MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU . - 1 -1. Lý do chọn đề tài . - 1 -1.1 Lý do khoa học . - 1 -1.2 Lý do thực tiễn . - 2 -2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu . - 2 -2.1 Về nguồn gốc của thể STLB . - 2 -2.2 Về đặc trưng kết cấu vận luật của thể STLB . - 3 -2.3 Lịch sử nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của thể STLB 
trong Ngâm khúc . - 5 -3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . - 8 -4. Mục đích nghiên cứu . - 9 -5. Phương pháp nghiên cứu . - 9 -6. Những đóng góp của luận văn . - 10 -7. Cấu trúc luận văn . - 10 -PHẦN NỘI DUNG . - 11 -CHưƠNG 1: . - 11 -KẾT CẤU VẬN LUẬT THỂ SONG THẤT LỤC BÁT. - 11 -1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài . - 11 -1.1.1 Khái niệm loại thể và thể loại . - 11 -1.1.2 Khái niệm thể thơ . - 15 -1.1.3 Khái niệm thể loại Ngâm khúc . - 16 -1.1.4 Khái niệm vần luật . - 19 -1.2 Những yếu tố cơ bản của thể thơ STLB . - 23 -1.2.1 Cách gieo vần trong thể thơ STLB . - 24 -1.2.2 Cách ngắt nhịp trong thể thơ STLB . - 27 -1.2.3 Luật phối thanh c ủa thể thơ STLB . - 29 -
- 119 -CHưƠNG 2: . - 34 -NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH THỂ STLB . - 34 -2.1. Những cơ sở từ văn học dân gian . - 34 -2.2 Những cơ sở từ văn học viết . - 40 -2.2.1 Tiền lệ trong văn học viết từ thế kỷ X đến thế kỷ XV . - 45 -2.2.2 Tiền lệ trong văn học viết từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII . - 52 -CHưƠNG 3: . - 57 -SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT TỪ NGÂM VỊNH 
ĐẾN DIỄN TẢ NỘI TÂM . - 57 -3.1 Quá trình vận động và chuyển biến về mặt hình thức của thể thơ STLB 
trong thể loại Ngâm khúc . - 57 -3.1.1 Vần . - 57 -3.1.2 Thanh điệu . - 61 -3.1.3 Ngắt nhịp . - 63 -3.2 Sự chuyển biến về mặt nội dung của thể thơ STLB từ ngâm vịnh đến 
diễn tả nội tâm . - 66 -3.2.1 Những đặc trưng về nội dung của thể thơ STLB ở giai đoạn sơ khai -66 -3.2.2 Giai đoạn xuất hiện những dấu hiệu chuyển biến từ ngâm vịnh đến 
diễn tả nội tâm . - 70 -3.2.3 Những đặc điểm nội dung của thể STLB ở giai đoạn phát triển cực 
thịnh của thể loại Ngâm khúc . - 75 -3.3 Nguyên nhân và ý nghĩa của sự chuyển biến từ ngâm vịnh đến diễn tả nội 
tâm con người . .-88-PHẦN KẾT LUẬN . - 93 -TÀI LIỆU THAM KHẢO . - 96 -PHỤ LỤC . - 100 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
122 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3281 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kết cấu vận luật của thể song thất lục bát trong tiến trình phát triển thể loại ngâm khúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thất trên hiệp vần ở chữ thứ 3, chứ không phải ở chữ thứ 5 nhƣ trƣờng hợp 
sau này và các vần của nó đều là vần bằng. 
Ví dụ: 
Doành la dòng bạc phau phau, 
Đỉnh đang mấy phát khoan mau dầu lòng. 
Chợt ngược trông Điêu- diêu quán dịch, 
Ướm hỏi xem lại lịch nhường bao? 
Trong đó tất cả các câu thất dƣới đều đƣợc gieo vần ở chữ thứ 5 nhƣ 
trƣờng hợp thông thƣờng: 
Ví dụ: 
Tắt qua nẻo ngác sông Đào, 
Luận công trị thủy, xiết bao công trình. 
Hướng thần kinh, chiều tòng cuồn cuộn, 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 54 - 
Vững âu vàng nguyên bổn đặt an. 
Cách ngắt nhịp trong câu thất của bài Bồ Đề thắng cảnh thi giống với 
cách ngắt nhịp trong thể STLB. Cặp câu thất 100% đƣợc ngắt theo nhịp 3/4: 
Ví dụ: 
Dùng gió đưa/ tưng bừng gióng giả, 
Này bãi thò/ kia ngả sông Dâu. 
Hay : 
Bạt ba đào/ thuận dòng thẳng ruổi, 
Đến Anh- thường/ vừa độ nghỉ ngơi. 
Nhìn vào cấu trúc của khổ STLB trong bài Bồ Đề thắng cảnh thi ta thấy 
những dòng STLB này tuy không giống hoàn toàn những dòng STLB ở thời 
kỳ hoàn thiện nhƣng nó cũng đã mang dáng dấp của thể STLB. 
