CHưƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ HỢP TÁC CÔNG - Tư TRONG
ĐẦU Tư CƠ SỞ HẠ TẦNG GIAO THÔNG . 17
1.1. Cơ sở hạ tầng giao thông và vai trò của cơ sở hạ tầng giao thông
trong phát triển . 17
1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng giao thông 17
1.1.2. Phân loại cơ sở hạ tầng giao thông 18
1.1.3. Vai trò của cơ sở hạ tầng giao thông trong phát triển . 19
1.2. Hợp tác công - tư trong đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông . 26
1.2.1. Khái niệm hợp tác công - tư trong đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông . 26
1.2.2. Các hình thức hợp tác công - tư . . 29
1.2.3. Vai trò của hợp tác công - tư trong phát triển cơ sở hạ tầng giao thông
.31
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới hợp tác công - tư trong phát triển cơ sở hạ
tầng giao thông . 33
1.3. Một số kinh nghiệm về triển khai PPP trong phát triển hạ tầng giao
thông.37
1.3.1. Kinh nghiệm thế giới về phát triển hạ tầng giao thông theo hình thức
PPP .37
1.3.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh ở Việt Nam. . 40
1.3.3. Những giá trị tham khảo cho tỉnh Đắk Lắk . . 45
CHưƠNG II. HỢP TÁC CÔNG - Tư TRONG ĐẦU Tư CƠ SỞ HẠ
TẦNG GIAO THÔNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK . 48
99 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hợp tác công - Tư trong đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông tại tỉnh Đăk Lăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giải phóng mặt bằng làm cho tổng nguồn vốn đầu tư tăng cao,
dẫn tới không đủ khả năng hoàn trả chi phí của nhà đầu tư.[28]
Đối với các dự án triển khai theo hình thức BOT, do các tuyến đường
ngắn nên không thể đặt nhiều trạm thu phí, lượng phương tiện giao thông bị
chia sẻ không qua trạm thu phí làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoàn
vốn công trình. Bên cạnh đó, nhà đầu tư tham gia các dự án giao thông chủ
yếu là nhà đầu tư trong nước có năng lực tài chính chưa mạnh, ít kinh nghiệm
đầu tư, quản lý khai thác và chưa am hiểu nhiều về đầu tư PPP. Các nhà đầu
tư chưa đánh giá được toàn diện, dài hạn được rủi ro nên khi triển khai còn
gặp vướng mắc.[28]
Bên cạnh đó, chưa có biện pháp hữu hiệu nhằm đánh giá sơ bộ nhà đầu
tư có khả năng tài chính, kinh nghiệm phù hợp với quy mô cũng như phương
thức hoàn vốn dự án. Một số thành viên đàm phán hợp đồng đôi khi còn cứng
nhắc, suy nghĩ chủ quan, mang tính quản lý nhà nước. Nhân sự tham gia công
tác xúc tiến đầu tư còn yếu, dẫn tới nhiều tình huống xử lý còn lúng túng, kéo
dài.
Để các dự án PPP hạ tầng giao thông tại Thành phố Hồ chí Minh thực
sự khởi sắc, Sở Giao thông vận tải thành phố cho rằng, cần tập trung củng cố
nhân sự tham gia bộ phận xúc tiến đầu tư, nâng cao trình độ cán bộ thực hiện
- 44 -
dự án PPP. Bên cạnh đó, cần sớm hoàn thiện lập đề xuất dự án và công bố
danh mục dự án kêu gọi đầu tư PPP. Thông tin sớm và đầy đủ cho các nhà đầu
tư hiểu rõ phương thức đầu tư nhằm giúp nhà đầu tư có lựa chọn phù hợp khả
năng tài chính, đồng thời Sở Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với Viện Nghiên
cứu phát triển của Thành phố gấp rút hoàn thiện Đề án Xây dựng cơ chế chính
sách thu hút nhà đầu tư tham gia phát triển kết cấu hạ tầng theo hình thức
PPP.[28]
Để triển khai các dự án PPP một cách hiệu quả, UBND thành phố đã
yêu cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư xây dựng tiêu chí của từng loại dự án PPP làm
cơ sở lựa chọn và chuyển đổi phương thức đầu tư các dự án đầu tư công nhằm
đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà đầu tư, cơ quan quản lý và người dân.
Để tăng tính công khai, minh bạch, UBND thành phố còn đề nghị Sở
Kế hoạch và Đầu tư mở một chuyên mục riêng trên trang Web của Sở về nhu
cầu đầu tư công của Thành phố, trong đó, thông tin cụ thể về Danh mục các
dự án PPP đang kêu gọi đầu tư, các dự án đầu tư công truyền thống chuyển
sang PPP để các nhà đầu tư nắm được đầy đủ thông tin.
Để khắc phục tình trạng thiếu vốn ban đầu của các nhà đầu tư, trong
thời gian tới, các nhà đầu tư được lựa chọn thực hiện dự án PPP của thành
phố có thể sẽ được ứng trước vốn. Việc ứng vốn sẽ thông qua Quỹ Phát triển
dự án (PDF) mà Thành phố đang chuẩn bị triển khai. Sau khi được lựa chọn,
nhà đầu tư sẽ hoàn trả các chi phí chuẩn bị đầu tư cho Quỹ.
Thành phố cũng khuyến khích nhà đầu tư chủ động thực hiện đề xuất
dự án đối với những dự án có khả năng phát triển theo hình thức PPP, trình
nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt, làm cơ sở
triển khai các bước tiếp theo quy định; đồng thời, xây dựng cơ chế đặc thù của
Thành phố Hồ Chí Minh để thu hút nhà đầu tư và kiến nghị Chính phủ cho
phép Thành phố Hồ Chí Minh có các chính sách ưu đãi đối với những nhà đầu
- 45 -
tư có đề xuất dự án được phê duyệt, nhằm khuyến khích khu vực tư nhân tham
gia đầu tư theo hình thức PPP.
1.3.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Quảng Ninh trong phát triển hạ tầng giao
thông theo hình thức PPP [27, tr.43-45]
Quảng Ninh là một tỉnh ven biển thuộc khu vực Đông Bắc Việt Nam, là
một tỉnh triển khai các dự án PPP, đặc biệt là các dự án PPP trong lĩnh vực
giao thông đường bộ khá mạnh mẽ.
Sau khi Chính phủ ban hành các chính sách về đầu tư theo hình thức
PPP và chỉ đạo huy động các nguồn vốn từ khu vực tư nhân vào phát triển hạ
tầng và cung cấp dịch vụ công, tỉnh Quảng Ninh đã nhanh chóng triển khai
các hoạt động nhằm thu hút các nhà đầu tư thực hiện đầu tư theo hình thức
này. Ngày 05/12/2013, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ-TU chỉ đạo
các cấp ủy lãnh đạo triển khai thí điểm áp dụng mô hình PPP và sau đó là Kết
luận 58-KL/TU về triển khai thí điểm đầu tư và quản lý các dự án PPP. Triển
khai các quyết định này, UBND tỉnh đã ban hành Danh mục các dự án đầu tư
theo hình thức PPP trên địa bàn tỉnh, đặc biệt chú trọng hình thức đầu tư BOT
bao gồm 64 công trình và giao nhiệm vụ đầu mối thực hiện cho 14 huyện, thị
xã, thành phố và 12 Sở, ban, ngành.
Triển khai Nghị định 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đầu tư theo
hình thức PPP, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết 208/2015/NQ-HĐND quy
định một số ưu đãi và hỗ trợ đầu tư thực hiện dự án mới, dự án mở rộng theo
hình thức xã hội hóa tại các địa bàn khó khăn; UBND tỉnh ban hành Quyết
định số 3456/2015/QĐ-UBND quy định chi tiết về trình tự, thủ tục thực hiện,
quản lý dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước và dự án đầu
tư theo mô hình PPP trên địa bàn tỉnh (hiện nay được thay thế bằng Quyết
định 2999/2016/QĐ-UBND).[27, tr.46-47]
- 46 -
Để thu hút các nhà đầu tư và xúc tiến đầu tư theo hình thức PPP được
nhanh chóng, UBND tỉnh đã giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư đề xuất thành
lập Ban chỉ đạo PPP do Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban. Ban chỉ đạo
này đã ban hành hướng dẫn các địa phương về tiêu chí lựa chọn dự án, mô
hình, quy trình lựa chọn nhà đầu tư và quản lý dự án PPP.[27,tr.47]
UBND tỉnh đã cử 25 cán bộ đi học tập, bồi dưỡng ngắn hạn về PPP tại
Úc; cử 01 cán bộ tham gia Khóa đào tạo về Xã hội hóa trong đầu tư xây dựng
hạ tầng giao thông do Bộ Giao thông Vận tải tổ chức tại Úc; phối hợp với
Viện Đào tạo và nghiên cứu quản lý kinh tế của Vụ Quản lý đấu thầu (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư) tổ chức lớp Tập huấn về PPP và công tác đấu thầu cho 72
học viên là công chức thuộc các Sở ngành và địa phương trong tỉnh.
Việc triển khai quyết liệt của tính đã mang lại những thành công cho
việc thu hút đaàu tư theo hình thức PPP trên địa bàn tỉnh. Cho tới nay, trên địa
bàn tỉnh đã và đang triển khai 5 dự án PPP, trong đó có 4 dự án được thực
hiện theo hình thức BOT trong lĩnh vực hạ tầng giao thông vận tải gồm: [27,
tr.43-45]
- Dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A đoạn Hạ Long - Bắc Ninh với
tổng mức đầu tư cả hai giai đoạn là 4.223 tỷ đồng, trong đó vốn chủ sở hữu
chiếm 15% và vốn vay là 85%. Hợp đồng BOT được ký kết cho dự án này
được thực hiện giữa Bộ Giao thông Vận tải (cơ quan nhà nước có thẩm quyền)
và Công ty cổ phần BOT Đại Dương với thời gian khai thác 25 năm. Công
trình đã hoàn thành và đưa vào khai thác toàn tuyến từ 2017;
- Dự án cầu Bạch Đằng, đường dẫn và nút giao cuối tuyến với tổng mức
đầu tư 7.277,5 tỷ đồng (vốn ngân sách tỉnh là 488,3 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu
855 tỷ và vốn vay 6.394,596 tỷ) được ký kết giữa UBND tỉnh Quảng Ninh (cơ
quan nhà nước có thẩm quyền) và Liên doanh 8 nhà đầu tư với thời gian khai
- 47 -
thác 20 năm 2 tháng. Dự án đã được khởi công xây dựng từ tháng 01/2015 và
dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2018.
- Dự án đường cao tốc Hạ Long-Vân Đồn và cải tạo, nâng cấp Quốc lộ
18 đoạn Hạ Long-Mông Dương được ký kết giữa UBND tỉnh Quảng Ninh (cơ
quan nhà nước có thẩm quyền) với Liên danh các nhà đaàu tư (gồm Công ty
Cổ phần đầu tư và Xây dựng giao thông Công Thành và Công ty Phương
Thành) với tổng mức đầu tư 13.988,394 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách là
3.926 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư 1.081,239 tỷ đồng và vốn vay
8.891,155 tỷ đồng.
- Dự án Cảng hàng không Quảng Ninh (Sân bay Vân Đồn) được ký kết
giữa UBND tỉnh Quảng Ninh với Công ty cổ phần Tập đoàn Sungroup có
tổng mức đầu tư 7.485,038 tỷ đồng, trong đó có 734 tỷ là vốn ngân sách nhà
nước của tỉnh (thực hiện giải phóng mặt bằng) và vốn của nhà đầu tư là
7.275,541 tỷ đồng. Thời gian khai thác công trình theo hợp đồng là 45 năm.
Hiện sân bay đã hoàn thành và thực hiện bay thử nghiệm và hiệu chỉnh.
- Dự án thứ 5 được thực hiện theo hình thức BT là Dự án đường dẫn
cầu Bắc Luân II có tổng mức đầu tư là 930,201 tỷ đồng. Hợp đồng thực hiện
dự án này được ký kết giữa Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Ninh (theo ủy
quyền của UBND tỉnh tại Quyết định 315/QĐ-UBND ngày 13/02/2014 của
UBND tỉnh) và Liên danh nhà đầu tư gồm Công ty TNHH chế tạo thiết bị
Phong Trạch (Quảng Đông), Công ty cổ phần tập đoàn đầu tư phát triển An
Đức (Quảng Tây) và Công ty cổ phần tập đoàn đầu tư phát triển An Đắc.
