MỞ ĐẦU . 6
CHƯƠNG 1: Một số vấn đề về lịch sử nghiên cứu bản đồ cổ Việt Nam . 10
1.1 Lý thuyết bản đồ . 11
1.2 Nghiên cứu lịch sử bản đồ học Việt Nam. 14
1.3 Thư mục học về bản đồ cổ Việt Nam . 15
1.4 Khảo cứu văn bản bản đồ. 17
1.4.1 Bản đồ Thăng Long. 17
1.4.2 Bản đồ Hoàng Sa. 18
1.4.3 Các bản đồ khác . 22
1.5 Công trình phiên dịch và giới thiệu . 27
Tiểu kết chương 1 . 29
CHƯƠNG 2: Các vấn đề văn bản học Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ. 31
2.1 Đôi nét về văn bản Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ. 31
2.2 Tên gọi văn bản. 33
2.3 Tác giả bản đồ . 34
2.4 Niên đại văn bản . 35
Tiểu kết chương 2 . 46
CHƯƠNG 3: Diên cách địa danh qua đối chiếu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ với
một số bản đồ khác. 48
3.1 Địa lý học lịch sử và địa danh học lịch sử . 48
3.1.1 Địa lý học lịch sử . 48
3.1.2 Địa danh học lịch sử. 49
3.2 Nghiên cứu địa danh học lịch sử qua so sánh bản đồ . 50
a. Phần Thượng văn . 58
b. Phần Hạ đồ . 63
Tiểu kết chương 3 . 70
KẾT LUẬN. 72
Danh mục tài liệu trích dẫn. 75
Phụ Lục . 85
Pục lục 1: Bảng quy đổi địa danh lộ trình đường bộ . 86
Phụ lục 2: Bảng quy đổi địa danh nhật trình đường thủy . 89
Phụ lục 3: Bảng thống kê mật độ phân bố địa danh. 90
Phụ lục 4: Bảng thống kê nội dung phân bố địa danh . 98
Phụ lục 5: Bản dịch Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ . 105
153 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo cứu Hoàng Lê cảnh hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học và diên cách địa danh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản bi ký, gia
phả, thần phả, địa bạ, công văn hành chính cũng xuất hiện tương đối nhiều. Như vậy,
địa danh học quan hệ tới nhiều lĩnh vực khác, cho nên việc thu thập tư liệu giữ vai
trò tối quan trọng khi nghiên cứu. Khi tập trung được tư liệu phong phú, đầy đủ, coi
như ta đã hoàn thành một phần công trình [30, tr. 30]. Nhiệm vụ nghiên cứu địa
danh học lịch sử là “bóc lớp lịch sử”, xác định niên đại cho các địa danh, xác định
độ dài thời gian sử dụng của địa danh, hay sự thay đổi tên gọi địa danh qua các thời
kỳ lịch sử. Có thể dẫn chứng ở một số công trình nghiên cứu về thao tác này, như
việc bóc tách các lớp địa danh để chứng minh niên đại: “Tìm hiểu về niên đại
TTTNTCLĐT” của Phạm Hân [23], nghiên cứu về niên đại HĐBĐ ký hiệu A.2499
của Hàn Chiêu Kính và Quách Thanh Ba [95] hay “Giám định niên đại
HLCHBĐ”của Lê Văn Ất [9]; thao tác chuyển đổi địa danh các ngôn ngữ Khmer,
36 Xem thêm: [13, tr. 3 - 4].
Thái, Pháp thành địa danh Việt, như phần chú thích Xiêm La quốc lộ trình tập lục
trong bản dịch của Phạm Hoàng Quân [55] Các hiện tượng trùng danh ngẫu nhiên
và trùng danh mô phỏng (trong quá trình di dân, sao phỏng mô hình chính trị, di
thực văn hóa), hay quy đổi các địa danh quá khứ tương ứng với địa danh và vị trí
hiện tại, như: quy đổi địa danh (phần chú thích) của Hà Văn Tấn cho sách Dư địa
chí của Nguyễn Trãi [76, tr. 59 - 177]. Quá trình tái tạo truyền thống lịch sử qua các
trường hợp tương đồng địa danh cũng như tái tạo địa danh học lịch sử, các công
trình về phương pháp này như: Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh
[2], “Về quê hương Ngô Quyền” của Trần Quốc Vượng [85, tr. 60 - 62] hay
“Đường Lâm là Đường Lâm nào (Tìm về quê hương Đại sư Khuông Việt Ngô Chân
Lưu)” của Trần Ngọc Vương, Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương [86, tr. 115 –
137]... Những thành tựu nghiên cứu về địa danh học lịch sử nói trên, có thể tạo nên
những bước tiến mới đối với nhận thức đa chiều/ khác biệt về lịch sử. Có thể nói,
địa danh học lịch sử nghiên cứu tất cả các hiện tượng địa danh đã từng tồn tại trong
lịch sử (mà có thể hiện nay không còn mấy ai biết đến) với những nguyên lý và thao
tác phổ quát của địa danh học. Địa danh học lịch sử là một cách đi cùng chiều với
địa lý học lịch sử. Nếu nói địa danh học (toponymie) là từ hiện tại để soi chiếu về
quá khứ thì địa danh học lịch sử từ quá khứ để soi chiếu lại hiện tại. Hay nói một
cách dễ hiểu, địa danh học lịch sử là hoa tiêu, là chỉ dấu của các nghiên cứu sử học
và địa lý học lịch sử [13, tr. 8].
3.2 Nghiên cứu địa danh học lịch sử qua so sánh bản đồ
3.2.1 Địa danh học Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ
Theo thống kê sơ bộ, văn bản HLCHBĐ sử dựng 708 địa danh để mô tả trên bản
đồ, các địa danh này bao gồm: thành, dinh, thừa ti, phủ, huyện, núi, đèo, sông, biển,
kênh, ghềnh, miếu, đền, quán, tuần ti Chúng tôi tạm xếp chúng thành các nhóm
địa danh: Hành chính, sơn xuyên, lộ trình, phòng thủ, di tích và các địa danh khác.
Để có thể nêu bật được đặc trưng địa danh học văn bản, chúng tôi xin trình bày hai
ý: (1) Mật độ phân bố địa danh, (2) Nội dung địa danh phân bố.
3.2.1.1 Mật độ phân bố địa danh
Nhìn vào biểu đồ 3.1 (xem thêm Phụ lục 3), chúng ta có thể thấy rằng, mật độ
phân bố địa danh giữa các đơn vị hành chính không đồng đều. Cụ thể, càng đi vào
phía Nam, mật độ địa danh học càng tăng, đặc biệt là vùng Thanh Hóa, Nghệ An và
Thuận Hóa. Khu vực phía Bắc như phủ Phụng Thiên, Sơn Nam hay Thanh Hoa
ngoại trấn không mô tả quá nhiều địa danh. Trong khi đó, theo khảo sát ban đầu, từ
Thăng Long cho tới Ninh Bình có 2 lộ trình được thực hiện là đường bộ và đường
sông. Như vậy, mặc nhiên khu vực này phải mô tả nhiều đơn vị địa danh, tuy nhiên
khu vực mô tả ít địa danh, có lẽ tác giả không coi trọng địa danh học phía Bắc. Đặc
trưng này hoàn toàn khác với các bản đồ khác là phân bố dày đặc ở phía Bắc, giảm
dần về phía Nam: An Nam đại quốc họa đồ [16], An Nam quốc đồ [11], hay Tổng
Quát đồ. Không khó để nhận thấy, khu vực địa danh học tập trung nhiều nhất là
vùng Nghệ An, hầu hết các thông số địa danh học văn bản đều thể hiện khu vực này.
Đáng chú ý là mật độ địa danh khu vực Bố Chính phía bắc và Bố Chính nam, nhìn
theo tiến trình lịch sử, đây là khu vực diễn ra nhiều các cuộc xung đột giữa Đàng
Trong và Đàng Ngoài.
Số liệu:
Hành
chính
Sơn
xuyên
Lộ
trình
Phòng
thủ
Di tích Địa
danh
khác
Tổng
Phụng
Thiên
4 3 1 1 9
Sơn Nam 23 12 33 2 1 71
Thanh Hoa
ngoại trấn
7 8 16 3 34
Thanh Hoa 16 31 47 5 1 1 101
Nghệ An 18 66 97 12 2 4 199
Thuận Hóa 15 17 54 28 3 11 128
Quảng
Nam
21 82 44 6 1 2 156
Biểu đồ 3.1: Mật độ phân bố địa danh
Có lẽ tư duy lịch sử đã tác động ít nhiều tới người vẽ bởi mật độ khu vực phía
Nam bản đồ bị giảm dần sau khu vực hành chính Thuận Hóa. Khu vực này là khu
vực thuộc Đàng Trong, trong khi tác giả thuộc Đàng Ngoài, không có nhiều thông
tin, cùng khảo sát thực tế. Cho nên đã cố gắng pha trộn những thông tin mà mình
thu thập được để mô tả, có thể dẫn ra một số ví dụ, như: tỉ lệ mô tả khu vực cửa
Cam Ranh bị bóp méo, đơn vị địa danh “chợ” phần lớn là mô tả ở khu vực Đàng
Ngoài, hay các “quán” dừng chân ở khu vực từ Bố Chính trở vào, đều không rõ
ràng về tên gọi, càng vào phía Nam thì việc ghi chép này càng được thể hiện rõ ràng
hơn.37 Như vậy, với các thông số về mật độ phân bố địa danh này, đã phản ánh đặc
trưng lịch sử riêng biệt của Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ, cũng như gia tăng tính
chính xác về nhận định tác giả cũng như niên đại mà chúng tôi đã trình bày ở
chương 2.
3.2.1.2 Nội dung địa danh phân bố
Hành chính, sơn xuyên và lộ trình là những nhóm địa danh đóng vai trò chủ đạo
trong văn bản. Cụ thể địa danh hành chính chiếm 16% trong toàn bộ địa danh mô tả,
bao gồm: thành, dinh, thừa ti, phủ, huyện, xã, phố... Trong đó, địa danh được mô tả
nhiều nhất là “huyện”. Những địa danh “huyện” này trải dài theo chiều từ Bắc
xuống Nam theo lộ trình, cho nên số lượng địa danh “huyện” lớn như vậy.
37 Xem thêm mục 3.2.2.2
0
20
40
60
80
100
120
Phụng
Thiên
Sơn
Nam
THNT Thanh
Hoa
Nghệ
An
Thuận
Hóa
Quảng
Nam
Hành chính
Sơn xuyên
lộ trình
Phòng thủ
Di tích
Khác
Nhóm địa danh sơn xuyên chiếm tỉ lệ khoảng 31% trên tổng số địa danh mô tả
trên bản đồ. Trong đó, hệ thống địa danh sông nước chiếm gần 70,3% nhóm hệ
thống sơn xuyên. Như vậy, hệ thống sông ngòi là một trong những đối tượng mô tả
đóng vai trò chính yếu trong văn bản. Đặc trưng này không chỉ tồn tại riêng
HLCHBĐ và tồn tại hầu hết các bản đồ hiện tồn. Có lẽ vị trí địa lý cùng tư duy nông
nghiệp đã tác động ít nhiều tới đặc trưng bản đồ cổ này.38
Số liệu:
STT Nội dung địa danh Số
lượng
%
(~)
1 Hành chính 111 16%
2 Sơn xuyên 220 31%
3 Lộ trình 293 41%
4 Phòng thủ 56 8%
5 Di tích 10 1%
6 Địa danh khác 18 3%
Tổng 708 100%
Biểu đồ 3.2: Tỉ lệ % nội dung địa danh phân bố
Nhóm địa danh lộ trình, là nhóm địa danh chiếm tỉ lệ cao nhất mô tả trên bản đồ,
gồm: Quán, Xá, Cầu, Đò, Bến... Ở nhóm này, chiếm tỉ lệ cao nhất là địa danh
“Quán” gồm 108 địa danh, “xá” 31 địa danh, “đò” 21 (xin xem Phụ lục số 4) đây
38 Việt Nam là một trong những nước có nền xã hội nông nghiệp, mà người dân phần lớn là tập
trung ở thung lũng sông, mặt khác phần lớn lãnh thổ lại giáp biển. Cho nên biển, sông nước, ao hồ,
đầm, biển.. trong lãnh thổ Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Có lẽ sông nước gắn liền với
kinh tế và xã hội Việt Nam, cho nên các bản đồ hiện tồn đều coi trọng thể hiện sông ngòi.
