MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
1.1.Tác giả Nguyễn Minh Châu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 1
1.2. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . . . . . . . . . 3
2. Lịch sử vấn đề . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
5. Phương pháp nghiên cứu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
6. Bố cục luận văn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 8
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Tiền đề lý luận và thực tiễn của đề tài
1. Phương pháp phân tích và thảo luận trong quá trình dạy học tác phẩm
văn chương: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .10
Phương pháp phân tích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10
Phương pháp thảo luận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 15
Mối quan hệ giữa hai phương pháp trên trong quá trình dạy học tác phẩm
văn chương. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 21
2. Các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương:. . . . . . . . . . 26
Quan niệm về ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương .2 6
Những biểu hiện cụ thể của ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương . . . . . . . .26
Cách thức phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh trong tác
phẩm văn chương. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 27
Tầm quan trọng của ý nghĩa nhân sinh trong tác phẩm văn chương và trong
việc giáo dục, đào tạo nhân cách học sinh . .31
Chương II: Những biểu hiện cụ thể của các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
1. Phân tích kết cấu truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa ” . . . . . . . . . . . .33
Định nghĩa kết cấu tác phẩm văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
Kết cấu của truyện ngắn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
Kết cấu của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. . . . . . . . . . . 34
2. Phân tích chủ đề của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . 35
2.1 . Định nghĩa chủ đề . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 35
2.2. Chủ đề truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . . . . . . . .35
2.3. Phân tích chủ đề truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . 36
3. Những biểu hiện cụ thể của các tầng ý nghĩa nhân sinh trong truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 39
3.1. Những chiêm nghiệm về chân lý nghệ thuật qua hai phát hiện của
nghệ sĩ Phùng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 40
3.2. Những chiêm nghiệm về chân lý đời sống qua câu chuyện về cuộc
đời người đàn bà hàng chài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 43
3.2.1. Ca ngợi những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người qua hình
tượng nhân vật trung tâm: người đàn bà hàng chài . . . . . . . . . 43
3.2.2. Lên án bạo lực trong gia đình qua hình tượng nhân vật người đàn
ông hàng chài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 52
3.2.3. Cảnh báo những nguy cơ xã hội tiềm ẩn . . . . . . . . . . . . . . . . . 54
3.2.3.1. Hình tượng nhân vật chú bé Phác . . . . . . . . . . . . . . . . .54
3.2.3.2. Hình tượng nhân vật người con gái . . . . . . . . . . . . . . .55
3.2.4. Sự thức tỉnh để nhận ra chân lý mới: chân lý về nghệ thuật và
chân lý về cuộc sống . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .56
3.2.4.1. Đối với người chánh án . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 56
3.2.4.2. Đối với người nghệ sĩ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 58
3.2.4.3. Quan niệm nghệ thuật mới mẻ của Nguyễn Minh Châu về
con người và cuộc sống . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 58
3.3. Mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống . . . . . . . . . . . . . . . . . 59
4. Mối quan hệ đa dạng và thống nhất giữa các tầng ý nghĩa nhân sinh trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”61
Chương III: Thiết kế dạy học truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
1. Thiết kế. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 63
2. Giải thích thiết kế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .91
3. Hướng dẫn thực hiện thiết kế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 92
Phần chung của thực hiện thiết kế . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .92
Phần cụ thể: Hướng dẫn học sinh vận dụng PP phân tích và PP thảo luận
trong việc tìm hiểu các tầng ý nghĩa nhân sinh của truyện . . 95
Tự đánh giá về những ưu điểm và những bất cập của thiết kế . 99
PHẦN KẾT LUẬN
112 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7534 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hướng dẫn học sinh phân tích và thảo luận các tầng ý nghĩa nhân sinh trong quá trình dạy học truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khác mà ta vẫn thường gặp trong
cuộc sống. Chị không giống như phần đông các nhân vật nữ trong văn học
trước năm 1975 nói chung và trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu nói
riêng thường mang một vẻ đẹp dịu dàng quyến rũ. chị tiêu biểu cho những
người phụ nữ lam lũ, vất vả nhọc nhằn trong cuộc sống đời thường đầy gian
truân. Nhân vật người đàn bà vùng biển là một con người vô danh. chị không
có tên tuổi, lai lịch. Chị là người đời thường như biết bao người đến lại đi
trong cuộc đời với hính bóng mờ nhạt, nhưng trong trang viết của Nguyễn
Minh Châu, người đàn bà vùng biển lam lũ cực nhọc ấy vẫn để lại bao trăn trở
day dứt trong lòng người đọc.