Ví dụ dòng STLB ở thời kỳ hoàn thiện: 
Ngập ngừng gió thổi áo bào, 
Bãi hôm tuôn đẫy nước trào mênh mông. 
Tin thường lại người không thấy lại, 
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh 
[12, 118] 
Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào và Bổ Đề thắng cảnh thi tuy 
mới chỉ là những bài có hình thức “lai tạp” chứ chƣa phải là bài thơ STLB, 
nhƣng những dòng STLB trong hai tác phẩm này có nhiều điểm tƣơng đồng 
với những dòng STLB ở thời kỳ hoàn thiện. Đặc biệt trong bài Nghĩ hộ tám 
giáp giải thưởng hát ả đào có một số khổ về mặt cấu trúc giống hoàn toàn với 
những dòng STLB ở thời kỳ hoàn thiện. Sau những câu STLB đƣợc dùng xen 
kẽ trong bài ca của Lê Đức Mao và bài Bồ Đề thắng cảnh thi đến cuối thế kỷ 
XVI - đầu thế kỷ XVII, HoàngSĩ Khải tiếp tục sử dụng những câu thơ STLB 
để viết Tứ thời khúc vịnh. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 55 - 
* Tiểu kết 
 Từ những dẫn rất cụ thể đã trình bày chúng tôi nhận thấy: Rõ ràng, đặc 
trƣng kết cấu vận luật của thể STLB có rất nhiều điểm tƣơng đồng với đặc 
trƣng kết cấu của thể thức văn vần dân gian. Vì vậy có thể khẳng định thể thơ 
STLB “…được hình thành trên những điều kiện cụ thể là tiếng Việt và văn 
hóa Việt, trong mối liên hệ rất mật thiết với văn vần dân gian của dân tộc 
Việt” [44, 123]. 
Sƣ̣ xuất hiện , tồn tại và phát triển của bất kỳ thể loại văn học nào cũng 
đều phải trải qua quá trình thai nghén , tìm tòi , học hỏi và sáng tạo không 
ngƣ̀ng của rất nhiều thế hệ , tầng lớp thi sĩ – văn sĩ. Đóng góp vào sƣ̣ ra đời và 
phát triển rực rỡ của thể thơ STLB - thể thơ độc đáo , đặc sắc của dân tộc ta là 
công sƣ́c của nhƣ̃ng nghệ sĩ dân gian (văn học dân gian ) và phải chăng đó còn 
là sƣ̣ đóng góp của các nhà Nho tài năng của nền văn học viết trung đại . Nền 
văn học trung đại Việt Nam trong quá trình vận động đã có những chặng 
đƣờng phát triển nhất định. 
 Có thể nói, ở thời kì đầu ông cha ta thƣờng sáng tác phỏng theo khuôn 
mẫu của nƣớc ngoài. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, bên cạnh việc mô 
phỏng sáng tác nƣớc ngoài các nghệ sĩ cũng luôn tìm tòi con đƣờng đi riêng 
cho mình. Bởi vậy, ngay từ thế kỉ XIII trong sáng tác của Trần Thánh Tông, 
Trần Nhân Tông, đã thấy có những nét sáng tạo mới về cách gieo vần, ngắt 
nhịp... Sự sáng tạo này ngày càng đƣợc phát triển mạnh mẽ hơn để tạo những 
điều kiện nhất định cho một loạt các thể loại văn học dân tộc nhƣ: Truyện 
Nôm, thơ trữ tình ngâm khúc, hát nói… ra đời. Điều đó cho chúng ta thấy , 
nguồn gốc cũng nhƣ quá trình hình thành , phát triển của thể loại STLB trong 
lòng văn học dân tộc không chỉ bắt nguồn từ riêng hình thức văn học dân gian 
mà rất có thể còn là sản phẩm sáng t ạo của các nhà Nho trong văn học viết . 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 56 - 
Qua những điều đã trình bày ở trên chúng tôi nhận thấy: Nguồn gốc của 
thể STLB ngoài tiền lệ từ các thể thức văn vần dân gian, phải chăng còn có 
tiền lệ từ trong nền văn học viết. Thấy đƣợc điều đó chúng ta mới thấy hết 
đƣợc công lao sáng tạo của các thi sĩ nƣớc nhà trong quá trình sáng tạo ra thể 
thơ đặc sắc của dân tộc. 
Để có đƣợc hình thức diễn đạt tối ƣu nhƣ ngày nay, thể STLB đã phải 
trải qua một thời gian dài. Trong quá trình phát triển, thể STLB đã lựa chọn 
cho mình hình thức diễn đạt phù hợp. Chính những khúc ngâm trữ tình trƣờng 
thiên đó đã đƣa thể thơ STLB phát triển đến đỉnh cao. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 57 - 
CHƢƠNG 3: 
SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT 
TỪ NGÂM VỊNH ĐẾN DIỄN TẢ NỘI TÂM 
3.1 Quá trình vận động và chuyển biến về mặt hình thức của thể thơ 
STLB trong thể loại Ngâm khúc 
Do cặp lục bát trong thể thơ STLB và thể lục bát có cách gieo vần, ngắt 
nhịp giống nhau nên để thấy đƣợc sự vận động và chuyển biến về mặt hình 
thức của thể thơ STLB, chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát vần, thanh điệu, nhịp 
ngắt trong hai câu thất của thể STLB. 
