kiện người tham gia bảo hiểm đòi phí bảo hiểm sẽ được người bảo hiểm sử dụng trong một số trường hợp. Nghĩa vụ này của người được bảo hiểm, được tuân thủ theo quy định trên là do xuất phát từ đặc điểm cơ bản của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Việc chia sẻ rủi ro trong bảo hiểm chỉ được tiến hành trên cơ sở có nguồn tài chính đủ lớn từ việc thu phí của số đông người tham gia bảo hiểm. Phí bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu được tính bằng tích của số tiền bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm. Trường hợp có chuyển tải hoặc hàng hóa được chuyên chở trên tàu già, người mua bảo hiểm phải thanh toán thêm phần phụ phí chuyển tải hoặc phụ phí tàu già. b) Nghĩa vụ của bên được bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu Nghĩa vụ cung cấp thông tin về đối tượng bảo hiểm của người được bảo hiểm, không những chỉ được thực hiện trước khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, mà còn được duy trì trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Điều 241 Bộ luật hàng hải Việt Nam có quy định: "Sau khi hợp đồng bảo hiểm được giao kết mà có bất kỳ thay đổi nào về rủi ro được bảo hiểm làm tăng mức độ rủi ro thì người được bảo hiểm phải có trách nhiệm thông báo cho người bảo hiểm về sự thay đổi đó ngay khi họ biết" [2], nếu người được bảo hiểm vi phạm vào quy định này thì người bảo hiểm có quyền từ chối bồi thường một phần hoặc toàn bộ số tiền bảo hiểm hoặc từ bỏ hợp đồng bảo hiểm. Quy định về cung cấp thông tin theo Bộ Luật hàng hải Việt Nam không có gì khác biệt lớn so với Luật hàng hải Anh. Điều 19 MIA quy định: "Người tham gia bảo hiểm và người môi giới phải thông báo mọi sự kiện cần thiết đã biết và được coi như đã biết cho người bảo hiểm. Vi phạm nghĩa vụ này người bảo hiểm có thể hủy bỏ hợp đồng" [3]. Trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm, người được bảo hiểm phải thực hiện trách nhiệm đề phòng, hạn chế tổn thất. Có thể nói, phần lớn các tổn thất xảy ra đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển là do sự cẩu thả trong quá trình chuyên chở, việc bốc dỡ không đúng quy định, cách đóng gói không phù hợp... Nếu các tổn thất đó được giảm thiểu thì người bảo hiểm không những hạn chế được tỷ lệ tổn thất mà còn bảo quản được số lượng hàng hóa, nguyên vật liệu cho tiêu dùng xã hội nói chung. Hàng hóa trong quá trình vận chuyển từ nguyên liệu tho cho đến những máy móc tinh xảo, dù được chuyên chở bằng các phương tiện khác nhau đều luôn bị đe dọa bởi rủi ro, điều quan trọng được ghi nhận là các rủi ro có thể được giảm thiểu hoặc tránh được tổn thất bằng việc sử dụng một cách có hiệu quả biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất. Điều 78.4-MIA 1906 quy định rõ nghĩa vụ của người được bảo hiểm và những người đại lý của họ trong việc đề phòng, hạn chế tổn thất "Trong mọi trường hợp người được bảo hiểm và đại lý của họ phải áp dụng mọi biện pháp hợp lý nhằm tránh hoặc giảm bớt tổn thất". Nghĩa vụ này cũng được quy định rõ trong các điều kiện bảo hiểm hàng hóa và tàu biển. Điều 16-ICC1982 - điều khoản trách nhiệm của người được bảo hiểm có quy định trách nhiệm của người được bảo hiểm, những người làm công và đại lý của họ đối với tổn thất thuộc phạm vi bồi thường bảo hiểm là: "Phải áp dụng những biện pháp có thể coi là hợp lý nhằm mục đích ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ tổn thất…". Như vậy, so với MIA 1906, ICC1982 đưa ra thuật ngữ "người được bảo hiểm, những người làm công và đại lý của họ" rộng hơn đối tượng đơn thuần là người được bảo hiểm và đại lý. Sự thêm vào thuật ngữ "những người làm công cho họ" của ICC chính là từ và để chống lại phán quyết của quan tòa Mocatta trong vụ The Gold Sky (Astrovlanis Compania Naviera kiện Linard năm 1972) khi ông phát biểu "Thuyền trưởng về căn bản là người làm công cho chủ của họ…". Ngoài ICC không có một sự sửa đổi nào so với Điều 78.4-MIA 1906 và nghĩa vụ đề phòng hạn chế tổn thất của người được bảo hiểm vẫn mặc nhiên được coi là nghĩa vụ luật định. Vi phạm nghĩa vụ này, người bảo hiểm có quyền khiếu nại người được bảo hiểm và từ chối toàn bộ, hoặc một phần số tiền lẽ ra được bồi thường theo đơn bảo hiểm. Quyền này đã được tòa án Anh mặc nhiên thừa nhận theo án lệ The Gold Sky [12, tr. 359-360]. Điều 18.2.đ Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam có quy định: "Người được bảo hiểm phải áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm và của pháp luật có liên quan" [4]. Đồng thời Điều 242 Bộ luật hàng hải Việt Nam quy định về nghĩa vụ này: "Trong trường hợp xảy ra tổn thất liên quan đến rủi ro được bảo hiểm, người được bảo hiểm có nghĩa vụ tiến hành mọi biện pháp cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế tổn thất…" và "người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với tổn thất xảy ra do người được bảo hiểm quá cẩu thả hoặc cố ý không thực hiện nghĩa vụ quy định tại điều này" [2]. Các quy định của Bộ luật hàng hải Việt Nam và các pháp luật liên quan khác về nghĩa vụ đề phòng, hạn chế tổn thất của người được bảo hiểm hoàn toàn không có gì trái ngược với chuẩn mực quốc tế. Nghĩa vụ đề phòng hạn chế tổn thất của người được bảo hiểm còn mở rộng cho việc áp dụng các biện pháp hợp lý không chỉ ngăn ngừa mà còn hạn chế tối đa tổn thất. Nếu hàng hóa đã thực sự bị tổn thất do một rủi ro được bảo hiểm thì người bảo hiểm tiếp tục có nghĩa vụ những biện pháp hợp lý ví dụ như lưu kho, tái chế, đóng gói để làm giảm bớt tổn thất. Điều hiển nhiên là các biện pháp này phải được áp dụng ngay lập tức. c) Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm khi xảy ra tổn thất Khi xảy ra hoặc phát hiện những hư hỏng hoặc mất mát có khả năng được bồi thường theo đơn bảo hiểm, người được bảo hiểm phải thông báo ngay tình trạng hư hỏng mất mát cho người bảo hiểm và/hoặc đại lý giải quyết khiếu nại được ghi trên đơn bảo hiểm để xử lý tai nạn theo trách nhiệm của hợp đồng bảo hiểm. Việc thông báo này là hết sức cần thiết vì nó làm giám định viên dễ dàng hướng dẫn người được bảo hiểm thực hiện công tác đề phòng và hạn chế tổn thất cũng như xác định mức độ hư hỏng hoặc mất mát xảy ra như thế nào? khi nào và ở đâu? để làm cơ sở cho việc giám định bồi thường sau này. Trong những trường hợp cần thiết người được bảo hiểm còn cần phải thông báo ngay cho các cơ quan chức năng liên quan như: Cảng vụ, cảnh sát, chính quyền cảng…để xử lý rủi ro theo pháp luật. Ngay cả khi hư hỏng hoặc mất mát không thuộc trách nhiệm của người bảo hiểm thì việc thông báo sớm như vậy sẽ giúp người được bảo hiểm xác định được ai là người phải chịu trách nhiệm về hư hỏng mất mát đó để bảo lưu và thi hành mọi quyền khiếu nại các bên liên quan như: người chuyên chở, người ủy thác... Bên cạnh nghĩa vụ thông báo rủi ro, tổn thất thì trong mọi trường hợp người được bảo hiểm và đại lý của họ phải tiến hành các biện pháp để đề phòng, hạn chế tổn thất xảy ra tiếp theo cho đối tượng được bảo hiểm, đồng thời người được bảo hiểm phải đảm bảo thực hiện và bảo lưu quyền khiếu nại của người bảo hiểm đối với người chuyên chở, người nhận ủy thác hàng hóa hoặc bất kỳ người thứ ba nào khác nếu những người này chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hóa. Cung cấp cho người bảo hiểm mọi giấy tờ liên quan chứng minh quyền khiếu nại của người được bảo hiể

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van - chinh thuc.doc
  • docBia - THS.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan