LỜI MỞ ĐẦU.1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN .3
1.1 Sơ lược tình hình nghiên cứu Dịch vụ hệ sinh thái trên thế giới.3
1.1.1 Khái niệm DVHST.3
1.1.2 Tiếp cận DVHST hướng tới phát triển bền vững các HST.4
1.1.2.1 Quan điểm tiếp cận.4
1.1.2.2 Đánh giá cơ hội và rủi ro liên quan đến các DVHST.5
1.1.2.3 Ứng dụng công cụ PES hướng tới phát triển bền vững hệ sinh thái .14
1.1.3 Một số mô hình khai thác hiệu quả lợi ích DVHST trên thế giới .16
1.2 Sơ lược tình hình nghiên cứu DVHST tại Việt Nam.19
1.2.1 Tình hình nghiên cứu DVHST tại Việt Nam .19
1.2.2 Tiềm năng áp dụng chi trả DVHST tại Việt Nam .20
1.2.3 Bước đầu thực hiện cơ chế chi trả đối với DVHST rừng tại Việt Nam .21
1.2.3.1 Xu hướng trong quản lý và phát triển DVHST rừng.23
1.2.3.2 Khai thác DVHST rừng tại Việt Nam.25
1.3 Thực trạng quản lý các vườn quốc gia tại Việt Nam.29
1.3.1 Tầm quan trọng của các VQG ở Việt Nam.29
1.3.2 Quy hoạch hệ thống các VQG ở Việt Nam.30
1.3.3 Những tồn tại trong hệ thống quản lý của các VQG .31
CHƯƠNG 2 – MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ PHẠM VI NGHIÊN
CỨU .34
2.1 Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài : .34
2.2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :.35
2.3 Phương pháp nghiên cứu :.35
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN.37
3.1. Tình hình khai thác DVHST tại ba VQG điển hình Bidoup, Xuân Thủy và Cát Bà.37
125 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 790 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khai thác bền vững dịch vụ hệ sinh thái: nghiên cứu điển hình tại các vườn quốc gia Cát bà, Xuân thủy và Bidoup, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng DLST tại VQG
trong tháng 9,287 khách trong tháng 10,421 khách trong tháng 11,745 khách trong
tháng 12, tổng cộng là 2.132 khách trong năm 2012. Cộng đồng có 27 người tham
gia các hoạt động này và thu được 3,8 triệu đồng cho quỹ cộng đồng được thiết lập
tại các thôn nhằm phát triển cộng đồng, với nguồn thu là một phần phí dịch vụ (như
phí diễn giải), mặc dù vẫn còn khiêm tốn [16]
Số lượng du khách tham gia các hoạt động DLST tại Vườn tuy đã tăng nhưng
vẫn rất hạn chế, nguyên nhân có thể do:
- VQG chưa được biết đến nhiều trong cộng đồng du khách
- Sản phẩm DLST của vườn chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút du khách
- Năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ làm DLST còn yếu kém
- Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu của du khách
Nhận xét: Dưới sự hỗ trợ của tổ chức JICA – Nhật Bản, hoạt động khai thác dịch vụ
DLST đã có những thành tựu đáng kể, tạo tiền đề để phát triển bền vững mô hình này
trong tương lai. Cơ chế chi trả dịch vụ DLST tại VQG Bidoup nằm dưới sự quản lý
của UBND tỉnh Lâm Đồng và hiện chưa được hưởng lợi từ loại dịch vụ thứ hai quy
định trong chính sách PFES theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 50 KHOA MÔI TRƯỜNG
- Cấu trúc PES: Tín dụng Cacbon
Tín dụng Cacbon
Dịch vụ hệ sinh thái Quy định về khí hậu
Người mua Các công ty tư nhân, các tổ chức môi trường phi
chính phủ,
Người bán Vườn quốc gia
Phạm vi địa lý Quốc tế hoặc quốc gia
Sự can thiệp của người bán Bảo vệ hay trồng rừng
Chi trả bởi người mua Thanh toán tiền mặt dựa trên Cacbon được lưu trữ
thực tế (dựa trên đầu ra) hoặc hành động được thực
hiện (dựa trên đầu vào)
Hiện nay, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về Giảm
phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý
bền vững tài nguyên rừng, bảo tồn và nâng cao trữ lượng Cacbon rừng (REDD+) như
là nền tảng cho việc giảm phát thải khí nhà kính trong lâm nghiệp. Việt Nam đã hoàn
thành pha 1 cho việc thiết lập sẵn sàng cho thực hiện REDD+ và đang chuẩn bị thực
hiện pha 2 nhằm triển khai thí điểm các hoạt động REDD+ (2013 – 2016). Trong các
hoạt động thí điểm này, các tiêu chí và cơ chế chi trả cho dịch vụ hấp thụ Cacbon đã
và đang được kiểm nghiệm. Vì vậy, một cơ chế thống nhất hài hòa khi khai thác dịch
vụ hấp thụ Cacbon giữa PFES và REDD+ vẫn chưa được quyết định. Đây cũng chính
là yếu tố gây trở ngại đối với dịch vụ tiềm năng này của VQG Bidoup cũng như đối
với HST rừng trên toàn quốc. Cơ chế chính sách chưa hoàn thiện, tiềm năng có nhưng
chưa thể triển khai và đang trong quá trình nghiên cứu.