3.1.1 Vần 
Để tạo nên những dòng thơ vừa giàu nhạc điệu vừa diễn tả đƣợc sâu 
sắc, tinh tế những cung bậc tình cảm của con ngƣời, nhà thơ không thể không 
chú ý đến yếu tố âm luật. Trong đó, vần đƣợc coi là một trong những yếu tố 
cơ bản nhất. Vần đƣợc phân biệt theo vị trí gieo vần: vần chân và vần lƣng; 
phân biệt theo mức độ hòa âm: vần chính và vần thông. 
Trong thể thơ STLB, vần chân ở câu bát hiệp vần với vần lƣng ở câu 
thất trên. Vần lƣng này nằm ở vị trí trƣớc nơi ngắt nhịp, có nghĩa là nằm ở 
chữ thứ 3 hoặc chữ thứ 5 để tạo nên nhịp ngắt cuối là nhịp chẵn. Vần trong 
thơ STLB rất phong phú có vừa có vần lƣng, vần chân và vần bằng, vần trắc. 
Ví dụ 1: 
Dù rằng non nước biến dời,(b) 
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là 
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,(t) 
Khắp tôn thân cùng đội ơn sang. 
 [9, 15] 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 58 - 
Ví dụ 2: 
Chín lần gươm báu trao tay,(b) 
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. 
Nước thanh bình ba trăm năm cũ (t). 
Áo nhung trao quan vũ từ đây. 
 [12, 106] 
Nhìn vào tiến trình phát triển của thể thơ song thất lục bát (STLB), ta 
thấy vần có sự thay đổi rõ rệt. Nếu nhƣ lúc mới hình thành, trong câu thất 
trên, các tác giả thiên về gieo vần ở chữ thứ 3 thì vài trăm năm sau các thi sĩ 
lại chú trọng gieo vần ở chữ thứ 5. Sở dĩ có sự thay đổi này là vì trong quá 
trình sáng tác, các thi sĩ đã nhận ra vần chân của câu bát và vần của chữ thứ 5 
trong câu thất trên đều là vần bằng. Nếu vị trí gieo vần không ở chữ thứ 5 mà 
rơi vào tiếng thứ 3 của câu thất trên thì câu thơ sẽ không thực hiện đúng sự 
luân phiên thanh điệu theo trình tự Trắc – Bằng – Trắc. Điều này dẫn đến câu 
thất trên và câu thất dƣới sẽ không có sự đối xứng về thanh điệu. Câu thơ sẽ 
không tạo nên đƣợc vần điệu nhịp nhàng uyển chuyển. 
Ví dụ : 
(Chân đầy phiến tuyết mặt thừa gió xuân) 
Đông nửa phần tháng về mười một 
 (Tứ thời khúc vịnh – Hoàng Sĩ Khải) 
Hay : 
(Trị dài Trịnh chúa, Lê quân muôn đời) 
Hễ đạo trời rất công rất chính, 
 (Tứ thời khúc vịnh – Hoàng Sĩ Khải) 
Tuy nhiên, trong bài Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào của Lê 
Đức Mao, vần chủ yếu đƣợc gieo ở vị trí chữ thứ 5 của câu thất trên chứ 
không phải ở vị trí chữ thứ 3 nhƣ trong một số tác phẩm cùng thời. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 59 - 
Ví dụ : 
 (Thọ bôi kể chục, ca trù điểm trăm) 
 Mừng thế trị năm năm xuân tịch 
 (Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào – Lê Đức Mao) 
Hoặc : 
(Nhà đàn cửa hát noi ca đường cù) 
Mừng nay tiệc ca trù thị yến 
 (Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào – Lê Đức Mao) 
Cách gieo vần trong tác phẩm này rất giống với cách gieo vần trong tác 
phẩm Ngâm khúc. Đây là kiểu cấu trúc ở dạng hoàn thiện của thể STLB. Điều 
này cho thấy, ở giai đoạn đầu đã xuất hiện hai mô hình của thể thơ STLB (mô 
hình thứ nhất: vần lƣng đƣợc gieo ở chữ thứ 3 và thanh điệu ở chữ thứ 3 là 
thanh bằng; mô hình thứ hai: vần lƣng ở vị trí chữ thứ 5 và chữ thứ 3 mang 
thanh trắc). 
 Có thể nói, thể thơ STLB là thể thơ giàu vần điệu. Bởi lẽ, thể thơ này 
có số lƣợng vần và loại vần phong phú hơn các thể thơ khác nhƣ thơ Đƣờng 
luật, thơ lục bát…(xem mục 1.3.1). Đây chính là một trong những ƣu thế vƣợt 
trội của STLB so với các thể thơ khác. 