- Ngoại hình: thô kệch, xấu xí, lam lũ. Cái khổ và số phận như chạm
khắc lên ngoại hình của chị:“Trạc ngoài bốn mươi…thân hình cao lớn với
những đường nét thô kệch…rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi…tái ngắt,…tấm lưng
áo bạc phếch, rách rưới”
Chỉ qua vài chi tiết miêu tả ngoại hình chân thực tác giả đã hé mở cho
thấy bao dự cảm về số phận và tính cách nhân vật: Đó là một người đàn bà
chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần. Trước hết, đây là
một người đàn bà kém nhan sắc, không một nét nào ở chị gợi lại một thời
thiếu nữ tươi đẹp. Năm tháng và cuộc sống mưu sinh vất vả nhọc nhằn càng
làm cho chị thay đổi. Dường như cuộc sống khắc nghiệt vẫn đang đeo bám và
cố vắt kiệt sức sống của chị.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
Nhưng từ thân hình của người đàn bà vẫn toát lên sức sống dẻo dai, bền
bỉ như để thích nghi với hoàn cảnh, để tồn tại. Tấm áo của chị như mách bảo
sự thiếu thốn đói nghèo: nó “bạc phếch” vì dầm mưa dãi nắng, nó “rách
rưới” vì làm cật lực mà vẫn chẳng đủ ăn, đói nghèo cứ đeo bám mãi.
Ngoại hình người đàn bà đã gợi ra một số phận nghèo khổ, vất vả, nhọc
nhằn; một nét tính cách: cần cù, nhẫn nại, cam chịu. Đây là hình ảnh sống
động tiêu biểu cho những kiếp người luôn phải gồng mình lên để chống chọi,
để mưu sinh, để tồn tại.
- Qua bi kịch gia đình mà Phùng được chứng kiến anh cảm nhận được:
+ Chị là người vợ chịu nhiều thiệt thòi bất hạnh, tự mình chấp nhận và nén
chịu mọi đau khổ để giữ gìn mái ấm gia đình.
Vì cuộc sống mưu sinh chị đã phải thức suốt đêm để kéo lưới, để chèo chống
con thuyền gia đình bình yên nơi biển cả đầy bất trắc. Không chỉ vậy chị còn
tự nguyện gồng mình chịu đòn roi của chồng, chịu nỗi đau thể xác mà không
oán thán “không kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”
để mong vừa giải toả được cơn giận của người chồng, vừa bảo vệ được mái
ấm gia đình. Dường như mọi cảm xúc của chị đã chai lỳ qua các trận đòn.
Nhưng khi thấy đứa con trai chạy đến chống trả lại bố nó, thì tất cả những gì
chị đang dồn nén, kìm giữ như vỡ oà ra: “Người đàn bà dường như lúc này
mới cảm thấy đau đớn- vừa đau đớn vừa vô cùng nhục nhã…Miệng mếu máo
gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại
buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy”. Bao tủi hờn cay đắng,
thương mình, thương con ở người đàn bà khốn khổ như tan thành nước mắt.
Chị khóc lặng lẽ trong chua xót, đau đớn, tủi nhục; vì dù cố gắng giữ gìn
không muốn để các con trông thấy cảnh bạo lực trong gia đình mà không
được. Những đứa con cuối cùng vẫn biết sự thật khiến chị “vừa đau đớn, vừa
vô cùng tủi hổ, nhục nhã”. Đứa con – thằng Phác – vì yêu mẹ, thương mẹ mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
trở nên căm ghét bố. Nó xông vào đánh bố cũng là để bảo vệ mẹ, để bố không
đánh mẹ. Chứng kiến cảnh đó chị khóc và “vái lấy vái để” đứa con như là để
“tạ lỗi” với nó, như là cầu xin nó đừng căm thù bố nó. Để rồi sau đó chị
buông đứa con và đuổi theo người đàn ông vừa đánh mình. Người mẹ thương
con nhưng không thể bỏ chồng dù người chồng đó tàn bạo. Qua đó ta thấy
cuộc sống là những mối dây ràng buộc vô hình, phức tạp không dễ gì cởi bỏ.
Họ –ba con người: người mẹ tội nghiệp đáng thương, người bố độc ác, tàn
nhẫn và đứa trẻ hồn nhiên ngây thơ sẽ chẳng rời xa nhau được. Họ sẽ còn luẩn
quẩn giữa yêu thương, thù hận và hành hạ lẫn nhau. Họ gieo vào lòng người
đọc bao băn khoăn trăn trở: cuộc sống và số phận của họ rồi sẽ ra sao ?
Cảnh bạo lực không chỉ dừng ở đó mà vẫn tiếp diễn “ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng” khiến người can thiệp không chỉ là thằng Phác
mà là cả những người ngoài cuộc với mọi giải pháp tích cực có, tiêu cực cũng
có: nghệ sĩ Phùng thì can thiệp bằng nắm đấm nện cho lão chồng độc ác một
trận, chánh án Đẩu thì khuyên chị bỏ chồng…mong giúp chị thoát khỏi số
phận. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là chị kiên quyết chối từ. Chị đã lý giải lý
do của mình qua câu chuyện cởi mở chân thành với Đẩu và Phùng ở toà án
huyện.
* Câu chuyện về cuộc đời người đàn bà hàng chài:
Theo lời mời của Đẩu, người đàn bà hàng chài đến toà án huyện để giải
quyết việc gia đình. Tuy không phải lần đầu đến đây, nhưng chị vẫn mang
dáng vẻ “lúng túng, sợ sệt” đáng thương đến tội nghiệp, chị dường như cố tìm
cách thu mình lại. Cách xưng hô của một người quen cúi đầu nhẫn nhịn: “con
– quý toà”, nó cũng thể hiện khoảng cách giữa con người trong xã hội: giữa
cá nhân chị và người đại diện công lý. Thật là bất ngờ: những lời đầu tiên của
chị ở chốn công đường lại là những lời lạy lục van xin khẩn thiết: Xin toà
đừng bắt bỏ chồng dù đó là người chồng cục súc vũ phu luôn hành hạ, đày ải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
mình. Người đàn bà hàng chài đã từ chối lời đề nghị giúp đỡ của chánh án
Đẩu, nghệ sĩ Phùng. Chị đau đớn đánh đổi bằng mọi giá để không phải bỏ
người chồng vũ phu “Con lạy quý toà…Quý toà bắt tội con cũng được, phạt
tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Sau hiểu lời khuyên đầy thiện ý của
chánh án Đẩu, thái độ của chị đột ngột thay đổi, cách xưng hô cũng thay đổi:
“chị - các chú”; vẻ lúng túng sợ sệt vẫn còn nhưng dường như tự tin hơn.
Người phụ nữ giải thích“Các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các
chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc…”. Sau đó
chị thân tình kể lại câu chuyên về cuộc đời mình với mong muốn được chia
sẻ, cảm thông; qua đó gián tiếp đưa ra lý do vì sao chị nhất quyết không chịu
bỏ người chồng vũ phu.
Trước đây chị không phải là người vùng biển. Chị là con một gia đình
khá giả trên phố “Từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một
bận lên đậu mùa…Cũng vì xấu mà trong phố không ai lấy, tôi có mang với
một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan
lưới”. Một điều dễ thấy: một người như chị thì việc mong ước có được một
gia đình thật khó mà thực hiện được; trong khi khát vọng về hạnh phúc, về
mái ấm gia đình lại là khát vọng bình dị muôn đời của tất cả những người phụ
nữ. Chị tự biết mình xấu nên đã cố vuợt qua cái thua thiệt về hình thức của
mình; việc chị tự nguyện lấy một anh con trai chuyên nghề chài lưới nghèo
khó, sống vất vả lam lũ, là chị đã chấp nhận tất cả, là thách thức và vuợt lên
số phận của chính mình. Nhưng số phận đã không mỉm cười với chị: cuộc đời
chị từ đó nỗi buồn nhiều hơn niềm vui; bởi cuộc sống mở ra bao éo le, khắc
nghiệt, còn con người thì không thể dửng dưng khi cái nghèo cái khó đang
từng ngày, từng giờ tác động vào gia đình, con cái và chính bản thân mỗi
người. Người chồng vì khổ quá, vì dồn nén những uất ức, ức chế với cuộc đời
mà không biết chia sẻ cùng ai, anh ta chỉ biết dồn lên đầu vợ những trận đòn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
tàn nhẫn. Người chồng trở thành người như vậy do nghèo khổ, túng quẫn, con
đông, thuyền chật. Như vậy hoàn cảnh đã và đang làm con người tha hoá
nhân phẩm, huỷ hoại nhân tính. Người vợ rất hiểu điều đó:“Lão chồng tôi khi
ấy là anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”,
còn bây giờ thì “bất kỳ lúc nào lão thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng
như đàn ông thuyền khác uống rượu, giá như mà lão uống rượu…thì tôi còn
đỡ khổ”, “Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ
mà đánh”. Sống vì con, chị âm thầm nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi thô
bạo, vũ phu của chồng. Chị xin chồng cho lên bờ đánh tránh để con nhìn thấy
cảnh nghiệt ngã ấy, tránh những ấn tượng xấu, chị muốn giữ lại trong con
những hình ảnh tốt đẹp nhất về cha mẹ. Không một lời lẽ căm thù, oán hờn;
chị giãi bày tâm sự, có trách móc nhưng vẫn “minh oan” cho cái dữ tợn, vũ
phu, tàn bạo của hành động đánh vợ. Chị hiểu nguyên nhân sâu sa của hành
động đánh vợ:
+ Vì công việc, nghề nghiệp: cuộc sống trôi nổi bấp bênh của nghề chài
lưới trên sông nước, làm ăn vất vả cực nhọc mà vẫn nghèo khổ; mọi sinh hoạt
của cả gia đình chỉ trong một chiếc thuyền chật hẹp, tù túng.
