Luận văn Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay

Về mặc: Phạm vi sử dụng trang phục truyền thống của người Thái đã và đang bị thu hẹp dần. Hiện nay, y phục truyền thống chỉ chủ yếu phổ biến ở vùng sâu vùng xa, hoặc các cụ già là còn giữ được thói quen mặc trang phục cổ truyền hàng ngày. Đa số các thành phần khác, nhất là thanh thiếu niên đều ưa dùng loại quần áo may sẵn bằng vải dệt công nghiệp như ở miền xuôi, họ chỉ mặc quần áo truyền thống trong các dịp hội hè, lễ tết.

 

doc107 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1969 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t triển. Không thể nói đến sự phát triển mà tước bỏ đi tính kế thừa, cũng không thể nói đến kế thừa mà tách rời khỏi sự phát triển. Kế thừa là sự bảo tồn những đặc điểm, đặc tính của một sự vật và hiện tượng cũ trong quá trình phát triển. Còn phát triển không chỉ là sự bảo tồn mà còn là sự mở rộng, bổ sung, hoàn thiện và nâng cao về chất những đặc điểm, đặc tính vốn có trong sự vật và hiện tượng. Như vậy, “để phát triển được bao giờ cũng cần có sự kế thừa, tức là bảo tồn, giữ lại những đặc điểm, đặc tính của đối tượng để trên cơ sở đó mở rộng, nâng cao trình độ, còn phát triển chính là sự kế thừa tốt nhất, tích cực nhất” [20, tr.35]. Mặt khác, kế thừa phải luôn gắn liền với lọc bỏ và đổi mới. Ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái bị phủ định được giữ lại, nó vẫn được duy trì dưới dạng lọc bỏ, chứ không phải bê nguyên xi, không phê phán, không cải tạo và không phải lắp ghép một cách máy móc cái cũ vào cái mới. Nếu kế thừa mà không gắn với đổi mới và lọc bỏ thì sự kế thừa đó không thể làm xuất hiện cái mới tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn cái cũ mà cùng lắm chỉ lặp lại cái cũ một cách phiến diện hơn. Trong tự nhiên, tính kế thừa được biểu hiện, chẳng hạn như những nhân tố vô cơ được giữ lại khi chuyển sang giới tự nhiên hữu cơ. Trong sự phát triển của xã hội, tính kế thừa cũng được biểu hiện rõ nét, mà lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một minh chứng. Trong tư duy, sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội như khoa học, triết học, nghệ thuật, đạo đức, pháp quyền...cũng thể hiện rõ tính kế thừa trong nhận thức của con người qua các thời đại lịch sử khác nhau. Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và cải tạo cả chủ nghĩa duy vật siêu hình lẫn phép biện chứng duy tâm để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tất nhiên, học thuyết của Mác cũng không phải là tuyệt đối, bất di bất dịch, không phải là một cái gì đã xong xuôi mà nó cần không ngừng được bổ sung và phát triển trong điều kiện mới theo quan điểm kế thừa. Như vậy, qua sự phân tích ở trên, chúng ta thấy rõ rằng: kế thừa, đổi mới là một quá trình mang tính quy luật, biểu hiện đặc trưng của sự phát triển bất kể đó là sự phát triển trong tự nhiên, xã hội hay tư duy. Tuy nhiên, trong mỗi lĩnh vực cụ thể, tính kế thừa có những đặc thù riêng. Quy luật kế thừa không phải chỉ biểu hiện về mặt thời gian, không gian, mối liên hệ giữa truyền thống và hiện đại, quá khứ và tương lai mà cả trong không gian. Việc kế thừa không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, một dân tộc. Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay thì kế thừa còn bao hàm cả sự tiếp thu có chọn lọc, có phê phán những tinh hoa trong nền văn hóa nhân loại nhưng đồng thời phải cải biến cho phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc mình như Đảng ta khẳng định: “Tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không được tự đánh mất mình trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác” [13, tr.30]. Quá trình kế thừa những giá trị tạo nên bản sắc văn hóa của một dân tộc cũng có những đặc thù riêng của nó. 1.2.2. Sự cần thiết phải kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái trong giai đoạn hiện nay Kế thừa là một hiện tượng mang tính quy luật đối với sự phát triển nói chung. Không có một sự phát triển nào lại được bắt đầu từ con số “0”. Mọi sự phát triển luôn luôn là quá trình phủ định có kế thừa. Những yếu tố tích cực của cái cũ bao giờ cũng được giữ lại, kế thừa và phát triển trong sự ra đời của cái mới. Sự phát triển của những giá trị tạo thành bản sắc văn hóa của một dân tộc cũng không nằm ngoài quy luật đó. Bản sắc văn hóa của một dân tộc là di sản vô cùng quý giá; đó là tinh hoa, cốt lõi và là linh hồn của chính dân tộc đó. Tuy nhiên, những giá trị tạo nên bản sắc đó, không phải là bất biến và tuyệt đối như nhau trong mọi thời đại. Khi điều kiện lịch sử đã có sự thay đổi thì cần phải có sự chọn lọc, kế thừa, bổ sung và đổi mới đối với những giá trị đó. Việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc và củng cố cộng đồng các dân tộc, vì sự phát triển toàn diện cho mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam (trong đó có dân tộc Thái ở Tây Bắc), là phương hướng và nội dung cơ bản của chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Đó cũng xuất phát từ quan niệm coi việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, là vấn đề trung tâm của chính sách dân tộc về văn hóa. Văn hóa không phải là một hiện tượng siêu nhiên từ bên ngoài áp đặt và ban phát cho con người, cũng không phải do ý muốn chủ quan của con người, mà nó hình thành dựa trên nhiều những nhân tố khác nhau như kinh tế, chính trị - xã hội…Chính vì lẽ đó mà không phải bất kỳ một giá trị văn hóa nào, hay một nét văn hóa nào cũng đều phù hợp với mọi chế độ xã hội, và đều được con người chấp nhận và tiếp thu. Cũng không phải giá trị văn hóa nào cũng có thể phát huy tác dụng để thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã hội. Ngược lại, có những giá trị văn hóa lại làm cản trở sự phát triển vì nó đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời kỳ mới. Thậm chí, ngay trong một giá trị văn hóa, có mặt còn là nhân tố thúc đẩy, nhưng mặt khác lại là nhân tố cản trở. Vì vậy, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, trong đó có dân tộc Thái ở Tây Bắc là một việc làm đặc biệt cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, chúng ta không thể kế thừa tất cả những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái đã có từ xa xưa. Chúng ta chỉ nên và cần kế thừa những nét văn hóa thực sự có giá trị, những nét văn hóa còn phù hợp với yêu cầu của xã hội và với giai đoạn hiện tại, nhưng đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Kế thừa những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Thái, mà những nét văn hóa đó mặc dù trải qua nhiều những thăng trầm, biến cố của lịch sử xã hội nó vẫn trường tồn, không mất đi nét độc đáo, riêng có của dân tộc Thái. Kế thừa bản sắc văn hóa của dân tộc Thái là kế thừa những nét văn hóa đặc trưng nhất, mà người ta có thể dựa vào đó để phân biệt cộng đồng tộc người Thái với các dân tộc khác. Những đặc trưng văn hóa này không bị pha trộn, mặc dù luôn có sự giao thoa rất mạnh mẽ giữa các nền văn hóa, của các cộng đồng tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc là sự thừa hưởng, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa đã được hình thành từ rất lâu đời cùng với quá trình hình thành, phát triển của dân tộc Thái hàng ngàn năm nay. Với đặc điểm của tự nhiên và môi trường sinh tụ của dân tộc đã tạo cho văn hóa Thái nói chung, văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc nói riêng, những điểm độc đáo tạo nên bản sắc riêng của văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc.Việc giữ gìn một nền văn hóa như nó vốn có đã khó, nhưng tìm những cái hay, cái tốt, cái phù hợp với giai đoạn mới và phát triển nó, làm cho nó phát huy tác dụng mà không làm mất đi bản sắc, cái cốt lõi của nền văn hóa đó là việc làm còn khó hơn nhiều. Kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái là kế thừa những nét văn hóa có ý nghĩa tích cực thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội. Vì vậy, nói kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay thì trước hết phải xuất phát từ yêu cầu thực tế của từng địa phương mà lựa chọn, để có thể đưa ra những phương hướng và giải pháp khả thi trên thực tế. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo điều kiện để vùng Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Quá trình vận động, phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ CNH, HĐH đẩy mạnh của cả nước cũng như vùng Tây Bắc sẽ tác động sâu sắc và toàn diện đến sinh hoạt văn hóa, đến bản sắc và bản lĩnh văn hóa từng dân tộc. Bản sắc dân tộc luôn mang tính lịch sử cụ thể và luôn tạo lập các giá trị mới, để thích ứng với yêu cầu phát triển chung của thời đại. Vì vậy, bản sắc văn hóa dân tộc phải được hiểu trong xu thế phát triển, và phát triển là điều kiện để giữ gìn bản sắc. Với chính sách phát triển vùng dân tộc và miền núi của Đảng, chúng ta cần phải bảo lưu, khai thác cả cái cũ và mới trong những vùng dân cư mới để biến Tây Bắc thành vùng giàu mạnh của đất nước với một bản sắc văn hóa đa dạng và độc đáo trong sự thống nhất của nền văn hóa Việt Nam. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để đồng bào các dân tộc vùng Tây Bắc, trong đó có dân tộc Thái chủ động tham gia vào quá trình CNH, HĐH vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mình, vừa khai thác nó tạo động lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, rút ngắn khoảng cách giữa miền núi với miền xuôi và với các vùng khác trong cả nước. Để làm được điều đó ngoài việc tạo các tiền đề phát triển kinh tế, xã hội vững chắc thì việc gìn giữ và kế thừa các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa các dân tộc là một vấn đề hết sức cần thiết và có ‎ nghĩa hết sức quan trọng trong giai đoạn mới hiện nay. Chương 2 Vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay- Thực trạng và giải pháp (qua thực tế ở tỉnh Sơn La) 2.1. Thực trạng của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay (qua thực tế ở tỉnh Sơn La). Nguyên nhân của nó Trong lịch sử hàng ngàn năm của mình, các bộ phận người trong nhóm nói tiếng Thái do phát triển theo mạch vừa tụ cư - định cư vừa di cư - lan tỏa từ khắp các địa bàn rộng lớn. Chính điều này đã làm cho họ luôn phải tiếp xúc với mọi loại hình ngôn ngữ, văn hóa của những người thuộc nhóm tộc khác mình. Trong bối cảnh đó, người của nhóm tiếng Thái vừa theo mạch vừa bảo lưu những nét cơ bản nhất ngôn ngữ, văn hóa mang tính gốc gác nhóm tiếng Thái. Vừa mở rộng vừa tiếp thu, chọn lọc nhuần nhuyễn mọi luồng, làm cho ngôn ngữ, văn hóa của mình luôn đổi mới, khác với những biểu hiện của nhóm tiếng Thái xưa. Chính điều này, đã hình thành quy luật phổ biến về sự phát triển văn hóa lịch sử của tất cả những người thuộc nhóm tiếng Thái: Từ một cội nguồn chung ngôn ngữ, văn hóa dần vỡ ra để tạo thành từng luồng lan tỏa đi khắp nơi, đến khi ngưng tụ tại nơi nào đó thì địa văn hóa mang màu sắc Thái xuất hiện. Trên cơ sở đó, cộng đồng tộc người với sắc màu ngôn ngữ, văn hóa riêng mới trải ra ở nhiều quốc gia khác nhau. Các cộng đồng như thế, cho dù có phát triển thành quốc gia dân tộc như người Lào và Thái Lan chăng nữa, ta vẫn thấy những nét Thái rất đặc trưng [51, tr. 43]. Với bản lĩnh của một dân tộc qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, dân tộc Thái đã khẳng định được vị trí của mình và khẳng định một nền văn hóa Thái với những đặc trưng của một nền văn hóa thung lũng, trên đó hình thành một hệ thống các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Thái. Tuy nhiên, những năm gần đây do tác động của nhiều nhân tố khác nhau cho nên kinh tế - xã hội Thái có những biến đổi về mọi mặt…Đặc biệt, là xu thế toàn cầu hóa cũng như cơn lốc của cơ chế thị trường đã dần đi vào từng ngõ ngách của đời sống xã hội, thì đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc cũng bắt đầu tiếp cận với xu thế chung này. Bên cạnh rất nhiều những ưu thế mà nó đem lại cho đời sống của họ, thì mặt trái của nó cũng tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần, cũng như tộc người này đang đứng trước những nguy cơ đe dọa về sự mai một của bản sắc văn hóa dân tộc. Đứng trước thực trạng đó, các cấp ngành trực tiếp và liên quan tới văn hóa và các hoạt động văn hóa, cũng như chính quyền địa phương các tỉnh Tây Bắc đã có chủ trương, những chương trình nhằm giữ gìn, phục hồi một số giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số trong khu vực. Song, trên thực tế việc triển khai thực hiện diễn ra rất chậm chạp, chủ yếu mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Do đó việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số (trong đó có dân tộc Thái) vẫn đứng trước nguy cơ mất dần bản sắc. 2.1.1. Thực trạng của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay (Qua thực tế ở tỉnh Sơn La) Là người chủ đã sáng tạo ra văn hóa thung lũng, người Thái đã có nhiều thế kỷ sống hòa vào trong sự cân bằng của môi trường tự nhiên, và tạo lập được hệ sinh thái nhân văn của mình. Người Thái xưa với mô thức khai thác theo truyền thống cổ truyền hết sức hợp lý, vừa khai thác vừa đảm bảo được sự tái hiện thiên nhiên với dáng vẻ tự nhiên vốn có của nó. Các nhu cầu của cuộc sống con người lấy từ nguồn thiên nhiên chứng tỏ vừa đủ để xã hội tồn tại và phát triển. “Vì thế có thể nói rằng, cho đến năm 1954, cộng đồng người Thái đã tạo lập được hệ sinh thái nhân văn của mình khá hoàn hảo. Điều đó có thể thấy rất rõ trong những điều khoản quy định phân vùng đất đai thành lệ luật bản mường [48, tr.156-158]. Nhưng kể từ khi có nương rẫy, mô thức văn hóa thung lũng luôn biểu hiện tính hai mặt: một mặt, nó đã đem lại cho con người khá nhiều sản phẩm, kể cả nhu cầu về lương thực mà đồng ruộng không đáp ứng được. Nhưng mặt tiêu cực của nó lại lớn hơn rất nhiều, đó là sự triệt phá rừng bừa bãi chỉ biết tước bóc tự nhiên, không cho nó có sức hồi sinh vô tận. Bên cạnh việc khai thác, do nhu cầu của đời sống con người đã phá vỡ thế luân canh truyền thống, rừng xanh bị san trụi, đã làm cho sự cân bằng hệ sinh thái nhân văn của thung lũng đứng trước nguy cơ bị phá vỡ một cách nghiêm trọng. Có thể thấy rất rõ điều này trong những năm gần đây. Văn hoá thung lũng được hình thành trong thời kỳ tiền công nghiệp đã bị lung lay đến tận gốc, do nạn bùng nổ dân số theo tự nhiên và cơ học. Xưa, “đất rộng người thưa” thì ngày nay “người đông đất chật”. Những năm gần đây, tỉ lệ sinh của người Thái rất cao (Năm 1995 người Thái ở miền Tây Bắc mới có 22 vạn người, thì ngày nay riêng dân số Thái ở một tỉnh Sơn La đã có ngót 52 vạn) lại cộng thêm cả bà con người Kinh tới cộng cư trong thung lũng lòng chảo ngày càng tăng nhanh. Với một trình độ văn hóa thấp, nhận thức còn hạn hẹp, nghèo đói buộc người ta phải phá rừng để trồng lúa và hoa màu, tự túc lương thực tại chỗ đã làm cho văn hóa thung lũng đứng trước nguy cơ bị phá hủy. Người Thái bước vào cơ chế thị trường trong tình trạng thiên nhiên bị tàn phá trầm trọng. Trước tình hình đó, mặc dù đã phần nào nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, của nạn khai phá rừng một cách bừa bãi dẫn tới thiên tai, hạn hán, lũ lụt. Họ đã sớm có ‎ý‎‎ thức khẩn trương trồng cây gây rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc nhằm cứu vãn môi trường tự nhiên. Tình trạng phá rừng, khai thác lâm sản một cách tùy tiện cơ bản đã được ngăn chặn song chưa triệt để. Trong 5 năm (1996 - 2000) tỉnh Sơn La đã trồng mới được gần 5 vạn ha rừng, bằng nhiều biện pháp tổng hợp nông - lâm kết hợp đã nâng được độ che phủ của rừng từ 15,1% (1999) lên 25,1% (2000). Song, với trình độ dân trí, văn hóa còn hạn chế nên ‎‎ý thức của bà con dân tộc (trong đó chiếm đa số là bà con dân tộc Thái) chưa cao, chưa có kiến thức về trồng và bảo vệ rừng nên việc trồng rừng còn gặp rất nhiều khó khăn và kém hiệu quả. Người nông dân Thái tuy nói là không làm nương rẫy theo kiểu cũ, vì rừng không còn hoặc bị nghiêm cấm phát rừng làm rẫy, nhưng nếp làm ăn thâm căn cố đế ấy vẫn bộc lộ khá đậm. Tập quán làm nương rẫy xưa theo phương pháp luân canh bỏ hóa trong chu kỳ khép kín 12 năm, phù hợp với văn hóa thung lũng không còn được thực hiện. Để có sản phẩm hàng hóa đảm bảo cho cuộc sống, bà con dân tộc Thái đã phải chuyển đổi hẳn cây trồng và vật nuôi. Tuy nhiên, do đặc điểm tập quán đời sống và sinh hoạt của dân tộc dẫn tới việc làm quen với mô hình kinh tế mới, cách thức làm ăn mới của bà con còn gặp nhiều khó khăn và trở ngại về mọi mặt. Đặc biệt, ở đây phải kể đến một bộ phận người Thái đã phải từ bỏ nơi “chôn rau cắt rốn”, quê hương bản mường của mình chuyển đến nơi ở mới (các khu tái định cư), để nhường chỗ cho dự án xây dựng công trình thủy điện lớn nhất Đông Nam á tại Tạ Bú, Mường La (Sơn La). Có thể khẳng định rằng, những đặc điểm của văn hóa thung lũng đã tồn tại theo dòng lịch sử của dân tộc Thái hàng ngàn năm. Chiều dầy của thời gian đã làm cho các thích ứng của con người với tự nhiên gần như trở thành bản năng. Nhưng một vấn đề rất cấp bách đang được đặt ra là, nền văn hóa này luôn luôn chứa đựng trong nó mâu thuẫn, giữa tự nhiên cần thiết có sự cân bằng sinh thái với nhu cầu khai thác của con người. Như vậy, sự thích nghi theo chiều thuận trong tự nhiên của thung lũng chỉ có thể trở thành văn hóa trong giải pháp khi mà con người biết tiếp tục trao cho nó sự sống, biến nó thành kho vô tận cho việc khai thác và ngược lại. Nói đến văn hóa Thái không thể bỏ qua văn hóa thung lũng, cũng như đời sống của dân tộc này không thể tách rời môi trường tự nhiên mà họ đã gắn bó suốt hàng ngàn năm. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để nó không còn là lực cản trên bước đường xây dựng mô hình kinh tế mới, cùng đó đề ra những kế hoạch đầu tư trí tuệ, tiền tài, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động toàn diện để làm cho sự cân bằng môi sinh trở về như nó vốn có. Làm sao cho nó vươn tới trình độ mở rộng để vượt khỏi không gian chật hẹp của nó là gia đình, bản mường để đến với mọi nơi, được mở hết tầm để lan tỏa cái hay cái đẹp của dân tộc với đất nước và thế giới. - Về văn hóa vật chất: Văn hóa vật chất là một trong những lĩnh vực quan trọng trong văn hóa dân tộc Thái nói chung, văn hóa dân tộc Thái ở Tây Bắc nói riêng. Ngoài những giá trị về mặt vật chất, các thành tố của dạng thức văn hóa này còn chứa đựng các giá trị về mặt tinh thần. Cụ thể các giá trị của chúng được thể hiện thông qua công cụ lao động, nhà ở, trang phục, ăn uống... Văn hóa vật chất là lĩnh vực vốn rất nhạy cảm, và có sự thay đổi rất nhanh, bởi nó gắn bó mật thiết và đáp ứng các nhu cầu tức thời, các nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người. Có thể nhận thấy những biến đổi trong sinh hoạt văn hóa vật chất trên những phương diện sau đây: Trước hết, phải kể đến đó là việc chuyển đổi giống cây trồng vật nuôi, mạnh dạn đưa những giống cây con mới, có năng suất và hiệu quả kinh tế cao vào sản xuất. Nhiều hộ bà con dân tộc Thái đã xây dựng và phát triển mô hình kinh tế trang trại theo hướng chuyên canh cây trồng và đa canh, với hệ sinh thái VACR ngày càng phù hợp và có hiệu quả, góp mặt vào một số cơ sở kinh doanh nông, lâm nghiệp, thủy sản. ở những nơi có hệ thống thủy nông cũ đã được cải tạo. Ruộng hai vụ phải thường xuyên có nước, hệ thống mương phai lái lin thực hiện bằng thủ công nay phải chuyển thành những công trình thủy lợi nhỏ, vừa và lớn xây đắp bằng bê tông cốt thép. Chẳng hạn, công trình đại thủy nông Nặm Rôm đã chấm dứt cái gọi là “ruộng nước trời” và giải quyết nước tưới cho toàn bộ cánh đồng lòng chảo Mường Thanh rộng 10 km, dài 20 km từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước. Thủy lợi đã không chỉ để cho người nông dân Thái tự làm mà Nhà nước với nhân dân cùng làm. Người Thái đã áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới và chuyển canh tác lúa theo hai vụ, từ một vụ lúa nếp trở thành hai vụ lúa tẻ hoặc một nếp một tẻ. Đây là một cuộc cách mạng thay cũ đổi mới của người nông dân Thái. Mặt khác, để duy trì năng suất cây trồng đạt ở mức cao và ổn định, việc sử dụng các loại phân hóa học, phân vi sinh cũng trở thành thói quen của những người nông dân Thái vốn chỉ quen dựa vào nguồn phân bón và sự bồi đắp của mùn rác tự nhiên. Chính vì vậy, đời sống của bà con dân tộc Thái những năm gần đây đã khá hơn rất nhiều. Được như ngày nay, là sự mong muốn và nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước ta cũng như bản thân bà con dân tộc Thái. Song thiết nghĩ, mỗi người con dân tộc Thái nên khắc sâu nỗi nhọc nhằn của cha ông trước đây, đã xây dựng nên nền văn hóa độc đáo của dân tộc mình. Để giữ gìn phát huy những truyền thống qu‎ý báu đó, khai thác nó. Làm cho cái hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc mình ngày càng lan tỏa, nhằm hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, cũng như các yếu tố kỹ thuật mới trong sản xuất, đã làm thay đổi một số thành tố trong bộ công cụ sản xuất truyền thống của người Thái. Trước đây, con dao, cày và mai là những công cụ không thể thiếu được trong lao động sản xuất. Thậm chí, chiếc cày còn đi vào đời sống tâm linh. Con dao còn được coi là vật hộ mệnh, thì ngày nay chúng đã có rất nhiều thay đổi về chức năng. Có một tập quán mang dấu ấn tâm linh cổ xưa, nữ giới Thái theo tục kiêng thao tác dùng mai, cày. Theo quan niệm đó, hai công cụ lao động này “mang tính nam, chứa đựng điều k‏‏‏ỵ nữ”, nếu đàn bà sơ ‎‎ý va quệt đôi vú vào cán mai, bắp cày e “phải chuốc độc hại vào đường sinh con đẻ cái”. Song từ khi chuyển sang cấy hai vụ một năm, lấy lí do bình đẳng nam nữ, phụ nữ Thái đã bỏ tục kiêng k‏ỵ này. Bây giờ ít ai còn nhớ hay biết tới phong tục Thái có tục kiêng kỵ lạ kỳ như vậy. Ngày nay, người Thái không sử dụng chiếc cày cổ, mà do học người Kinh nên đã dùng chiếc cày 51 hay dùng bừa bằng răng sắt. Lưỡi mai không còn sử dụng mà thay vào đó là xẻng. Việc cải tiến cung cách làm nương rẫy cũng dẫn đến sự mai một của hệ thống công cụ làm nương như gậy chọc lỗ (đủng), và công cụ rẫy cỏ (kchóp, kvẹ). Từ những năm 70 của thế kỷ XX, người Thái đã bắt đầu làm quen với các công cụ sản xuất cải tiến, thậm chí nhiều nơi đã sử dụng máy móc cơ giới. Đã có máy cày chạy trên những cao nguyên rộng lớn hoặc vùng lòng chảo có diện tích tương đối rộng như Mường Thanh (Điện Biên, Lai Châu). Một số gia đình khá giả đã mua được máy tuốt lúa dậm chân (thay cho việc đập lúa, tuốt lúa bằng thủ công trước đây), máy sát ngô, sắn; máy bơm nước xách tay, máy phát điện mini chạy bằng nguồn nước tự nhiên. Những năm gần đây, mặc dù tình hình đất nước đã có nhiều thay đổi và có những bước phát triển về kinh tế, văn hóa - xã hội...người Thái cũng từng bước có những chuyển biến tích cực về mọi mặt. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc hợp lý tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách giữa miền xuôi và miền ngược về mọi mặt và bước đầu đã thu được những kết quả tốt. Tuy nhiên, điều đó đến nay vẫn chưa thể nói được rằng nền nông nghiệp của dân tộc này vẫn chưa thoát khỏi cảnh “con trâu đi trước, người cày theo sau”, và việc phá hủy môi sinh vì nhu cầu cuộc sống vẫn là một thực tế. “Phải chăng, trong khi các điều kiện thiên nhiên chưa cho phép, với nền nông nghiệp thung lũng, sự chuyển tiếp từ giai đoạn tiền công nghiệp đến nền công nghiệp thực sự chắc gì đã hoàn toàn bắt đầu bằng việc thay đổi công cụ lao động?” [52, tr. 105]. Nên chăng, ở đây phải bắt đầu từ nhân tố con người? Việc thay đổi công cụ lao động là một trong những yếu tố quan trọng để thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội. Song với điều kiện sống và sinh hoạt, trình độ dân trí hiện nay của đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc thì việc cần thiết phải chăng là thay đổi nhận thức, và nâng cao trình độ văn hóa của bà con? Việc thay đổi công cụ lao động vẫn là rất cần thiết, nhưng thiết nghĩ không thể ngay lập tức thay đổi toàn bộ, khi mà hoàn cảnh và con người chưa thể thích nghi. Vấn đề đặt ra là vừa tiếp thu những công cụ lao động hiện đại, nhưng không thể vứt bỏ những công cụ lao động truyền thống vẫn phù hợp với hoàn cảnh sống và lao động của bà con. Như hệ thống mương, phai, lái, lin vẫn còn phát huy tác dụng với các bản làng, nương ruộng xa nguồn nước. Nhiều nương rẫy địa hình phức tạp vẫn cần đến công cụ chọc lỗ tra hạt, chiếc cày. Để phục hồi lại môi trường sinh thái, vẫn phải tận dụng sự bồi đắp và nguồn phân bón tự nhiên... Sự biến đổi trong hoạt động kinh tế, đã tác động trực tiếp đến tập quán ăn uống của người Thái, cả trong cơ cấu lương thực thực phẩm, cũng như thời gian chuẩn bị và thời điểm tổ chức mỗi bữa ăn. Ngày nay, việc tiếp thu những giống lúa mới, đặc biệt là lúa tẻ với ưu thế và năng suất vượt trội, đã tạo ra hệ quả tất yếu là thói quen ăn cơm nếp đang dần được thay bằng cơm tẻ. Theo kết quả điều tra các hộ gia đình người Thái sinh sống ở thị xã Sơn La gần đây nhất cho thấy: Phần lớn các hộ gia đình đều chuyển sang dùng cơm tẻ cho bữa ăn thường ngày. Cơm nếp vẫn được dùng nhưng ít hơn, chủ yếu trong các dịp lễ tết, hội hè, giao lưu trình diễn văn hóa dân tộc như để nhắc nhở nhau nhớ về một thời, nhớ về nét riêng trong văn hóa tộc người mình. Trước đây, trong các bản vùng sâu vùng xa chỉ có gạo nếp và chỉ ăn cơm nếp. Song gần đây, họ đã trồng lúa tẻ và có thêm cơm tẻ trong bữa ăn thường nhật. Cơm Lam xưa là thức ăn văn hóa phổ biến của người Thái, ngày nay dường như chủ yếu có mặt tại các nhà hàng ăn dân tộc hay các điểm du lịch, ít thấy xuất hiện trong các gia đình hàng ngày. Rừng bị tàn phá, lượng thịt thú, rau mầm khan hiếm dần, sông suối do khai thác bừa bãi và ô nhiễm môi trường cũng không còn cung cấp thức ăn cho con người như trước…Cùng với những thay đổi về tập quán ăn uống, một số đồ gia dụng cũng được tiếp thu từ người Kinh, người Mường cũng đã được sử dụng phổ biến như chiếc cối xay lúa, cối xay ngô, cót phơi thóc và thói quen để thóc hạt thay bằng để lúa và giã thóc bằng máng, cối gỗ truyền thống. Cách uống và tiếp mời rượu cũng là một nét văn hóa hết sức độc đáo của dân tộc này. Trước đây, người Thái uống rượu trong các dịp vui, buồn cùng chuyện trò tâm tình và ca

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn.doc
Tài liệu liên quan