Nỗi lai lịch dễ hầu than thở, 
 Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao? 
 Sầu sầu thảm thảm xiết bao, 
 Sầu đầy giạt bể thảm cao ngất trời 
 [9, 18] 
Vần chân “thở” kết hợp với vần lƣng “lỡ” nguyên âm “ơ” gợi lên sự 
lỡ dở hay một cái gì đó không trọn vẹn. Tiếng lòng của ngƣời vợ trẻ khi đấng 
quân vƣơng của mình từ giã cõi đời đã đƣợc tác giả diễn tả hết sức tinh tế, da 
diết đến xót gan, cháy ruột thông qua hình ảnh thơ và sự phối hợp nhịp nhàng 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 60 - 
về âm điệu. Kể từ ngày ngƣời chồng yêu thƣơng từ trần, cuộc sống của nàng 
trở nên “sầu sầu thảm thảm xiết bao”! Cuộc sống tƣơi vui hạnh phúc khi xƣa 
bên ngƣời chồng yêu dấu của hoàng hậu chẳng bao giờ còn có thể trở lại đƣợc 
nữa! Nỗi đau ấy bật thành lời than thở kết hợp với lối gieo vần trong STLB 
dƣờng nhƣ càng tô đậm thêm nỗi sầu đau, bi thƣơng của bà hoàng hậu trẻ. 
Trong luận văn này, chúng tôi tiến hành khảo sát sự chuyển biến về vần 
của thể STLB trong phạm vi một số tác phẩm mà chúng tôi cho là tiêu biểu 
hơn cả. Các tác phẩm đó là: Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào, Bồ Đề 
thắng cảnh thi, Tứ thời khúc vịnh, Thiên Nam minh giám, Chinh phụ ngâm, 
Cung oán ngâm khúc, Văn chiêu hồn, Tỳ bà hành. Dƣới đây là kết quả khảo 
sát mà chúng tôi thu đƣợc: 
Bảng 3.1 Khảo sát vị trí gieo vần qua một số tác phẩm tiêu biểu tiến 
trong trình phát triển của thể thơ STLB 
STT 
Tác phẩm 
Số lượng 
câu thất 
trên 
Gieo vần lưng vị 
trí chữ thứ 3 
Gieo vần lưng vị 
trí chữ thứ 5 
Số dòng Tỷ lệ Số dòng Tỷ lệ 
1 Nghĩ hộ tám giáp 
giải thưởng hát ả đào 
20 1 5% 17 85% 
2 Bồ Đề thắng cảnh thi 4 4 100% 0 0 
3 Tứ thời khúc vịnh 84 73 87% 9 11% 
4 ThiênNam minh giám 234 58 25% 176 75% 
5 Chinh phụ ngâm 102 23 22.5% 80 77.5% 
6 Cung oán ngâm 89 0 0% 88 100% 
7 Văn chiêu hồn 46 5 11% 41 89% 
8 Tỳ bà hành 22 1 5% 21 95 % 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 61 - 
Nhìn vào bảng khảo sát trên, ta nhận thấy cách gieo vần lƣng trong hai 
câu thất của thể STLB không ổn định qua các giai đoạn và không đồng đều ở 
mỗi tác phẩm. Đặc biệt cách gieo vần lƣng trong những câu STLB xuất hiện ở 
giai đoạn đầu có điểm khác biệt rất lớn so với cách gieo vần lƣng của câu 
STLB trong thể loại Ngâm khúc. Trong số 7 tác phẩm mà chúng tôi tiến hành 
khảo sát thì Bồ Đề thắng cảnh thi (100%) và Tứ thời khúc vịnh (87%) là hai 
tác phẩm có tỷ lệ vần lƣng gieo ở vị trí chữ thứ 3 lớn nhất. Lối gieo vần lƣng 
ở vị tiếng 3 dần dần đƣợc chuyển sang tiếng thứ 5. Trong tác phẩm Chinh phụ 
ngâm sự chuyển biến này chƣa đƣợc thể hiện rõ chỉ có 77.5% vần đƣợc gieo 
ở tiếng thứ 5. Song tới Cung oán ngâm vị trí gieo vần đã dứt khoát định vị ở 
vị trí chữ thứ 5 (chiếm 100%). Từ đó trở vần lƣng dần dần đƣợc định vị ở 
tiếng thứ 5 trong các tác phẩm Ngâm khúc. 
3.1.2 Thanh điệu 
Cũng giống nhƣ thể lục bát, thể STLB là thể thơ đƣợc quy định chặt 
chẽ về thanh điệu. Tuy nhiên, quy tắc phối thanh của thể thơ này cũng giống 
nhƣ cách gieo vần không đƣợc ổn định. 