VQG Bidoup đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng cho phép ký Biên bản
ghi nhớ với Tổ chức Minh bạch quốc tế để thực hiện dự án PAC REDD tại văn bản
số 421/UBND-LN ngày 10/02/2012 của UBND tỉnh Lâm Đồng [10]. Đây là cơ sở để
VQG Bidoup tiến tới khai thác loại dịch vụ này.
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 51 KHOA MÔI TRƯỜNG
c. Những tồn tại trong công tác triển khai chính sách PES tại VQG Bidoup
(1) Thiếu các cơ sở pháp lý và các hướng dẫn chi tiết về việc thực hiện PFES
Nghị định 99 quy định các loại dịch vụ môi trường phải chi trả, gồm:
- Phòng hộ đầu nguồn (gồm bảo vệ đất, hạn chế xói mòn, bồi lắng lòng hồ, lòng
sông, lòng suối; điều tiết và duy trì nguồn nước cho hoạt động sản xuất và đời
sống xã hội)
- Bảo vệ cảnh quan tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học của các hệ sinh thái
rừng phục vụ cho du lịch
- Hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng, giảm phát thải gây hiệu ứng nhà kính
bằng các biện pháp ngăn chặn suy thoái và giảm diện tích rừng và phát triển
bền vững.
- Dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên và nguồn nước
từ rừng cho các hoạt động nuôi trồng thủy sản.
Tới nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cơ quan chịu trách nhiệm chính
về tổ chức triển khai PFES, đã ban hành các quy định và hướng dẫn khá chi tiết về
triển khai hai loại dịch vụ đầu tiên (Phòng hộ đầu nguồn và dịch vụ DLST). Mặc dù
dịch vụ thứ hai (vẻ đẹp cảnh quan và bảo tồn đa dạng sinh học) đã được triển khai ở
một mức độ nhất định, sự đa dạng của các bên liên quan, nhiều mô hình cơ chế hoạt
động và mối quan hệ phức tạp giữa Người cung cấp dịch vụ - Trung gian – Người
mua và sử dụng dịch vụ làm cho việc triển khai trở nên khó khăn và gặp nhiều mâu
thuẫn. Tới nay, có nhiều khó khăn trong việc thực hiện dịch vụ này đã được phát hiện,
có thể kể đến như: Các bên thực hiện đều chưa rõ sẽ đánh giá và giám sát dịch vụ vẻ
đẹp cảnh quan dựa trên tiêu chí nào; Có những sự khác biệt đáng kể trong việc tính
toán số tiền chi trả (ví dụ dựa theo phí vào cổng và vào doanh thu),...
Mặc dù có khá nhiều hoạt động thí điểm được hỗ trợ bởi các nhà tài trợ cho loại
dịch vụ thứ ba “hấp thụ Cacbon” ở Lâm Đồng nhưng hầu hết những hoạt động thí
điểm này vẫn đang trong giai đoạn thực hiện và kết quả đầu ra chưa được tổng hợp.
Như đã đề cập ở phần trên, tới nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vẫn chưa
quyết định nên tổ chức như thế nào để kết hợp PFES và REDD+ và đánh giá cơ chế
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 52 KHOA MÔI TRƯỜNG
thích hợp cho việc triển khai dịch vụ hấp thụ Cacbon. Chính vì vậy, không chỉ ở VQG
Bidoup mà ở hầu hết các VQG khác của Việt Nam dịch vụ này mới chỉ tồn tại dưới
dạng dịch vụ tiềm năng chưa được khai thác.