1.3.3. Những giá trị tham khảo cho tỉnh Đắk Lắk
Thực tiễn triển khai các dự án PPP ở nước ngoài và các tỉnh trong nước
đã chỉ ra nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị quý cho tỉnh Đắk Lắk khi triển
khai thu hút đầu tư vào các dự án giao thông vận tải. Những kinh nghiệm chủ
yếu có thể chỉ ra là:
- 48 -
Thứ nhất, muốn thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn vào các dự án PPP giao
thông vận tải vốn có thời gian xây dựng và quản lý dài, cần có môi trường
pháp lý ổn định và rõ ràng. Nhà nước cần nhanh chóng hoàn chỉnh khung
pháp lý về đầu tư theo hình thức đối tác công - tư và trên cơ sở các quy định
chung của Nhà nước, tỉnh cần ban hành các quy định chi tiết cụ thể, phù hợp
với điều kiện đặc thù của địa phương để các nhà đầu tư dễ tìm hiểu và tạo
niềm tin cho các nhà đầu tư tư nhân;
Thứ hai, cần có sự ủng hộ mạnh mẽ từ phía các nhà lãnh đạo cao nhất
của tỉnh. Cam kết ủng hộ từ phía lãnh đạo không chỉ đẩy nhanh các thủ tục
xúc tiến đầu tư và triển khai các dự án mà còn góp phần quan tọng tạo niềm
tin cho các nhà đầu tư tư nhân;
Thứ ba, cần có cơ chế phối hợp rõ ràng, phân định rõ ràng chức năng,
nhiệm vụ và trách nhiệm giữa các cơ quan của tỉnh trong quá trình xúc tiến và
triển khai các dự án PPP;
Thứ tư, cần có cơ quan chuyên trách làm đầu mối để xúc tiến việc triển
khai các dự án PPP, công bố công khai danh mục các dự án thu hút đầu tư
theo hình thức PPP, đồng thời cần cải cách thủ tục hành chính theo hướng
“một cửa” để các nhà đaàu tư tư nhân dễ tiếp cận và triển khai các dự án;
Thứ năm, cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về PPP cho cán bộ, công
chức.
- 49 -
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Hạ tầng giao thông vận tải có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung và từng địa phương nói
riêng. Phát triển hạ tầng giao thông vận tải là yêu cầu tất yếu khách quan và có
ý nghĩa quan trọng để phát triển.
Các công trình hạ tầng giao thông vận tải thường có thời gian xây dựng
và vận hành lâu dài, đòi hỏi nhiều nguồn vốn đầu tư. Trong bối cảnh ngân
sách nhà nước ngày càng eo hẹp hiện nay, việc tìm kiếm nguồn vốn đầu tư
mới để tăng cường phát triển hạ tầng giao thông vận tải là rất cần thiết. Huy
động nguồn vốn tư nhân vào phát triển hạ tầng giao thông vận tải theo mô
hình PPP là một giải pháp quan trọng. Bên cạnh việc đa dạng hóa nguồn vốn
cho các dự án hạ tầng giao thông, việc triển khai PPP còn giúp nhà nước tăng
cường hiệu quả đầu tư công, minh bạch hóa hoạt động và nhanh chóng tiếp
cận các thành tựu khoa học - công nghệ trong lĩnh vực giao thông vận tải.
Việc triển khai PPP trong lĩnh vực phát triển hạ tầng giao thông hiện
nay được thực hiện chủ yếu theo các hình thức BOT, BTO, BT, và được
triển khai rất đa dạng trong thực tế. Thực tế những năm qua cho thấy, để thực
hiện PPP cần có nhiều điều kiện, trong đó sự ủng hộ của lãnh đạo và một hệ
thống pháp lý đầy đủ, ổn định là điều kiện tiên quyết không chỉ hỗ trợ việc
thực hiện các dự án mà còn góp phần quan trọng tạo niềm tin cho các nhà đầu
tư, khuyến khích họ góp vốn vào các dự án phát triển giao thông vận tải.