Khi ở giai đoạn mới hình thành, trong câu thất trên, chữ thứ 3 thƣờng là 
thanh bằng (trừ tác phẩm Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào của Lê Đức 
Mao có chữ thứ 3 là thanh trắc). Trong quá trình sáng tác các thi sĩ đã nhận ra, 
để thanh bằng ở chữ thứ 3 trong câu thất trên là sẽ làm cho câu thơ trở nên 
trúc trắc nghe không thuận. 
Ví dụ: 
 Thiếp trong cánh của chàng ngoài chân mây 
Trong của này đã đành phận thiếp 
[12, 115] 
 Vì vần có sự thay đổi từ vị trí thứ 3 sang vị trí thứ 5 nên thanh điệu 
cũng có sự biến đổi cho phù hợp. Chữ thứ 3 mang thanh trắc tạo nên cấu trúc 
thanh điệu cân đối đảm bảo sự luân phiên giữa các bƣớc thơ theo trật tự Trắc 
– Bằng – Trắc. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 62 - 
Ví dụ: 
Bến phì (b) gió thổi (t) đìu hiu (b) mấy gò (b). 
Hồn tử sĩ (t) gió ù (b) ù thổi (t). 
[12, 114] 
Sự thay đổi thanh điệu trong câu thất thứ nhất là cần thiết và phù hợp 
với tiến trình phát triển của thể thơ STLB. Nếu nhƣ ở giai đoạn đầu thể STLB 
đƣợc dùng để sáng tác các thi phẩm mang tính chất ngâm vịnh nên về thanh 
điệu dƣờng nhƣ không đƣợc chú trọng, chữ thứ 3 thƣờng mang thanh bằng. 
Khi thể STLB đƣợc dùng vào sáng tác thể loại Ngâm khúc thì thanh bằng ở 
chữ thứ 3 của câu thất trên đã chuyển thành thanh trắc. Vần trắc với tính chất 
“không bằng phẳng” thích hợp với việc diễn tả những cung bậc tình cảm sâu 
kín, nhất là tâm trạng đau đớn, bi thƣơng của con ngƣời. 
Có nhƣ vậy thể thơ mới phát huy đƣợc hết ƣu thế của mình trong việc 
diễn tả nội tâm con ngƣời. Sau đây là bảng khảo sát thanh điệu cuả thể thơ 
STLB trên một số tác phẩm tiêu biểu. 
Bảng 3.2 Khảo sát thanh điệu qua một số tác phẩm tiêu biểu tiến 
trong trình phát triển của thể thơ STLB 
STT Tác phẩm Số lượng 
Thanh trắc vị trí thứ 3 
Số câu Tỷ lệ 
1 Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng 
hát ả đào 
20 19 95% 
2 Bồ Đề thắng cảnh thi 4 1 25% 
3 Tứ thời khúc vịnh 84 4 5% 
4 Thiên Nam minh giám 236 116 49% 
5 Chinh phụ ngâm 102 71 70% 
6 Cung oán ngâm 89 86 97% 
7 Văn chiêu hồn 46 39 85% 
8 Tỳ bà hành 22 20 91% 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 63 - 
Để đảm bảo sự luân phiên giữa các bƣớc thơ theo trật tự Trắc – Bằng – 
Trắc thì thanh điệu của chữ thứ 3 đã có sự thay đổi. Nếu nhƣ ở giai đoạn đầu 
chữ thứ 3 thƣờng mang thanh bằng (Tứ thời khúc vịnh chiếm 95%, Thiên Nam 
minh giám chiếm 51%) thì giai đoạn sau thanh điệu của chữ thứ 3 này đã có 
sự thay đổi. Chữ thứ ba thƣờng mang thanh trắc chứ không phải là thanh bằng 
(Chinh phụ ngâm khúc chiếm 70%, Cung oán ngâm khúc chiếm 97%, Tỳ bà 
hành chiếm 91%...). Sự chuyển biến về thanh điệu tạo nên sự hài hòa trong 
câu thơ, đọc câu thơ lên ta thấy thuận hơn, lắng đọng và cũng rất dễ nhớ. 
3.1.3 Ngắt nhịp 
Trong ngắt nhịp là một trong những tiêu chí cơ bản để nhận diện thể thơ 
STLB. Nếu nhƣ từ lúc mới ra đời đến khi hoàn thiện cách gieo vần và luật phối 
thanh của thể thơ đã có nhiều thay đổi thì cách ngắt nhịp lại tƣơng đối ổn định. 
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy từ khi mới ra đời nhịp ngắt của thể STLB đã 
tƣơng đối ổn định. Ngay trong những bài thơ có hình thức lai tạp thì nhịp ngắt 
3/4 (lẻ trƣớc, chẵn sau) của hai câu thất đã đƣợc sử dụng nhƣ nhịp ngắt chủ đạo 
và đƣợc duy trì bền vững ở hầu hết các bài thơ viết theo thể thơ này. Trong 
Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào có 36/40 câu ngắt thất theo nhịp 3/4, 
chỉ có 2 câu ngắt theo nhịp 4/ 3 và 2 câu ngắt theo nhịp 2/2/3: 
Ví dụ: 
 - Xuân nhật/ tảo khai/ gia cát hội (2/2/3) 
 - Hạ đình/ thông sướng/ thái bình âm (2/2/3) 
- Tề thanh chúc Thánh/ cung vạn tuế (4/3) 
- Lễ nhạc bách niên/ tu miếu điển (4/3) 
Cách ngắt nhịp trong bài chúc làng khá đồng nhất so với các bài STLB 
ở thời kỳ hoàn thiện. 