(2) Vai trò không rõ ràng của các VQG trong quá trình chi trả DVMTR
Ở điểm nghiên cứu VQG Bidoup cho thấy, VQG những nơi cung cấp vẻ đẹp
cảnh quan và bảo tồn đa dạng sinh học, tình trạng người mua và sử dụng dịch vụ cũng
đồng thời là người cung cấp làm phức tạp thêm việc thiết kế cơ chế PFES. Vai trò
của các VQG trong quá trình chi trả dịch vụ rừng là không rõ ràng. Từ góc độ pháp
lý, họ có thể có các vai trò khác nhau tùy thuộc vào việc thiết lập cơ chế PFES. Theo
quy định về chủ quản lý rừng, VQG được xem là kiểu nhà cung cấp dịch vụ môi
trường, vì vậy có đủ điều kiện để nhận tiền chi trả PFES. Tuy nhiên, các đối tượng
này cũng đồng thời tổ chức kinh doanh và có lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh
du lịch của họ và do đó họ cũng là người sử dụng DVMT. Thêm vào đó, họ thường
ký hợp đồng khoán bảo vệ rừng với các hộ dân, họ cũng được xem như là bên trung
gian trong việc điều phối tiền chi trả PFES tới những người bảo vệ rừng. Vai trò trung
gian này sẽ cho phép các đối tượng trên có quyền giữ 10% chi phí quản lý trong cơ
chế PFES. Vì vậy, điều quan trọng là cần cân đối giữa lợi nhuận thu đươc bởi các
vườn quốc gia dựa trên các dịch vụ họ kinh doanh và số tiền họ nhận được dựa trên
tư cách là bên cung cấp DVMT.
Việc trao đổi thông tin giữa người cung cấp dịch vụ, người mua và sử dụng
dịch vụ và bên trung gian phải được thực hiện thường xuyên để đảm bảo tính minh
bạch trong hệ thống chi trả. Việc phát triển hệ thống chia sẻ thông tin là cần thiết để
kết nối người cung cấp dịch vụ và những người hưởng lợi để đảm bỏa sự tham gia
toàn diện của cộng đồng vào PFES
(3) Vấn đề xác định diện tích và lưu vực chi trả DVMTR chưa được chỉ đạo thống
nhất. Chênh lệch đơn giá giữa các lưu vực là vấn đề khó khăn trong công tác
tuyên truyền vì họ so bì lẫn nhau khi nhận tiền khác nhau.
(4) VQG Bidoup chưa nhận được đầy đủ kinh phí cho phần diện tích mà Vườn đang
quản lý
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 53 KHOA MÔI TRƯỜNG
Tính đến thời điểm này, VQG Bidoup hiện đang quản lý hơn 70.000 ha diện tích
rừng, tuy nhiên mới chỉ có 40.000 ha trong số đó được nhận tiền chi trả DVMTR. Hiện
nay, VQG đang đề xuất nhận tiếp tiền chi trả DVMTR của 30.000 ha còn lại đóng góp
vào ngân quỹ Vườn, phục vụ cho mục đích bảo tồn đa dạng sinh học của VQG.
(5) Việc chi trả tiền khoán bảo vệ rừng dựa trên khối lượng diện tích được nghiệm
thu, chưa đánh giá sâu vào diễn biến tài nguyên rừng (số lượng, chất lượng rừng,
hệ số k,) để làm cơ sở chính cho việc thanh toán tiền DVMTR hàng năm.
3.1.2 VQG Xuân Thủy
3.1.2.1 Giới thiệu về khu vực nghiên cứu
a, Vườn quốc gia Xuân Thủy
VQG Xuân Thủy được thành lập vào năm 2003 trên cơ sở nâng cấp Khu bảo
tồn thiên nhiên đất ngập nước Xuân Thủy (thành lập 10/1995) với tiền đề là Khu
Ramsar đầu tiên của Việt Nam (01/1989) Đây cũng là khu vực vùng lõi cực kỳ quan
trọng thuộc khu dự trữ sinh quyển đồng bằng sông Hồng (12/2004). VQG Xuân Thuỷ
có tổng diện tích là 7.100 ha, trong đó có khoảng 3.000 ha là diện tích đất nổi khi
triều kiệt có rừng ngập mặn.
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 54 KHOA MÔI TRƯỜNG
Hình 3.3: Bản đồ quy hoạch chung VQG Xuân Thủy [18]
b, Điều kiện tự nhiên
Vùng bãi bồi huyện Giao Thuỷ có độ cao trung bình từ 0,5 - 0,9m. Đặc biệt ở
Cồn Lu có nơi cao tới 1,2 - 2,5 m. Nhìn chung vùng bãi triều của huyện Giao Thuỷ
thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Bãi triều của VQG Xuân Thủy và
5 xã vùng đệm được chia thành 4 vùng chính đó là : Bãi Trong, Cồn Ngạn, Cồn Lu
và Cồn Xanh với diện tích cụ thể như sau.