- 50 -
CHƢƠNG II
HỢP TÁC CÔNG TƢ TRONG ĐẦU TƢ
CƠ SỞ HẠ TẦNG GIAO THÔNG TẠI TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Tổng quan về tỉnh Đắk Lắk
2.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk là một tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, được coi là thủ phủ của
vùng, có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng đặc biệt
quan trọng của đất nước. Tỉnh Đắk Lắk phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam
giáp tỉnh Lâm Đồng phía Tây Nam giáp tỉnh Đắk Nông, phía Đông giáp tỉnh
Phú Yên và tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia với tổng
diện tích tự nhiên của tỉnh là 1.312.537 ha, dân số 1.750.100 người (năm
2010), chiếm 24% về diện tích và 36,3% về dân số vùng Tây nguyên. Mật độ
dân số trung bình toàn tỉnh là 133 người/km2.
Tỉnh Đắk Lắk hiện có 15 đơn vị hành chính, bao gồm: Thành phố Buôn
Ma Thuột (đô thị loại I), thị xã Buôn Hồ (đô thị loại IV) và 13 huyện là Ea
H’leo, Ea Súp, Krông Năng, Krông Búk, Buôn Đôn, Cư M’gar, M’Đrắk, Ea
Kar, Krông Pắc, Krông Bông, Krông Ana, Cư Kuin và huyện Lắk
Thành phố Buôn Ma Thuột là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, và
khoa học kỹ thuật đào tạo, dịch vụ du lịch của tỉnh Đắk Lắk. Trung tâm thành
phố Buôn Ma Thuột là điểm giao cắt giữa quốc lộ 14 (chạy xuyên suốt tỉnh
theo chiều từ Bắc xuống Nam) với quốc lộ 26 và quốc lộ 27 nối Buôn Ma
Thuột với các thành phố Nha Trang (Khánh Hoà), Đà Lạt (Lâm Đồng) và Plei
ku (Gia Lai). Sân bay Buôn Ma Thuột đã và đang được đầu tư nâng cấp kỹ
thuật, mở rộng nhà ga và đã khai thác các đường bay tới Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh và Đà Nẵng với các loại máy bay A320, 321, ATR 72.
- 51 -
Với những đặc điểm trên tỉnh Đắk Lắk ngoài vị trí thuận lợi về giao lưu
kinh tế còn có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường
không những vùng Tây nguyên mà còn đối với cả nước.
Đắk Lắk là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội của cả vùng
Tây Nguyên. Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế đạt mức khá: giá
trị tổng sản phẩm bình quân hàng năm giai đoạn 2011-2015 của tỉnh ước đạt
8%, trong đó tăng trưởng ngành nông - lâm - thủy sản đạt 4,2%; công nghiệp -
xây dựng đạt 10,2% và dịch vụ đạt 11,6%. Quy mô nền kinh tế năm 2015 ước
đạt 18.520 tỷ đồng, gấp 1,5 lần so năm 2010. Thu nhập bình quân đầu người
(giá hiện hành) năm 2015 ước đạt 32,7 triệu đồng/người.
Trong những năm vừa qua, Đắk Lắk đạt nhiều thành tựu về hoạt động
xúc tiến, vận động viện trợ, đầu tư từ các tổ chức quốc tế, góp phần to lớn
trong việc làm thay đổi bộ mặt đời sống nông thôn và nâng cao năng lực xóa
đói, giảm nghèo cho người dân. Nhờ có bước tiếp cận, vận động theo hướng
chủ động hơn, nên số lượng các dự án đầu tư nước ngoài (chủ yếu là ODA) đã
tăng lên rõ rệt. Trong giai đoạn này đã vận động được 45 dự án với tổng mức
đầu tư 350 triệu USD, tập trung vào lĩnh vực hạ tầng, giáo dục, y tế và giảm
nghèo Trong đó có 15 dự án đã triển khai với tổng mức đầu tư hơn 150
triệu USD. Ngoài ra, các chương trình, dự án viện trợ phi chính phủ cũng
được chính quyền địa phương xúc tiến kêu gọi một cách hiệu quả và đa dạng
hơn về hình thức cũng như quy mô đầu tư. Năm 2015 trên địa bàn tỉnh đã có
30 tổ chức phi chính phủ đang hoạt động (thông qua 30 khoản viện trợ), trong
đó đã vận động thành công 1 dự án với quy mô tài trợ khá lớn từ Tổ chức
AP/Mỹ (khoảng 13 triệu USD). Và sắp tới, số lượng chương trình, dự án cũng
như quy mô tài trợ từ những tổ chức trên sẽ tăng lên đáng kể, tạo nguồn lực
giúp Đắk Lắk tiếp tục phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
Vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân mỗi năm 9,3%, thấp hơn giai
đoạn 2006-2010 (28,4%). Tổng vốn đầu tư 5 năm 2011-2015 ước đạt khoảng
- 52 -
61,85 nghìn tỷ đồng, bằng 24,9% GDP theo giá hiện hành. Theo cơ cấu, vốn
nhà nước chiếm 30,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; vốn khu vực ngoài nhà
nước chiếm 66,4%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 3,1% Từ năm
2011, hiệu quả sử dụng vốn đã có xu hướng giảm dần và quy mô vốn tăng
chậm.