16%
31%
41%
8% 1%
3%
Hành
chính
Sơn
xuyên
Lộ trình
Phòng thủ
Di tích
là những địa danh đóng vai trò quan yếu tới lộ trình đường đi, bởi vậy việc ưu tiên
mô tả những địa danh này là có cơ sở.
Nhóm địa danh có đối tượng mô tả khiêm tốn là nhóm địa danh phòng thủ. Bởi
tính chất những địa danh này không nằm dải rác theo lộ trình đường đi, mà chỉ tập
trung chủ yếu ở khu vực Nghệ An, Thuận Hóa. Vì vậy, tuy chỉ chiếm 6% tổng số
địa danh toàn văn bản, nhưng con số này thực sự không nhỏ. Một điểm đáng chú ý
nữa là các bản đồ hiện tồn, mô tả hệ thống phòng thủ, đặc biệt là các chiến lũy thì
phần lớn chỉ tồn tại ở các bản đồ nhật trình.
Nhóm địa danh còn lại, nhóm này chiếm tỉ lệ khá ít, bao gồm nhóm địa danh di
tích và nhóm địa danh khác. Phần lớn những địa danh này nằm tản mát, không có
khu vực cụ thể.
Như vậy, với các thông số địa danh mô tả ở biểu đồ 3.2 (xin xem phụ lục 4), có
thể khẳng định rằng HLCHBĐ là một bản đồ thuộc nhóm bản đồ “nhật trình”, và có
thể là một bản đồ thế hệ sau của TNTCLĐT. Việc kết luận HLCHBĐ là một bản đồ
thế hệ sau của TNTCLĐT là một kết luận khá thú vị, bởi nó sẽ tồn tại một hiện
tượng “diên cách” (biến đổi và không biến đổi), vậy sự biến đổi và không biến đổi
này như thế nào, cụ thể chúng tôi sẽ trình bày ở các mục sau.
3.2.2 Nghiên cứu trường hợp địa danh học lịch sử qua đối chiếu hệ thống cửa
biển
Như đã trình bày ở trên, ở chương này trình bày về diên cách địa danh học lịch
sử của văn bản HLCHBĐ qua đối chiếu các bản đồ khác. Tuy nhiên, do giới hạn
Luận văn không cho phép nên chúng tôi không thể khảo sát toàn bộ địa danh văn
bản. Vì vậy, chúng tôi chọn nghiên cứu trường hợp để nghiên cứu chương này.