Bảng 3.5: Thống kê diện tích các loại đất đai ở vùng lõi VQG [19]
ĐV tính: ha
Vùng lõi
VQG Xuân
Thủy
Tổng số Trong đó
Đất ngập nước
thường xuyên
Rừng ngập
mặn
Bãi triều Đất nổi
Cồn Ngạn 1284 300 644 195 145
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 55 KHOA MÔI TRƯỜNG
Cồn Lu 3182 1200 1118 771 93
Cồn Mờ 2634 2500 132 2
Tổng số 7100 4000 1762 1098 240
Bảng 3.6: Thống kê các loại đất đai ở vùng đệm VQG Xuân Thủy [19]
ĐV tính: ha
Vùng đệm
VQG Xuân
Thủy
Tổng số Trong đó
Đất ngập nước
thường xuyên
Rừng
ngập mặn
Bãi triều Đất nổi
5 xã Vùng đệm 4276,0 4276,0
Bãi trong 2107,0 740,0 844,0 45,0 478,0
Cồn Ngạn 960,0 880,0 65,0 15,0
Tổng số 7233,0 740,0 1724,0 110,0 4759,0
Khu vực bãi triều của huyện Giao Thuỷ được cung cấp nước từ Sông Hồng, có
2 sông chính trong khu vực bãi triều là sông Vọp và sông Trà, ngoài ra còn một số
lạch nhỏ cấp thoát nước tự nhiên.
c, Đặc điểm kinh tế - xã hội
Dân số. Năm xã vùng đệm VQG Xuân Thuỷ có 43.316 người, 12.975 hộ, với
tổng diện tích tự nhiên là 40,18 km2 ( theo số liệu thống kê của các xã năm 2011).
Thực tế cho thấy số người trung bình trong một hộ bình quân 4 người/hộ. Mật độ dân
cư các xã tương đối đồng đều,trung bình 1.078 người/km2. Xã có mật độ cao nhất là
Giao Lạc 1337 người/km2, xã có mật độ thấp nhất là Giao Thiện 805 người/km2.
Bảng 3.7: Diện tích - dân số 5 xã vùng đệm VQG Xuân Thủy [19]
Xã Diện tích
(km2)
Dân số trung bình
(người)
Mật độ dân số
(người/km2)
Số hộ
Giao Thiện 11.8 9496 805 2685
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 56 KHOA MÔI TRƯỜNG
Giao An 8.2 9052 1104 2853
Giao Lạc 7.05 9424 1337 2595
Giao Xuân 7.58 9237 1219 2747
Giao Hải 5.55 6107 1100 2095
Tổng số 40.18 43316 1078 12975
Nguồn: Thống kê huyện Giao Thủy, 2011
Cơ cấu ngành nghề: Nhân lực trong khu vực vùng đệm tập trung chủ yếu vào
sản xuất nông nghiệp, chiếm 78,6% số lao động, còn lại là các ngành nghề khác như:
Thương mại dịch vụ 2%, Công nghệp & tiểu thủ công nghiệp, xây dựng 3,2% và thuỷ
sản chiếm 16,2% số lao động.
Nguồn lao động trẻ tuổi đời từ 16- 44 tuổi chiếm 42,9% tổng dân số,trong đó
có khoảng 52% là lao động nữ - đây cũng là lực lượng chính tham gia hoạt động khai
thác tài nguyên ở khu vực VQG Xuân Thuỷ. Vào những ngày nông nhàn thì số lao
động dư thừa chiếm tới 2/3 tổng số lao động. Nguồn nhân lực này đã gây áp lực lớn
đến tài nguyên môi trường ở khu vực VQG Xuân Thuỷ. Nguyên nhân một phần là do
không có ngành nghề phụ, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp không đảm bảo cuộc
sống, mặt khác do sức hấp dẫn lớn của thị trường hàng thuỷ sản hiện nay nên các hoạt
động nuôi trồng thuỷ sản và khai thác nguồn lợi tự nhiên ở vùng triều của VQG Xuân
Thuỷ đã lôi kéo hầu hết số đông lực lượng dôi dư của vùng đệm.
3.1.2.2 Tiềm năng giá trị dịch vụ hệ sinh thái của VQG Xuân Thủy
a. Tài nguyên thiên nhiên
VQG Xuân Thuỷ có một thảm rừng ngập mặn lớn với nhiều HST khác nhau.