Nguồn vốn đầu tư và cơ cấu đầu tư trên địa bàn tỉnh từng bước thực
hiện hợp lý theo các nhiệm vụ mục tiêu phát triển trọng tâm. Vốn ngân sách,
vốn ODA, NGO tập trung đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phúc
lợi công cộng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội; vốn tín dụng đầu tư cho phát
triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhân dân và vốn FDI đầu tư
phát triển chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến.
Vốn đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn chiếm 31,9%; công
nghiệp và xây dựng chiếm 26,8%, thương mại, dịch vụ chiếm 41,3%.
2.1.2. Khái quát về cơ sở hạ tầng giao thông tỉnh Đắk Lắk
Giao thông Đắk Lắk hiện tại có 03 loại hình chính: đường bộ, đường
thuỷ và đường hàng không.
- 53 -
2.1.2.1. Hệ thống đường bộ
Mạng đường quốc lộ trên địa bàn tỉnh có tổng chiều dài 576,5km gồm
các tuyến quốc lộ 26,27,29,14,14C. Tổng các cầu trên các Quốc lộ là 114 cầu
với tổng chiều dài 4.198,6m. Quốc lộ 26 là quốc lộ bắt đầu từ trung tâm thị xã
Ninh Hoà (km 1420, quốc lộ 1, tỉnh Khánh Hoà) đến thành phố Buôn Ma
Thuột (tỉnh Đăk Lăk), qua đèo Dục Mĩ, đèo Phượng Hoàng, M’Drak, Ea Kar,
Krông Păc, Buôn Ma Thuột; Quốc lộ 27 là quốc lộ bắt đầu từ huyện Lâm Hà,
Đam Rông (Lâm Đồng) đến thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đăk Lăk) qua
Lăk, Krông Ana, Buôn Ma Thuột; Quốc lộ 29 là quốc lộ bắt đầu từ huyện
Sông Hinh (tỉnh Phú Yên) đến thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đăk Lăk) qua
các huyện Krông Năng, Ea Kar, thị xã Buôn Hồ; Quốc lộ 14 là một phần
- 54 -
đường của đường Hồ Chí Minh, là quốc lộ bắt đầu từ huyện Chư Sê (tỉnh Gia
Lai) đến thành phố Buôn Ma Thuột qua các huyện Ea H’Leo, Krông Búk, thị
xã Buôn Hồ, Cư M’Gar, thành phố Buôn Ma Thuột, huyện Cư Jút (tỉnh Đăk
Nông); Quốc lộ 14C bắt đầu từ thị trấn Plei Kần - huyện Ngọc Hồi (tỉnh Kon
Tum), Quốc lộ 14C là tuyến giao thông cấp quốc gia nối các địa phương
Trung và Nam Tây nguyên dọc biên giới Việt Nam - Campuchia.
Mạng lưới đường tỉnh gồm 13 tuyến với tổng chiều dài 457km, quy mô
các tuyến đường tỉnh thuộc cấp IV miền núi, đường 02 làn. Tổng số cầu trên
các tuyến đường tỉnh là 78 cầu với tổng chiều dài khoảng 1.190m.
Mạng đường huyện có chiều dài 1.403,82km, các đường huyện chủ yếu
là đường cấp V và cấp VI miền núi. Trên các tuyến đường huyện có khoảng
67 cầu với tổng chiều dài khoảng 937,8m.