+ Vì trình độ học vấn thấp nên đẻ nhiều, đông con:“Nhưng cái lỗi chính
là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật” . Chị nhận cả phần
trách nhiện và lỗi về mình.
+ Vì nghèo khổ, túng đói: “Ông trời làm động biển suốt hàng tháng,cả
nhà vợ chồng, con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”.
+ Vì phong tục, tập quán để lại: “Đàn ông vạn chài ai cũng thế” (Lời cô
y tá). Điều đó cho ta thấy đây không chỉ là chuyện riêng của một gia đình.
Qua những lý do trên ta thấy: chị thấu hiểu, tha thứ, cảm thông, chia sẻ
với chồng những điều không dễ gì nói ra được. Thì ra lúc nào con người cũng
dễ dàng kết tội được cho nhau khi họ không chịu hiểu nhau; chỉ có cảm thông,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
chia sẻ, thấu hiểu con người mới nâng đỡ được con người để cùng sống trong
cuộc đời còn nhiều đau khổ và khó khăn này. Và nếu chỉ đứng từ xa quan sát
thì cho dù có được chứng kiến tận mắt cũng không dễ hiêủ ra vấn đề khuất
lấp đằng sau sự việc đánh vợ kia.
Chị - người đàn bà miền biển lam lũ, thất học, suốt đời vật lộn với sóng
nước mặn mòi, bươn chải để kiếm sống đã làm cho người đọc ngạc nhiên hơn
khi gián tiếp đưa ra những lí do để giải thích vì sao chị nhất quyết không bỏ
người chồng vũ phu đó là:
+ Người chồng là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời những người đàn bà
hàng chài như chị, nhất là những khi biển động phong ba. Vì trong cuộc sống
lam lũ còn nhiều thử thách, dường như người đàn ông và người đàn bà phải
nương tựa vào nhau để duy trì sự sống.
+ Chị cần có người đàn ônglàm trụ cột, làm chỗ dựa, gánh vác sự sống
của cả gia đình. Bởi: chị còn phải nuôi những đứa con, chị đâu có thể chỉ sống
cho riêng mình mà còn phải sống vì con nữa.
+ Trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng con cái sống hoà thuận, vui
vẻ và vui nhất là lúc được nhìn đàn con ăn no.
Phải chăng vì trách nhiệm làm mẹ, làm vợ mà chị phải chấp nhận số
phận, chấp nhận tình trạng bị hành hạ để gia đình chị luôn có một người đàn
ông làm trụ cột chèo lái con thuyền gia đình giữa cuộc đời đầy sóng gió. Bởi
số phận gia đình chị, đàn con của chị và bản thân chị sẽ ra sao nếu chị chấp
nhận bỏ chồng? Qua đó ta thấy nếu chỉ giải quyết được bi kịch này, thì hàng
loạt bi kịch khác lại từ đó nảy sinh. Cuộc sống không chỉ đơn giản như ta nghĩ
và ta muốn, mà nó có những quy luật riêng buộc chúng ta phải thừa nhận.