Nghiên cứu về địa danh học văn bản HLCHBĐ về cơ bản có 3 trường hợp nghiên
cứu: địa danh hành chính, địa danh cửa biển và địa danh phòng thủ. Những trường
hợp này đều là những địa danh cụ thể, tư liệu ghi chép phong phú từ địa chí được
nhà nước biên soạn tới các bộ địa chí do cá nhân soạn tác, diên cách thay đổi rõ
ràng. Có điều trường hợp địa danh hành chính chúng tôi đã trình bày ở phần chứng
minh niên đại [9, tr. 19 - 31], ngoài ra một phần về hệ thống phòng thủ cũng được
đề cập tới [9, tr. 25]. Vì vậy, ở phần này chúng tôi chọn nghiên cứu hệ thống địa
danh cửa biển làm nghiên cứu trường hợp về diên cách địa danh học lịch sử
HLCHBĐ so sánh với các bản đồ khác.
3.2.2.1 Hệ thống địa danh cửa biển
Hệ thống cửa biển bản đồ với xuất phát điểm là cửa Lục Bộ 陸步 thuộc huyện
Yên Mô (Ninh Bình), trải dài trên lãnh thổ cho tới cửa biển Bồ Trì 蒲持门 thuộc
phía bắc khu vực Chiêm Thành xưa. Những địa danh này đều được mô tả vào các ô
vuông hoặc hình bầu dục, qua khảo sát cho thấy, hầu hết các địa danh cửa biển này
đều dùng tên Hán, có lẽ để phân biệt với các cửa sông bằng tên Nôm (Cửa sông
Phái [4a.4.H], Cửa Lọc [5a.2.H], Cửa Nênh [5a.6.H], Cửa Kênh Mang [5b.1.H]).
Hơn nữa, tác giả còn nhất quán trong việc sử dụng “môn 門” làm “thuật ngữ” ghi
chép về địa danh cửa biển, như: Cờn môn 乾門, Quèn môn 權門, Thơi môn 台
門...39 Điều này thể hiện sự nhất quán trong cách mô tả địa danh trên bản đồ, mục
đích là tạo thuận lợi cho người giải đọc bản đồ. Cách thể hiện này không thấy xuất
hiện trong TNTCLĐT cũng như QTĐST. Theo thống kê sơ bộ, văn bản đã thể hiện
61 cửa biển, trong đó, bao gồm:
Thứ nhất: có 46 cửa biển được mô tả (xem mục 3.3.2.2). Trong 46 cửa
biển này, một số cửa biển được viết tắt, như: An Niểu môn 安裊门 thành
Niểu môn 裊门40; hay do tự dạng giống nhau mà chép nhầm tên cửa biển:
cửa Tư Khách 思客 chép nhầm thành cửa Tư Dung 思容, Cam Ranh môn
甘冷門 chép nhầm thành Tỉnh Lệnh môn 井令门, và Cam Đường môn
甘堂门 chép nhầm thành Nhật Đường môn 日堂门.
39 Nhìn vào tình hình thực tế bản đồ cổ Việt Nam, mỗi bản đồ đều dùng một “thuật ngữ” khác nhau:
HĐBĐ dùng “môn” và “hải khẩu”, TNTCLĐT dùng cả “môn” và “Hải môn”, QTĐST dùng “môn”,
Tổng Quát đồ dùng “khẩu”... để mô tả cửa biển. Về sau các nhà khoa học hiện đại thống nhất dùng
thuật ngữ (estuary/ river mouth) để chỉ cửa biển [55, tr. 60].
40 An Niểu, tên Nôm là An Náu, sau đổi là Lý Nhơn, nay thuộc xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình [81, tr. 36].
Thứ hai: có 9 cửa biển được chú thích ở phần thượng văn (Nhật Lệ môn
日麗门 [24b.7.T], Eo Gió 腰𩙌 [27b.4.T]41, Tư Dung 思容 [28b.1.T], Sa
Kỳ 沙淇[31b.1.T], Nước Mặn 渃敏 [34a.1.T], Tắc Cú 塞句[36b.1.T],
Biển Sứ 𣷷使 [37a.1.T], Trường An 長安 [37b.1.T], Bồ Trì 蒲持
[39a.7.T]). Nhìn vào hệ thống chú giải cho các cửa biển này, có thể thấy
rằng, các địa danh cửa biển này đều từ Nhật Lệ đổ vào, từ cửa Lục Bộ
vào cửa Nhật Lệ không có chú giải về cửa biển. Có lẽ điều này phản ánh
ít nhiều tới mục đích vẽ bản đồ của tác giả.