Sự bồi tụ phù sa của Sông Hồng cùng với sự lưu thông của những con sông nhánh
như: Sông Trà, Sông Vọp đã tạo cho VQG Xuân Thuỷ những HST độc đáo với mức
độ đa dạng sinh học cao. Tháng 1/1989, UNESCO đã chính thức công nhận Khu bảo
tồn Xuân Thuỷ trở thành khu RAMSAR. Ở Xuân Thủy đã ghi nhận trên 220 loài
chim, trong đó có trên 150 loài di cư, 50 loài chim nước và có tới 9 loài nằm trong
sách đỏ quốc tế. Đó là: Cò thìa (Platalea minor, P.leucorodia), Bồ nông chân xám
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 57 KHOA MÔI TRƯỜNG
(Penecanus philippensis), Cò trắng Trung quốc (Egretta eulophotes), Mòng bể mỏ
ngắn (Larus saundersi), Choắt lớn mỏ vàng (Tringa guttifer), Rẽ mỏ thìa
(Erynorhynchus pygmeus), Cò lạo Ấn độ (Mycteria leucocephala), Choắt mỏ cong
hông nâu (Numenius madagascariensis), Đuôi cụt bụng đỏ (Pitta nympha). Số lượng
Theo điều tra sơ bộ về đa dạng sinh học của các lớp Bò sát & Lưỡng cư được điều
tra sơ bộ là 27 loài, côn trùng có 112 loài có khoảng chục loài thú ở trên cạn là các
loài : Dơi, chuột, cầy, cáo ...
Ngoài ra, khu vực đất ngập nước tại VQG Xuân Thủy có trên 500 loài động
thực vật thuỷ sinh (bao gồm thực vật nổi, động vật nổi và động vật đáy), trong đó
nhiều loài có giá trị kinh tế cao
b. Tài nguyên nhân văn
Khu vực VQG Xuân Thủy là vùng đất mới, được hình thành nhờ quá trình lấn
biển mở mang diện tích của người dân, mang những sắc thái riêng đã tạo lên sự hấp dẫn.
Đặc trưng của kiến trúc nhà ở (nhà bổi), nhà thờ Thiên chúa giáo và chùa chiền
mang nhiều dáng dấp dân gian. Nét sinh hoạt văn hóa mang đậm dấu ấn của nền văn
minh lúa nước như: chèo cổ, chầu văn, bơi chải, múa lân,... trong các lễ hội cùng với
sinh hoạt thường nhật của cộng đồng.
c. Giá trị kinh tế dịch vụ hệ sinh thái VQG Xuân Thủy
(*) Lượng giá nguồn tài nguyên cây thuốc nam
Theo các số liệu thống kê cho biết trong VQG Xuân Thủy có khoảng 116 loài
thực vật bậc cao có mạch thuộc 85 chi và 34 họ (Theo Quy hoạch Vườn quốc gia
Xuân Thủy 2004-2020 trang 13+22). Trong đó có khoảng 40 loài cây thuốc nam có
nguồn gốc thực vật như: Sa Sâm (hay còn gọi là Sâm Nam), Sài Hồ, Dứa Dại, Cỏ
Gấu, Sâm Dây (hay còn gọi là Sâm Đất), Quả Ké (hay còn gọi là Kim Ngân), Cây
Rơi (hay còn gọi là cây Ô Rô), Vọng Đắng, Trinh Nữ, Muống Biển, Đinh Lăngmọc
tự nhiên rải rác trên các khu vực khác nhau, trong đó tập trung nhiều ở vùng Cồn Lu.
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 58 KHOA MÔI TRƯỜNG
Trong các loài cây thuốc trên, có nhiều loài được người dân sống quanh VQG
khai thác sử dụng, trong đó có 4 loài được khai thác có tính thương mại cao, chiếm
tới trên 70% diện tích phân bổ các cây thuốc và 90% sản lượng khai thác hàng năm.
Bảng 3.8: Lượng giá giá trị cây thuốc tại VQG Xuân Thủy [19]
Các cây
thuốc nam
Tên La
Tinh
Ước tính sinh
khối tự nhiên
(tấn/năm)
Sinh khối
tự nhiên
tăng/năm
Khả năng
cho phép
khai thác
Giá trị kinh
tế (triệu
đồng/ năm)
Lợi nhuận
khai thác
thương mại
Cỏ Gấu Cyperus
rotundus L.
80 tấn/năm
2 Củ tươi: 40 tấn
3 Lá: 40 tấn
10 – 30
%/năm
20 – 25
tấn củ
gấu/năm
331 166
Dứa Dại Pandanus
tectorius
Parkinson
ex Du Roi.