Hành trình đi tìm hạnh phúc nhỏ nhoi, bình dị của những người đàn bà hàng
chài kia vẫn đầy chông gai ở phía trước và có thể còn nảy sinh những bi kịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
đau đớn hơn. Con người luôn đứng trước sự lựa chọn và có lẽ chưa có sự lựa
chọn hoàn mĩ nào cho những người nghèo khổ đáng thương.
Đến đây ta thấy thái độ cam chịu đầy nhẫn nhục của người đàn bà hàng
chài không còn làm ta kinh ngạc vì thực chất đó là sự lựa chọn bất đắc dĩ
được suy tính kỹ lưỡng, sâu sa từ trước. Trong hoàn cảnh đông con mà cuộc
sống trên mặt nước lại đầy nhọc nhằn bất trắc, nỗi lo cơm áo không lúc nào
buông tha, người đàn bà ấy chỉ còn cách lựa chọn duy nhất là cam chịu nhẫn
nhục để bảo vệ hanh phúc gia đình.
Từ những nghịch lý trong bi kịch gia đình chị, chúng ta thấy: ẩn sau hình
hài thô kệch lam lũ, trong dáng vẻ nhẫn nhục cam chịu là vẻ đẹp tâm hồn của
người phụ nữ hàng chài:
+ Một người vợ luôn thấu hiểu, cảm thông và chia xẻ mọi khó khăn
trong cuộc sống với chồng. Bởi chồng chị vốn là “Một anh con trai cục tính
nhưng hiền lành lắm…không bao giờ đánh đập” vợ. Chỉ vì :“nghèo khổ túng
quẫn vì đi trốn lính”, vì quá đông con mà anh trở nên vũ phu, tàn nhẫn. Trong
con mắt chị, anh chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Chị nhận cả
phần trách nhiệm và phần lỗi về mình :“Giá tôi đẻ ít đi…” “lỗi chính là đám
đàn bà đẻ quá nhiều…”.
Một trái tim nhân hậu giàu lòng vị tha: Để vừa chèo chống con thuyền gia
đình được bình yên trên biển cả đầy phong ba bão táp, vừa chèo chống với đói
nghèo, lạc hậu, tù túng; chị không chỉ phải thức suốt đêm kéo lưới mà còn
phải nhẫn nhục cam chịu những trận đòn vô cớ của chồng. Dù bị đánh đập tàn
nhẫn, nhưng chị vẫn không oán trách chồng vì chị thấu hiểu nguyên nhân sâu
sa (nỗi khổ và sự bế tắc) làm người chồng thay đổi. Đặc biệt trong những đứa
con của mình, chị yêu nhất là thằng Phác – một thằng bé yêu mẹ vô cùng –
một thằng bé có ngoại hình và tính cách giống hệt bố. Điều đó chứng tỏ chị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
vẫn yêu chồng, cần chồng bởi cũng có những lúc gia đình chị được hạnh
phúc.
+ Một người phụ nữ với những khát khao cháy bỏng về hạnh phúc gia
đình - Một người mẹ hết lòng yêu thương các con, sẵn sàng chấp nhận mọi
thiệt thòi để bảo vệ giữ gìn mái ấm gia đình. Chị thà chịu những trận đánh
triền m chứ nhất định không chịu ly hôn, vì không muốn các con mất bố, gia
đình không có người đàn ông làm trụ cột để chèo chống giữa cuộc đời. Chị
không sống cho riêng mình mà sống vì gia đình, vì các con. Đàn con là nỗi
đau, là hạnh phúc, là mục đích sống có ý nghĩa nhất của chị. Niềm hạnh phúc
lớn nhất của chị là được nhìn thấy đàn con được ăn no. Chị luôn ý thức được
thiên chức làm mẹ, làm vợ của mình không gì đánh đổi đư. Những câu nói
trên như được chắt lọc từ cuộc đời nhiều nỗi nhọc nhằn, uẩn ức của chị đã gói
gọn tình cảm và khát vọng sâu thẳm của người mẹ. Những câu nói trên không
phải là để thở than hay oán trách số phận, mà là sự tự ý thức về bổn phận
người đàn bà sinh ra trên cõi đời này là để cho, để che chở. Chị nói ra để chia
sẻ với người chánh án, với người thợ chụp ảnh và cũng là để tự nói với mình;
sâu sắc, bình tĩnh lý giải những khúc mắc, những bi kịch của số phận mình.