Thứ ba: có 6 cửa biển được vẽ nhưng không đề tên nằm ở các trang 11a,
21b, 26b, 27a, 29b, 33b. Qua việc đối chiếu TNTCLĐT và các bản đồ
khác có thể xác định các địa danh cửa biển vẽ và không đề tên này
là:Ngọc Giáp môn 玉夾門42, Hải khẩu 海口43, Minh Linh 明靈44, cửa
Việt 越門45, cửa Ải46, Nước Ngọt 渃𠮾.47 Không rõ nguyên nhân gì dẫn
tới việc thiếu sót này, nhưng nhìn vào tình hình thực tế thì điểm thiếu sót
này tồn tại hầu hết các bản đồ hiện còn, có thể do quán tính người chép
mà bỏ sót, hay do thiếu thốn nguồn tư liệu mà để sót, hoặc cũng có thể
những cửa biển có vẽ mà không đề tên là dạng cửa biển tồn nghi, tác giả
không chắc chắn tên cửa với bản chép ra nên không đề tên Việc này,
chúng tôi tạm ghi ra đây, sẽ kiểm chứng trong một công trình khác.
41 Cửa Eo Gió này còn có tên khác là cửa Noãn. Đến thời Gia Long thứ 13, đổi tên là cửa Thuận An,
nay là cửa Thuận An (36, tr. 141).
42 Ở đồ bản, cửa 11a, nhìn vào hình họa có thể thấy xác định vị trí của cửa, phía bắc giáp với huyện
Quảng Xương, phía Nam giáp với huyện Ngọc Sơn, nếu dựa vào vị trí như vậy thì trong TNTCLĐT,
ANQĐ, ANĐQHĐ đều không thể hiện cửa biển này. Ở một bản đồ khác, tại vị trí này HĐBĐ ký
hiệu A.2499 mô tả cửa biển này là Ngọc Giáp môn 玉夾門, không rõ cửa Ngọc Giáp môn có phải
là cửa tác giả mô tả?.
43 Trong bản đồ, cửa 25b nằm phía Bắc núi Cao Vọng thì khả năng cao đó là cửa Hải khẩu 海口.
44 Cửa 26b trên bản đồ thể hiện phía Bắc huyện Minh Linh, có lẽ thể hiện địa danh cửa biển Minh
Linh 明靈 – tức là cửa Tùng
45 Cửa 27a được vẽ giữa huyện Minh Linh và Hải Lăng dẫn tới khả năng cao xác định cửa này là
cửa Việt 越門
46 Cửa 29b nằm gần khu vực Ải Hải Vân, vậy có thể đây là cửa Ải
47 Cửa 33b nằm cạnh cửa Nước Mặn và gần sông Phú Giang, có thể đây là cửa Nước Ngọt 渃𠮾
Như vậy, HLCHBĐ không còn là một bản đồ nhật trình đơn thuần, vì phần lớn
tập trung vào đường bộ, khác hoàn toàn với bản đồ nhật trình thế hệ trước đó
TNTCLĐT là 3 đường (thủy, bộ, sông). Ngoài ra, cách chú giải cửa biển đã phản
ánh hệ thống cửa biển Đàng Trong được lưu ý nhiều (trong tổng 46 cửa, khu vực từ
cửa Nhật Lệ trở vào là 26 cửa biển, chiếm quá nửa tổng số cửa biển toàn bản đồ,
hơn nữa các cước chú về cửa biển chỉ bắt đầu từ Nhật Lệ trở vào) điều này phản ánh
mục đích vẽ có lẽ là phục vụ việc Nam chinh.48 Bên cạnh đó, cách thể hiện địa danh
cửa biển văn bản cũng còn nhiều điểm bất cập, nhưng điều này không chỉ tồn tại
riêng HLCHBĐ mà đây là tình trạng chung của các bản đồ vẽ ra. Một điều phải thừa
nhận là các văn bản sao chép thường dễ bị sai sót, trong khi đây là bản đồ, công
việc sao chép khó hơn sao chép sách vở đơn thuần, hơn nữa bản đồ là một bộ môn
thuộc phạm trù nghệ thuật, đòi hỏi nhiều kỹ năng của người sao chép, nên việc
nhầm lẫn, thiếu sót là điều dễ hiểu.