Nhìn chung nhịp ngắt của thể thơ trong tiến trình phát triển của thể 
STLB là tƣơng đối ổn định ít có sự biến đổi. Trừ một số trƣờng hợp ngoại lệ. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 64 - 
(xem bảng khảo sát). 
Bảng 3.2 Khảo sát ngắt nhịp qua một số tác phẩm tiêu biểu tiến 
trong trình phát triển của thể thơ STLB 
STT Tác phẩm 
Số 
lượng 
Ngắt nhịp 3/4 
Một số cách ngắt 
nhịp khác 
Số câu Tỷ lệ Số câu Tỷ lệ 
1 Nghĩ hộ tám giáp giải 
thưởng hát ả đào 
40 36 90% 4 10% 
2 Bồ Đề thắng cảnh thi 8 8 100% 0 0 
3 Tứ thời khúc vịnh 168 166 99% 2 1% 
4 Thiên Nam minh giám 468 461 98%% 7 2% 
5 Chinh phụ ngâm 204 196 96% 8 4% 
6 Cung oán ngâm 178 177 99% 2 1% 
7 Văn chiêu hồn 92 86 93.5% 6 6.5% 
8 Tỳ bà hành 44 39 89% 5 11% 
 Qua bảng khảo sát trên, ta thấy nhịp ngắt trong hai câu thất của thể 
STLB hầu nhƣ không có sự thay đổi. Từ tác phẩm ra đời ở giai đoạn đầu 
(Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào chiếm 90%, Tứ thời khúc vịnh 
chiếm 99%) đến những tác phẩm ở thời kỳ phát triển rực rỡ (Chinh phụ ngâm 
chiếm 96%, Cung oán ngâm chiếm 99%) chủ yếu vẫn đƣợc ngắt theo nhịp 
3/4. Có thể khẳng định nhịp điệu của thể STLB từ khi mới hình thành và khi 
phát triển hoàn thiện là tƣơng đối ổn định. 
Có thể thấy, để biểu đạt tiếng nói tâm tƣ tình cảm của con ngƣời một 
cách trực tiếp, có hiệu quả cao thì rất cần đến tính nhạc. Bởi nhạc có vai trò 
rất lớn trong việc vật chiếu hóa, khách thể hóa những cảm nghĩ tâm tƣ vốn vô 
hình trong sâu thẳm của thế giới nội tâm. Đọc một bài thơ ta nhƣ nghe thấy 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 65 - 
đƣợc nỗi buồn, niềm vui, ta nhƣ cảm nhận đƣợc sự trong trẻo hay tăm tối tù 
túng… của cuộc sống cũng nhƣ tâm trạng con ngƣời. Phải chăng điều đó một 
phần là do nhạc điệu mang lại. Để tạo nên tính nhạc trong thơ thì vần và nhịp 
là hai yếu tố quan trọng. 
Qua khảo sát, chúng ta có thể khẳng định STLB là thể thơ phong phú 
về vần, dồi dào về nhịp. Một khổ thơ STLB có năm vần thuộc các loại vần 
(vần chân hoặc vần lƣng, vần bằng hoặc vần trắc). Trong một bài thơ thất 
ngôn tứ tuyệt của Trung Hoa, ta thấy chỉ có hai hoặc nhiều nhất là ba vần, đều 
là vần chân và độc vận (tức chỉ có một loại vần bằng hoặc trắc). Điều đó cho 
thấy, STLB là thể thơ có vần điệu phong phú hơn thơ Đƣờng luật. Sự phong 
phú về vần điệu đã góp phần tạo nên tính nhạc cho các bài thơ. 
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách 
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu 
Người xuống ngựa khách đừng chèo 
Chen quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti. 
 [ 9, 51] 
Cách điệp nguyên âm “a” trong câu thất thứ nhất gợi cho ngƣời đọc 
có cảm giác không gian ở bến Tầm Dƣơng nhƣ rộng thêm ra. Câu thất thứ hai 
điệp nguyên âm “u” gợi nên không khí buồn tủi trong buổi tiễn đƣa. Đọc khổ 
thơ lên ngƣời đọc có thể hình dung ra không khí buồn bã trong cảnh tiễn đƣa 
của ngƣời ở và kẻ đi. 
Sự phong phú về vần, dồi dào về nhịp điệu đã giúp thể thơ STLB có đủ 
khả năng biểu hiện nội tâm, diễn tả những cung bậc tình cảm của con ngƣời. 