Câu nói của chị trước toà chẳng có gì to tát, nó bình dị như chính cuộc sống
lam lũ, nhọc nhằn của chị. Nó thấm cái chát mặn của mồ hôi và nước mắt của
một đời người. Nhưng đằng sau đó là một trái tim nhân hậu muôn thuở của
một người đàn bà với thiên chức làm mẹ, làm vợ.
Người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác để rồi cuối cùng
phải sửng sốt, bàng hoàng, cảm phục trước trái tim người mẹ thăm thẳm bao
la, trước vẻ đẹp mẫu tính ngàn đời: Để gia đình luôn có một người đàn ông
chèo lái con thuyền, để đàn con được ăn no, người mẹ ấy phải chấp nhận tình
trạng bị hành hạ thường xuyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
Hình ảnh người đàn bà hiện lên trong tác phẩm với những nét tính cách
vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất: Chị vừa yếu đuối tội nghiệp, lại vừa mạnh mẽ
đầy cảm phục, vừa đơn giản lại vừa sâu sắc, chất phác mộc mạc nhưng cũng
rất sắc sảo. Chị một người đàn bà vùng biển thất học nhưng lại có cách ứng
xử thấu tình đạt lý, hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị hoàn toàn ý thức được việc mình
làm và không có ý định chạy trốn số phận, hay đổ lỗi cho cuộc đời. Dù cuộc
đời còn nhiều nhọc nhằn lam lũ nhưng chị biết chắt chiu, nâng niu hạnh phúc
đời thường. Những ước mơ, tâm niệm hạnh phúc giản dị đơn sơ của chị là
chất thơ của cuộc sống, nó làm vơi đi những lam lũ khổ cực của hiện thực bên
ngoài.
Câu chuyện về số phận éo le của người đàn bà hàng chài để lại cho người
đọc nhiều cảm phục tin yêu và cũng nhiều nghĩ suy day dứt; và đặc biệt hơn
là nó mở ra những triết lý mới mẻ mà sâu sắc về con người và cuộc sống
quanh ta:
+ Con người ẩn chứa trong mình những phẩm chất tuyệt vời biết bao,
hạnh phúc mà họ có được nhọc nhằn làm sao; để có nó con người nhiều khi
phải trả giá quá đắt.
+ Quan niệm về hạnh phúc của con người nhiều khi thật bình dị, giản
đơn; khát vọng về hạnh phúc thật nhỏ bé mà sao cũng thật khó với tới.
+ Cuộc sống mưu sinh của bao gia đình, bao người đàn bà trên sông
nước thật, nhọc nhằn vất vả. Sự tồn tại và hạnh phúc của họ không chỉ đánh
đổi được bằng mồ hôi, mà nhiều khi bằng cả máu và nước mắt.
Hình ảnh người đàn bà hàng chài chất phác giản dị như từ cuộc sống
bước vào trong trang sách. Người đàn bà vô danh đó có số phận tiêu biểu cho
bao số phận những người phụ nữ đã, đang và sẽ còn phải chịu nhiều khổ đau
thiệt thòi trong cuộc đời này. Chị- một người phụ nữ miền biển vô danh với
ngoại hình xấu xí thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hy sinh và lòng
vị tha.
3.2.2. Lên án bạo lực trong gia đình qua hình tƣợng nhân vật ngƣời
đàn ông hàng chài:
Cùng với nhân vật người đàn bà thì người chồng –một thành viên trong
gia đình ngư dân khốn khổ đó cũng được khắc hoạ đầy ấn tượng và mang
nhiều ý nghĩa.
Ngoại hình:“Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc
tổ quạ. Lão đi chân chữ bát bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy
nắng…hai con mắt đầy vẻ độc dữ…”
Qua cách miêu tả ngoại hình ta thấy hiện lên trong truyện là hình ảnh
một người đàn ông vùng biển khoẻ mạnh nhưng khắc khổ, cằn cỗi. Cuộc sống
đói nghèo, chật vật, lam lũ, cực nhọc đã hằn in lên dáng vẻ của anh: Từng
bước chân, từng dấu chân để lại “to và sâu trên bãi cát hoang vắng”tưởng
chừng như chúng cũng hằn dấu vết khổ sở đó lên cuộc đời. Tấm lưng“rộng và
cong như lưng một chiếc thuyền”như che chở nâng đỡ cả cái gia đình đông
đúc quanh năm đói nghèo, lận đận.