30 tấn quả
tươi/năm
10% năm 2- 2,4 tấn
quả
tươi/năm
132 105
Sâm Dây
(Sâm Đất)
4 – 5 tấn/năm 10 – 20
%/năm
1-2
tấn/năm
122 49
Sài Hồ Pluchea
pteropoda
Hemsl.
2,5 – 3 tấn
tươi/năm
Tăng rất
chậm
0,3
tấn/năm
33 4
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo đánh giá tài nguyên BSP 12.2012
(*) Lượng giá tài nguyên hải sản
Nghiên cứu đánh giá hiện trạng hiệu quả kinh tế của HST tại VQG Xuân Thủy
do Trung tâm kinh tế môi trường và Phát triển bền vững thuộc Đại học Kinh tế quốc
dân Hà Nội thực hiện trong Chương trình quản lý tổng hợp vùng bờ do Hà lan tài trợ
thực hiện năm 2007 cho kết quả hiện trạng sử dụng đất Cồn Lu - Cồn Ngạn được bao
gồm chủ yếu là hoạt động vây vạng và nuôi tôm quảng canh. Theo đó, các lợi ích -
chi phí có liên quan đến phương án này được đánh giá như sau:
Thu nhập từ nuôi tôm: Theo Quy hoạch phát triển thuỷ sản đến năm 2010, năng
suất nuôi tôm đạt trung bình 280 kg/ha/năm. Diện tích các đầm tôm là 1.956 ha. Với
mức giá bán trung bình là 120.000 đ/kg thì thu nhập từ nuôi tôm một năm là 65.721
triệu đồng [20]
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 59 KHOA MÔI TRƯỜNG
Thu nhập từ nuôi vạng: Diện tích bãi vạng được xác định là 450 ha. Năng suất
nuôi vạng, theo Phòng Thủy sản, đạt trung bình 30 tấn/ ha/ năm. Giá bán 11.000 đ/kg.
Do đó tổng thu nhập từ nuôi vạng là 148,5 tỷ VNĐ. (Giá Vạng hiện tại khoảng >
22.000 đ/kg nên Tổng thu nhập sẽ là 300 tỷ VNĐ) [20]
Bên cạnh thu nhập từ nuôi tôm và vạng (Ngao), người dân trong vùng còn có thu
nhập từ việc nuôi cua và thả rau câu trong các đầm tôm. Năng suất cua là 120
kg/ha/năm, rau câu là 500 kg/ha/năm, theo Quy hoạch phát triển thủy sản huyện Giao
Thuỷ. Theo đó thu nhập hàng năm từ cua được tính toán đạt mức 23.472 triệu đồng,
thu nhập từ rau câu đạt mức 3.912 triệu đồng. [20]
Một bộ phận dân cư khác ở khu vực làm nghề khai thác nguồn lợi thủy sản và
các nguồn lợi tự nhiên của vùng triều cũng thường xuyên có được thu nhập tương đối
khá với mức thu nhập bình quân từ 50.000 - 200.000 đồng/người/ngày (tương đương
với giá trị Tổng thu nhập cho toàn khu vực 50 - 100 triệu đồng/ngày và của cả năm
thu nhập từ công việc này đạt >20 tỷ đồng) [20]
(*) Nghiên cứu giá trị phòng hộ đê biển của rừng ngập mặn
Nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng thuộc Viện
khoa học lâm nghiệp Việt Nam, phục vụ cho việc: “Xây dựng Nghị định chi trả Dịch
vụ môi trường rừng của Chính phủ, 2010” chỉ ra rằng: Hàng năm rừng ngập mặn đã
bảo vệ tốt 10,5 km đê biển ở khu vực VQG Xuân Thủy, do đó giảm các chi phí cho
việc sửa chữa và tu bổ đê biển so với nơi đê biển không có rừng ngập mặn phòng hộ.
Giá trị phòng hộ đê biển bình quân của một ha rừng ngập mặn được tính toán là
852.219 đồng/năm cho 3.100 ha rừng ngập mặn phòng hộ. Đây mới chỉ là đánh giá
giá trị của một phần lợi ích mang lại từ HST rừng ngập mặn ven biển VQG Xuân
Thủy đang cung cấp. Theo ước tính của các chuyên gia xây dựng đê điều, để xây
dựng mỗi km đê biển hiện nay cần ít nhất 20 tỷ đồng. Tuy nhiên, khi gió vượt lên cấp
10 – 12, sóng có thể đánh tan bờ đê. Sự nguy hiểm của bão biển chỉ có thể được ngăn
chặn hệ thống rừng ngập mặn phòng hộ.