Chính vì thế mà cha ông ta đã lựa chọn thể STLB để sáng tác các khúc ngâm 
trữ tình trƣờng thiên. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 66 - 
3.2 Sự chuyển biến về mặt nội dung của thể thơ STLB từ ngâm vịnh đến 
diễn tả nội tâm 
3.2.1 Những đặc trưng về nội dung của thể thơ STLB ở giai đoạn sơ khai 
 Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào của Lê Đức Mao đƣợc xem là tác 
phẩm văn học viết đầu tiên sử dụng những câu song thất lục bát. Trong một 
chừng mực nhất định, bài hát chúc lành của tiến sĩ họ Lê, làng Đông Ngạc đƣợc 
coi là dấu mốc đánh dấu sự xuất hiện những câu thơ STLB thành văn. 
Tuy nhiên, tác phẩm có tính chất sơ khai của thể STLB mới chỉ bộc lộ 
tâm trạng chung của mọi ngƣời chứ không phải là bộc lộ nội tâm kín đáo của 
một nhân vật trữ tình cụ thể. Bài thơ chỉ mang tính chất vịnh cảnh, ngợi ca 
công đức của nhà vua: 
Ba hàng vui vẻ ngày vui 
Tung ba tiếng chúc, gió mười dặm xuân 
Nhởn nhơ cõi thọ nền nhân 
Vui lòng hy hạo tụng ân bình hòa 
Đó là những câu thơ ca ngợi mùa xuân trong không khí tƣơi vui của 
ngày hội làng, hay thực chất là để ca ngợi cuộc sống yên lành. Nhờ ơn công 
đức của vua mà dân có đƣợc cuộc sống vui tƣơi, hạnh phúc. Khi mùa xuân 
vừa tới, mọi ngƣời mở hội cùng nhau hát khúc hát thái bình. Toàn bài toát lên 
tâm trạng hồ hởi, vui vẻ của ngƣời dân. Họ bằng lòng với cuộc sống yên bình 
mà nhà vua ban phát cho họ: 
Vui xuân xuân yến ngày lâu 
Thọ bôi kể chục, ca trù điển trăm 
Mừng thế trị năm năm xuân tịch 
Tụng thần hưu thân tích vô cương 
Xuân kỳ giải thưởng đào nương 
Chúc dâng hai chữ phụ khang mừng làng 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 67 - 
Âm điệu chủ đạo của bài thơ đƣợc tạo nên từ không khí tƣng bừng, vui 
vẻ. 
Xét về phƣơng diện nội dung, bài thơ này vẫn thiên về vịnh cảnh thiên 
nhiên và ca ngợi công đức của nhà vua chứ chƣa đi vào phản ánh những tâm 
sự thầm kín hay nỗi đau đớn dằn vặt của nhân vật trữ tình. 
Nếu với Việt sử diễn âm (khoảng giữa thế kỷ XVI), thể thơ lục bát đã 
xác lập đƣợc chuyên thể thì với thể STLB, việc xác lập chuyên thể diễn ra 
muộn hơn. Trong quá trình thể thơ STLB vƣơn lên thành một hình thức độc 
lập, Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải có vị trí quan trọng. Bởi lẽ, từ cuối 
thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII với việc ra đời của bài Tứ thời khúc vịnh, thể thơ 
STLB đã nhanh chóng xác lập cho mình một vị trí xứng đáng trên thi đàn dân 
tộc về phƣơng diện hình thức là chủ yếu. 
Nhƣng về phƣơng diện nội dung, bao trùm toàn bài thơ Tứ thời khúc 
vịnh vẫn chỉ là không khí ngợi ca. Tuy nội dung toàn bài vịnh khung cảnh 
thiên nhiên nhƣng thực chất là ngợi ca công đức của vua, chúa. Nhờ ơn các vị 
quân vƣơng đã đặt ra quân phép cai trị và ban “năm phúc tới dân” nên dân 
chúng có cuộc sống yên lành. Họ cầu mong Lê Hoàng, Trịnh Vƣơng đƣợc 
muôn đời bền vững để dân mãi đƣợc hƣởng cuộc sống ấm no. 
Gót lẫn đầu, đội ơn vị dục, 
Hoàng cực cho năm phúc tới dân, 
Bốn mùa được những mùa xuân, 
Trị dài Trịnh chúa, Lê quân muôn đời 
 Cuộc sống của muôn dân cũng nhƣ phong cảnh thiên nhiên dƣới thời 
vua Lê chúa Trịnh hiện lên vui tƣơi sống động. Khi mùa xuân về, khắp kinh 
đô náo nhiệt, tƣng bừng: 
Thiều quang đến lòng người hớn hở, 
Thửơ ba dương là cỡ lập xuân 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 68 - 
Đâu đâu chịu lệnh đông quân 
Cửa giao lừng lẫy đón xuân rước về 
Khắp bốn bề non sông hoa cỏ 
Hết cùng lên cõi thọ đền xuân 
Nhà nhà tống cựu nghinh tân 
Tú mi là thiếp, nghi xuân là bùa. 