Khi đi khuất chiếc thuyền anh trở nên thay đổi như trở thành một người
khác: “lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay,…rút trong người ra một chiếc
thắt lưng nguỵ ngày xưa…chẳng nói chẳng rằng…quật tới tấp vào lưng người
đàn bà” “vừa đánh vừa thở, hai hàm răng nghiến ken két và nguyền rủa bằng
giọng rên rỉ đau đớn”. Sự việc này diễn ra không chỉ một lần mà cứ“ba ngày
một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.”
Qua cách đánh vợ “vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau
đớn”, ta thấy bản chất của anh không phải là một kẻ thô bạo, độc ác, mà đó là
con người chịu nhiều ức chế, dồn nén những phẫn uất với cuộc đời đau khổ;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
và anh chỉ biết trút sự bực tức phiền muộn trong lòng lên đầu người vợ qua
những trận đòn tàn bạo. Một con người vừa đáng giận, vừa đáng thương.
Song khi được chứng kiến những hành động này, Đẩu, Phùng và chú bé
Phác mới chỉ thấy được một khía cạnh ở người đàn ông làng chài, đó là sự
độc ác, ích kỷ, tàn nhẫn mà họ kịch liệt phản đối, lên án.
Trong câu chuyện của mình, người đàn bà làng chài đã giúp Đẩu và
Phùng có cái nhìn trọn vẹn và sâu sắc hơn về người chồng của chị. Bản chất
anh là người lao động hiền lành, nhưng vì cuộc sống mưu sinh cực nhọc, đói
nghèo triền miên đã làm cho anh thay đổi tha hoá và trở thành độc ác “bất kể
lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh”. Tuy nhiên với anh cũng có chỗ
có thể cảm thông, chia sẻ; bởi xét đến cùng anh ta chỉ là nạn nhân của một
hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Người vợ không oán hận chồng mình vì chị thấu
hiểu nguyên nhân sâu xa của những hành động vũ phu đó. Chị không chỉ
thanh minh cho mình, cho chồng; mà chị còn giúp người đọc nhận ra phẩm
chất đáng trân trọng ở anh: giỏi giang gánh vác sự sống của cả gia đình trên
đôi vai của chính mình. Qua đó ta thấy không thể nhìn đời, nhìn người từ một
phía; mà phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn tới hành vi của con
người, để nhận thấy vẻ đẹp ẩn giấu trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người.
Hoàn cảnh thử thách con người và hoàn cảnh cũng làm con người thay
đổi. Nhân vật người đàn ông trong truyện từ một người chồng, một người cha
hiền lành trở nên độc ác thô bạo, cũng là lời cảnh báo của nhà văn: Sự tàn bạo
nhiều khi sinh ra từ sự nghèo đói vất vả và hãy làm gì giúp con người để họ
được sống tốt hơn, vì khi bị đẩy vào cảnh túng quẫn con người có thể bị tha
hoá và cái ác nhiều khi cũng là nạn nhân.
3.2.3. Cảnh báo những nguy cơ xã hội tiềm ẩn:
3.2.3.1. Hình tƣợng nhân vật chú bé Phác:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
Phác – một chú bé vùng biển hiện lên trong tác phẩm với những món tóc
vàng hoe, cặp mắt đầy vẻ ngây thơ, mặt mũi xấu xí . Đó là một chú bé thông
minh, am hiểu, có tâm hồn nhạy cảm, yêu cảnh vật và miền quê nghèo của
mình. Chú bé ngây thơ, hồn nhiên và rất mến khách, thường nằm ngắm cảnh
đêm và lang thang cùng người thợ ảnh. Phác có trí nhớ khác thường: nó cặn
kẽ giải thích cho Phùng nghe cuộc sống của những giống chim trong rừng và
phản ứng dữ dội khi Phùng biết chuyện gia đình nó.
Phác rất yêu thương mẹ, sẵn sàng bảo vệ mẹ. Nó từng tuyên bố với các
bác thợ ở xưởng đóng thuyền rằng: có mặt nó ở trên bãi biển này thì mẹ nó sẽ
không bị đánh.
Khi tận mắt chứng kiến cảnh mẹ nó bị đánh đập dã man thì tâm hồn ngây
thơ trong sáng của nó đã bị tổn thương và nó phản ứng lại một cách tiêu cực.