Mạng đường xã và đường thôn, buôn: Mạng đường xã của các huyện có
chiều dài 3.220,07km, hiện nay còn 03 xã chưa có đường tới trung tâm xã.
Mạng đường thôn, buôn tương đối phát triển với tổng chiều dài 4.079,32km.
Đường chuyên dùng của các nông, lâm trường với tổng chiều dài
khoảng 675km, chủ yếu là đường đất.
2.1.2.2. Hệ thống đường thuỷ:
Đăk Lăk có khoảng 544km đường sông do các sông Sêrêpôk, Krông
Nô, Krông Natạo thành. Tổng số phương tiện thuỷ nội địa đang hoạt động
trên địa bàn một số huyện, thành phố hiện nay là 834 phương tiện. Hệ thống
bến thuỷ nội địa gồm 04 bến xếp cát. Các bến đò ngang sông gồm có: Buôn
Trấp, Bình Hoà, Quảng Điền, Krông Nô và Buôn Jul. Nhìn chung, hệ thống
giao thông đường thủy ở Đắk Lắk khá hạn chế, không có vai trò chủ đạo trong
vận tải.
2.1.2.3. Đường hàng không:
- 55 -
Cảng hàng không Buôn Ma Thuột là một trong 3 cảng hàng không của
khu vực Tây Nguyên đã có các chuyến bay đến thành phố Hà Hội, thành phố
Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng, thành phố Vinh, thành phố Hải Phòng và
ngược lại. Năm 2010, Cảng hàng không Buôn Ma Thuột đã được đầu tư, nâng
cấp, cải tạo đường cất, hạ cánh có chiều dài 3.000m, rộng 45m với các trang
thiết bị phụ trợ, đèn đêm. Tháng 11/2011 đã đưa vào sử dụng nhà ga mới với
tổng diện tích sàn 7.200m2, công suất 1 triệu hành khách/ năm. Nhà ga mới
đáp ứng 4 chuyến bay giờ cao điểm (02 chuyến đi và 02 chuyến đến) với loại
máy bay Airbus 320, 321 và tương đương, phục vụ 400 hành khách/giờ cao
điểm (2 chiều).
2.2. Thực trạng triển khai hợp tác công - tƣ trong phát triển hạ
tầng giao thông ở tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Thực trạng cơ sở pháp lý
Hiện tại, tỉnh Đắk Lắk đang thực hiện triển khai hoạt động đầu tư theo
hình thức đối tác công tư trên cơ sở các quy định chung và một số quy định cụ
thể của tỉnh.
Mặc dù chủ trương tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia cung
cấp hàng hóa và dịch vụ và thực hiện hợp tác giữa khu vực công (nhà nước)
và khu vực tư nhân để tăng hiệu lực và hiệu quả hoạt động đã có từ khá lâu ở
nước ta và trên thực tế, các dự án hợp tác công-tư đã được triển khai dưới
nhiều hình thức khác nhau, trong nhiều lĩnh vực, ở nhiều địa phương, nhưng
những quy định xác lập khung pháp lý cho các hoạt động đầu tư của tư nhân
trong các dự án phối hợp cùng nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn còn khá tản
mát và chưa cụ thể.[5, tr.57]
Mô hình PPP bắt đầu được triển khai ở Việt Nam dưới hình thức BOT
vào năm 1997 khi Chính phủ ban hành Nghị định số 77/1997/NĐ-CP ngày
18/6/1997 về Quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng BOT áp dụng
- 56 -
cho đầu tư trong nước. Thể chế hóa chủ trương của Đảng về xã hội hóa, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương
hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa. Trong
đó, xã hội hoá được hiểu là quá trình vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi
của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển, cung cấp các dịch vụ công.