Khung cảnh thiên nhiên mỗi mùa có lại có những nét đặc trƣng riêng. 
Trong đó, mùa xuân đƣợc mong chờ và chào đón nồng nhiệt nhất. Khắp thiên 
hạ vui mừng đón rƣớc chúa xuân. Ngay cả cây cỏ non sông, dƣờng nhƣ nơi 
nơi đều lên “cõi thọ” chào đón mùa xuân về. Không khí chuẩn bị của mọi nhà 
thật tƣng bừng, náo nhiệt. Họ xua bỏ tà khí, những thứ không may của năm cũ 
để đón nhận niềm hạnh phúc, tƣơi vui của năm mới. So với bốn mùa thì mùa 
xuân phong cảnh ở kinh đô náo nhiệt, tƣơi vui hơn cả nên khi mùa xuân qua 
đi, mọi ngƣời đều thấy tiếc nuối. Những ngƣời gan dạ nhƣ những bậc đại 
trƣợng phu cũng phải mềm lòng tiếc nuối khi mùa xuân qua đi. 
So bốn mùa đâu bằng xuân rốt 
Khí trời hòa vật tốt người thanh. 
…Tiếc xuân có phú chắc hiềm 
Trượng phu lòng sắt dễ mềm vậy vay. 
Hết khung cảnh mùa xuân là tới mùa hè với hình ảnh của chim Đỗ Vũ, 
hoa Hải Đƣờng, lá sen… Sau cái nắng oi ả của mùa hè sẽ là những ngày dịu 
mát của mùa thu “Thần Nhục thu sớm giong yến trắng – Khí mát về hơi nắng 
hầu thui”. Nhƣng những ngày thu dịu mát rồi cũng qua đi nhƣờng chỗ lại cho 
mùa đông lạnh giá. Đó là sự tuần hoàn của thiên nhiên đất trời. Mỗi mùa với 
mỗi sắc thái khác nhau đã tạo nên khung cảnh thiên nhiên đất Việt. 
Ngƣời dân có đƣợc cuộc sống yên bình ấm no là nhờ công đức của vua 
Lê chúa Trịnh. Vì vậy, khắp thần dân trong nƣớc đều đội ơn vua chúa. Họ hết 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 69 - 
lòng ca tụng đấng quân vƣơng của mình. Khắp nơi đều dâng những lời chúc 
tụng, mong đƣợc thỏa lòng thảo ngay: 
Khắp xa gần ơn nhờ đức đội 
Đều thu về một mối xa thư 
Tám phương xem bẵng đình trừ 
Huyền – trân lọ đến. Cư – tư lọ vào 
Hầu no nao nỗi lòng ngay thảo 
Chúc một thơ Thiên bảo hòa dâng 
Đức tày nhật nguyệt thăng hằng, 
Thịnh bằng tùng bách, thọ bằng non sông. 
Qua việc khảo sát và phân tích hai tác phẩm Nghĩ hộ tám giáp giải 
thưởng hát ả đào của Lê Đức Mao và Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải, 
chúng tôi nhận thấy: Trong giai đoạn này, mặc dù các tác giả đã sử dụng 
những dòng STLB để sáng tác, nhƣng những tác phẩm ở thời kỳ này không 
đạt đƣợc những thành tựu rực rỡ nhƣ những tác phẩm trƣờng thiên ngâm 
khúc. Bởi lẽ, các tác phẩm thời kỳ này thƣờng mang tính chất ngợi ca và thể 
hiện niềm tin vững chắc ở tƣơng lai của đất nƣớc. Bao trùm trong hai tác 
phẩm là không khí tƣơi vui, nhộn nhịp – trái ngƣợc với bầu không khí ảm 
đạm u buồn trong tác phẩm trữ tình ngâm khúc. Ở đây, các tác giả chủ yếu đi 
vào vịnh cảnh, miêu tả hiện tƣợng khách quan. Những tâm sự riêng tƣ của 
con ngƣời cá nhân dƣờng nhƣ chƣa đƣợc họ quan tâm và thể hiện một cách 
thỏa đáng. Sở dĩ nhƣ vậy, là do đặc trƣng của văn học giai đoạn này vấn đề 
cái tôi cá nhân ít đƣợc các tác giả quan chú ý đến. Các nhà nghiên cứu đã chỉ 
ra và chứng minh thể thơ STLB rất phù hợp để diễn tả những cung bậc tình 
cảm và đời sống nội tâm của nhân vật trữ tình. Tác giả Đặng Thanh Lê viết: 
“các tác phẩm song thất lục bát của thế kỷ thứ XVIII đưa thể thơ này vào 
chức năng phản ánh nội dung tâm trạng có tính chất bi kịch” [26, 47]. Vì thế 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  - 70 - 
thể tài ngâm vịnh ở giai đoạn này không phù hợp với hình thức diễn đạt của 
thể STLB nên khi sử dụng thể STLB 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
d.pdf