Để bảo vệ mẹ, nó giằng chiếc thắt lưng quất thẳng vào ngực bố và về sau
giấu dao nhọn với ý định trả thù. Phác nhìn cuộc đời một cách thẳng thắn và
phản ứng của nó là tất yếu, không khoan nhượng. Tất cả đều nhằm mục đích
bảo vệ mẹ. Mục đích của Phác là tốt, là chính đáng, nhưng hành động thì sai
trái, nguy hiểm. Hành trình của gia đình hàng chài kia vẫn tiềm ẩn nguy cơ:
đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố và thủ dao găm tìm dịp trả thù.
Sau người mẹ, có lẽ đây là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều
day dứt xót xa và ẩn sau đó là lời cảnh báo của nhà văn. Một chú bé giống hệt
bố về ngoại hình và cũng bắt đầu nhiễm tính ác của bố. Nếu cuộc sống cứ tiếp
diễn nghiệt ngã như thế này mà không có sự thay đổi lớn thì chú bé Phác sẽ ra
sao? Nó lớn lên sẽ trở thành một người đàn ông độc ác hung dữ như người
cha của nó hay nó sẽ mạnh mẽ thay đổi số phận? Cần phải làm gì để chấm dứt
nạn bạo hành trong tương lai? Đây là câu hỏi ẩn chứa ý nghĩa nhân sinh sâu
sắc không dễ trả lời.
3.2.3.2. Hình tƣợng nhân vật ngƣời con gái:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
Là một cô bé miền biển mới lớn trạc 14-15 tuổi
Cô xuất hiện lần đầu trong dáng hình mềm mại, khoẻ mạnh“nhanh như
một con vượn”, cô“chạy như bay”rượt theo thằng Phác và giành được con dao
găm thằng bé giấu trong cạp quần.
Dường như cô hiểu tất cả mọi việc, nhưng cô giải quyết bi kịch theo cách
riêng của mình, kiên quyết chứ không xốc nổi như em trai. Cô kịp thời ngăn
chặn ý định nguy hiểm của đứa em, chứng tỏ cô rất hiểu mẹ, hiểu bố, hiểu em.
Điều này có ý nghĩa rất lớn bởi:
- Một mặt cô tránh cho đứa em một cái tội tày đình vì bảo vệ mẹ, mà sẵn
sàng đánh lại cha, thậm chí có thể giết cha.
- Mặt khác: Cô đã bảo vệ được gia đình: Dù mẹ cô bị đánh nhưng bà vẫn
chịu đựng được, cô vẫn có cả cha và mẹ; cái gia đình hàng chài của cô vẫn
còn tồn tại. Qua đó ta thấy cô cũng ý thức được tầm quan trọng của người đàn
ông, người cha trong gia đình.
- Cô biết tất cả nhưng không có phản ứng tích cực để cứu vãn, duy trì
hạnh phúc gia đình. Trong cô dường như đã tiềm ẩn thiên chức của người đàn
bà: chấp nhận và hy sinh. Điều đó dự báo rằng số phận cô cũng có thể giống
như mẹ cô.
Thật bất ngờ khi cô gái xuất hiện lần thứ hai: Mảnh dẻ trong tấm áo tím
nhạt, cặp mắt như đứa trẻ lên năm, cái nhan sắc đang độ trẻ con như đúc từ
trời biển trong suốt nên thơ nhưng“lại được sinh ra từ người đàn bà hàng
chài xấu xí đau khổ”.
Cô gái như bù đắp cho những gì mà người mẹ hàng chài của cô không
có. Cô gái là hiện thân của cái đẹp. Đó là vẻ đẹp được chắt lọc, kết tinh từ
những nhọc nhằn đau khổ. Đây cũng là phát hiện mới về cái đẹp: cái đẹp
không bắt nguồn từ những gì cao xa mà nảy nở ngay trong cuộc đời lầm lụi,
lam lũ, cay đắng khó nhọc này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
Người con gái lớn lên trong đói nghèo, đau khổ vẫn rực rỡ trắng trong
như bông hoa muống biển gieo vào lòng chúng ta niềm tin bất diệt về sự sống.
Cô cũng không khỏi làm người đọc âu lo: Cuộc đời người con gái ấy rồi sẽ ra
sao? Cô sẽ được hạnh phúc hay lại khổ đau như mẹ, như những người đàn bà
miền biển? Những người đàn bà miền biển bao giờ sẽ được đổi đời? Đây cũng
chính là một tầng ý nghĩa nhân sinh của truyện.
3.2.4. Sự thức tỉnh để nhận ra chân lý mới: chân lý về nghệ thuật và
chân lý về cuộc sống
3.2.4.1. Đối với người chánh án:
Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_VH_HTHM.pdf