Hàng loạt các quy định ra đời sau đó đã chi tiết hóa Nghị quyết 90/CP này và
mở rộng sang các lĩnh vực khác, trong đó có đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở
nói chung và hạ tầng giao thông nói riêng, chẳng hạn như:
• Nghị định số 108/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Chính
phủ quy định về đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Kinh
doanh - Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh,
Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao;
• Quyết định 71/2010/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối
tác công - tư;
• Nghị định 24/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định các dự án khuyến
khích đầu tư theo các hình thức BT, BOT, BTO;
• Nghị định 15/2015/CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư theo
hình thức đối tác công tư. Nghị định quy định về lĩnh vực, điều kiện,
thủ tục thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư; cơ chế
quản lý và sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án;
chính sách ưu đãi, bảo đảm đầu tư và trách nhiệm quản lý nhà nước đối
với dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư. Cũng tại Nghị định này,
Chính phủ đã thống nhất thuật ngữ PPP bao gồm cả các dự án thực hiện
theo các hình thức BOT, BTO, BT.
• Nghị định số 30/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quy định chi tiết thi
hành một số điều trong Luật Đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Nghị định
- 57 -
này quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa
chọn nhà đầu tư theo quy định tại Khoản 3 Điều 1 của Luật Đấu thầu,
bao gồm: Dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) theo quy
định của Chính phủ về đầu tư PPP và dự án đầu tư sử dụng các khu đất,
quỹ đất có giá trị thương mại cao.
• Nghị định 63/2018/CP ngày 04/5/2018 về đầu tư theo hình thức đối tác
công - tư.
Đến nay, cơ sở pháp lý cao nhất liên quan trực tiếp đến hợp tác công -
tư nói chung và hợp tác công-tư trong phát triển hạ tầng giao thông nói riêng
là Nghị định 63/2018/CP ngày 04/5/2018 về đầu tư theo hình thức đối tác
công - tư (có hiệu lực từ 19/6/2018 và thay thế Nghị định số 15/2015/NĐ-CP
ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác
công tư). [15] Ngoài ra, mô hình này còn được triển khai thực hiện dựa vào
Mô hình này còn dựa vào một số luật, nghị định khác liên quan để triển khai
như Luật Đầu tư công, Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu
Ngoài ra, còn có nhiều quy định pháp luật liên quan tới việc triển khai
hoạt động đầu tư theo hình thức hợp tác công-tư như Luật Đất đai số
45/2013/QH13; Luật đầu tư công số 49/2014/QH13 ngày 18/6/2014; Luật Xây
dựng số 50/2014/QH13; Luật Đầu tư số 67/2014/QH 13, và một số văn bản
hướng dẫn các Luật này.
Nhìn chung, ở tầm quốc gia, các quy định pháp lý về PPP đã tương đối
đầy đủ nhưng còn chưa thống nhất và tản mát trong nhiều văn bản khác nhau
ở các cấp. Do đó, trong tương lai, cần thống nhất các quy định này trong một
Luật về PPP.[5, tr.86-89]
Cụ thể hóa các quy định về PPP, tỉnh Đắk Lắk cũng đã ban hành nhiều
quy định liên quan tới việc triển khai hình thức đầu tư PPP trên địa bàn tỉnh,
hướng dẫn quy trình thủ tục và làm rõ thêm hành lang pháp lý để triển khai
- 58 -
PPP trên địa bàn tỉnh, chẳng hạn như:
- Công văn số 8582/UBND-TH ngày 18/11/2015 của UBND tỉnh về
việc triển khai thực hiện đầu tư theo hình thức đối tác công-tư (PPP) trên địa
bàn tỉnh, trong đó giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối quản lý hoạt
động PPP, phối hợp với các sở, ban, ngành và các đơn vị có liên quan tham
mưu giúp UBND tỉnh về các vấn đề liên quan tới PPP.[44]
- Công văn số 2108/UBND-TH ngày 25/3/2016 của UBND tỉnh về việc
triển khai thực hiện Thông tư số 02/2016/TT-BKHĐT (ngày 01/3/2016 của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư) về hướng dẫn lựa chọn sơ bộ dự án, lập, thẩm định,
phê duyệt đề xuất dự án và báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư theo hình
thức PPP, trong đó xác định các đơn vị trước khi lập đề xuất dự án PPP phải
được sự đồng ý của UBND tỉnh cho phép lập đề xuất dự án (qua Sở Kế hoạch
và Đầu tư). Đối với các dự án thuộc lĩnh vực g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_hop_tac_cong_tu_trong_dau_tu_co_so_ha_tang_giao_tho.pdf