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 60 KHOA MÔI TRƯỜNG
3.1.2.3 Đánh giá công tác quản lý việc khai thác DVHST tại VQG Xuân Thủy
a. Bối cảnh thực tiễn và định hướng quản lý dựa trên việc khai thác bền vững
DVHST của VQG Xuân Thủy
VQG Xuân Thủy là VQG thuộc sự quản lý trực tiếp của UBND tỉnh Nam Định
và chịu sự quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Nông nghịêp và PTNT. Nguồn
lực tài chính của Vườn không ổn định và chưa huy động được nguồn lực từ DVMTR.
Tuy rằng, trong những năm qua, VQG Xuân Thủy đã nhận được sự đầu tư to lớn của
Nhà nước để phát triển cơ sở hạ tầng nhưng nguồn tài chính cho bảo tồn đa dạng sinh
học, sử dụng khôn khéo đất ngập nước không ổn định và khá thụ động. Nguồn ngân
sách cấp cho hoạt động bộ máy hàng năm là rất thấp, chủ yếu dựa vào nguồn ngân
sách của Trung ương.
Sức ép về khai thác tài nguyên tự nhiên của cộng đồng dân vùng đệm lên vùng lõi
của VQG Xuân Thuỷ ngày càng gay gắt & phức tạp. Việc nuôi trồng thủy tác động
tiêu cực đến môi trường và các HST: ô nhiễm môi trường nguồn nước, hay nghiêm
trọng như việc phá rừng ngập mặn làm đầm nuôi tôm, vây ngao vạng; cùng với đó là
việc khai thác thủy hải sản không bền vững, chăn thả gia súc trong khu vực vùng lõi
VQG; khai thác thiếu khoa học nguồn tài nguyên dược liệu,. Hoạt động khai thác
tài nguyên thiên nhiên quá mức của cộng đồng địa phương trong khi năng lực pháp
lý của Ban quản lý VQG hiện tại còn rất nhiều hạn chế sẽ tạo nguy cơ làm mất cân
bằng sinh thái, dẫn tới nguy cơ không bảo đảm thực hiện được mục tiêu bảo tồn thiên
nhiên và sử dụng khôn khéo tài nguyên đất ngập nước ở khu vực VQG Xuân Thủy.
Trước tình hình đó, những tính toán dựa trên việc khai thác bền vững DVHST của
Vườn đã được xây dựng.
b. Tình hình khai thác dịch vụ hệ sinh thái tại VQG Xuân Thủy
(*) Dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn
nước từ rừng cho nuôi trồng thủy sản
(1) Hoạt động khai thác thủy hải sản tại VQG Xuân Thủy
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 61 KHOA MÔI TRƯỜNG
Hoạt động khai thác thủy sản của người dân các xã vùng đệm VQG Xuân Thủy
chủ yếu là diễn ra ở vùng đệm hoặc khai thác tự phát ở vùng lõi với những công cụ
khai thác tự tạo nhưng lại có sức phá hủy lớn cho sinh thái của vùng. Một người tiến
hành các hoạt động khai thác thủy sản thủ công có mức thu nhập bình quân 20 - 30
triệu đồng/năm. Nhưng đây không được chọn là nghề chính, bởi lẽ đây là hoạt động
không thường xuyên và theo mùa vụ, thời gian hoạt động hoàn toàn phụ thuộc vào
thủy triều.
Hầu hết người dân nhận thấy đây là vùng ven biển chịu ảnh hưởng của nhiều
hiện tượng thời tiết bất thường. Khó khăn mà đa số người dân gặp phải là trung bình
một năm khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp 4-6 cơn bão, người dân không thể ra khơi,
các công cụ khai thác bị phá hủy.
Để phân tích hoạt động khai thác thủy sản của các hộ dân tại các xã, tác giả
tập trung vào câu hỏi 2 phần III trong bảng hỏi để tìm hiểu các thông tin có liên quan.
Bảng 3.9: Loại hình khai thác thủy sản của người dân vùng đệm VQG Xuân Thủy
Hoạt động Số lượng chọn Tỷ lệ (%)
Khai thác thủy sản thủ công tự do ngoài bãi 21 75
Đăng đáy 7 25
Đánh cá biển 0 0
(Nguồn: Điều tra thực tế)
Qua điều tra phỏng vấn, 28% các hộ được phỏng vấn có hoạt động khai thác
thủy sản thủ công trong vùng lõi VQG Xuân Thủy, trong đó 25% số thành viên đánh
bắt bằng đăng đáy, còn lại 75% số hộ tiến hành các hoạt động khai thác bằng nhóm
công cụ thủ công bằng tay như cào, cuốc, thuổng, đèn pin, lưới đánh cá mắt nhỏ.
Còn việc đánh cá ngoài biển thì không có hộ dân nào trong nhóm phỏng vấn tham gia.
Lý do đưa ra về việc không tham gia khai thác đánh cá ngoài biển vì thiếu kinh phí
đóng thuyền, kinh nghiệm còn hạn chế...
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 62 KHOA MÔI TRƯỜNG
Bảng 3.10: Địa điểm khai thác thủy sản của người dân vùng đệm VQG Xuân Thủy
Hoạt động Số lượng người chọn Tỷ lệ (%)
Ao kênh và rừng nuôi trồng 0 0
Bãi trong Cồn Ngạn 2 7,15
Rừng ngập mặn Cồn Ngạn (rừng trồng) 3 10,71
Bãi bồi Cồn Ngạn 3 10,71
Rừng ngập mặn tự nhiên (Cồn Lu) 7 25
Bãi bồi Cồn Lu 4 14,29
Rừng phi lao 0 0
Sông rạch trong rừng ngập mặn 8 28,57
Biển 0 0
Cồn xanh và các cồn cát 1 3,57
Tổng 28 100
(Nguồn: Điều tra thực tế)
Địa điểm mà người dân đánh bắt rất đa dạng nhưng tập trung vào khu vực sông
rạch trong rừng ngập mặn và rừng ngập mặn Cồn Lu. Địa điểm này cách xa dân cư
trung bình khoảng 10 km.
Người dân tham gia khai thác thủy sản vào tất cả các tháng trong năm; một số ít
hoạt động quanh năm còn phần lớn đi khai thác vào những lúc nông nhàn. Thời gian
cao điểm cho khai thác thủ công là vào các tháng 3, 4 và từ tháng 9 đến tháng 11; vào
các tháng mùa lạnh người dân khai thác ít hơn. Bình quân một tháng các hộ khai thác
gần 15 ngày, cá biệt có hộ khai thác toàn thời gian (30 ngày/tháng).
Thời điểm đánh bắt trong ngày cho người khai thác thủy sản thủ công phụ thuộc
rất nhiều vào lịch con nước. Do đó, lịch làm việc của người dân cũng rất dao động,
khác nhau từng ngày. Nhìn chung, hoạt động đánh bắt diễn ra vào tất cả các thời điểm
trong ngày, và nhiều nhất vào buổi chiều (khoảng thời gian từ 14 giờ - 18 giờ); một số
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CAO HOÀNG THANH MAI 63 KHOA MÔI TRƯỜNG
hộ đánh bắt vào ban đêm (từ 19 giờ tối hôm trước tới 5 giờ sáng hôm sau). Với thời
gian khai thác như trên sẽ tác động không tốt đến mùa sinh sản cũng như làm cạn kiệt
dần nguồn lợi thủy sản tự nhiên.
Bảng 3.11: Loại thủy sản đánh bắt của người dân các xã điều tra
Hoạt động Số lượng phiếu Tỷ lệ (%)
Tôm thả 0 0
Tôm tự nhiên 4 14,29
Ngao giống 0 0
Ngao thịt 3 10,71
Nhuyễn thể khác (gion, giắt, hà) 8 28,57
Cá 6 21,43
Cua biển 2 7,14
Rau câu 0 0
Thủy sinh khác 5 17,86
Tổng 28 100%
(Nguồn: Điều tra thực tế)
Các loại thủy sản được người dân đánh bắt rất đa dạng, các loại thủy sản chính
mà người khai thác thủ công đánh bắt được là các loài nhuyễn thể (ngao, gion, giắt,
hà) chiếm tỷ lệ trung bình đến 40 % số lượng loài thủy sản đánh bắt được. Ngoài
ra các loại cá cũng là một trong những nhóm thủy sản được khai thác nhiều trong khu
vực Xuân Thủy.
Cũng theo người dân thì hầu hết các loại thủy sản mà họ thường xuyên khai thác
sản lượng đều giảm so với 5 năm trước đây. Theo đánh giá của những người thường
xuyên khai thác thủy sản, so với 5 năm trước sản lượng khai thác tự nhiên đã giảm đi
từ 50% đến 80%. Điều này chứng tỏ số lượng thủy sinh đang giảm mạnh và nguyên
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
C
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luanvanthacsi_chuaphanloai_146_9797_1870014.pdf