3.2.2.2. So sánh địa danh hệ thống cửa biển với Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư
Ở mục 3.2.2.1 chúng tôi đã trình bày sơ lược về đặc trưng hệ thống cửa biển
trong văn bản HLCHBĐ. Trong phần này, chúng tôi sẽ tiến thêm một bước nữa là
so sánh hệ thống địa danh cửa biển HLCHBĐ với các bản đồ khác để tìm ra điểm
đồng dị. Về cơ bản, HLCHBĐ có thể so sánh với hầu hết các bản đồ hiện tồn về hệ
thống địa danh cửa biển. Tuy nhiên, HLCHBĐ với tính chất là một bản đồ nhật trình,
lại kết hợp phương thức “thượng văn – hạ đồ” tạo thành một bản đồ liên hoàn, cho
nên đối tượng so sánh cần thỏa mãn hai điều kiện: (1) mô tả hệ thống cửa biển theo
chiều dài đất nước, (2) có “chú giải” về những địa danh cửa biển được mô tả. Xét
các bản đồ hiện tồn, một trong những bản đồ mà chúng tôi nhận thấy đảm bảo điều
kiện chính là TNTCLĐT, đây vừa là một bản đồ thế hệ trước cửa HLCHBĐ, có thể
48 Việc Nam chinh về cơ bản có thể có 2 đường, một là đường thủy, hai là đường bộ. Tuy nhiên,
nếu đánh đường thủy quân chúa Trịnh chỉ có thể đổ bộ vào các cửa Việt và cửa Eo, hay cửa Thuận
An, nhưng các cửa này khá chật hẹp, chiến thuyền lớn khó có thể vào. Một cách khác là đổ bộ vào
cửa sông Nhật Lệ, sau đó xâm nhập đất Quảng Bình. Về sau chúa Hy Tông nhận thấy điểm hiểm
yếu khu vực Nhật Lệ này mà tin dùng Đào Duy Từ để xây đắp lũy Nhật Lệ (lũy Thầy), việc xây
đắp lũy có ý nghĩa cắt đứt mọi cơ hội tấn công bằng đường thủy, mà chỉ tấn công bằng đường bộ là
chủ yếu. Xem thêm [31, tr. 248 – 249].
so sánh mọi phương diện từ nội dung tới hình thức. Vì vậy, chúng tôi chọn
TNTCLĐT ký hiệu 98846 lưu giữ tại Đại học Hiroshima (Nhật Bản) làm nền để so
sánh đối chiếu, ngoài ra các bản đồ: GNNBNĐ, QTĐST, ANQĐ và ANĐQHĐ
cũng được chúng tôi đề cập. Như đã nói điều kiện so sánh giữa HLCHBĐ phải thỏa
mãn 2 điều kiện, vì vậy, ở đây chúng tôi cũng sẽ tiến hành so sánh diên cách địa
danh cửa biển thành 2 mục là: Thượng văn và hạ đồ.
a. Phần Thượng văn
Phần chú thích về địa cửa biển trong văn bản HLCHBĐ gồm 9 cửa biển, bắt đầu
từ cửa biển Nhật Lệ và kết thúc là cửa Bồ Trì. Trong khi, TNTCLĐT chú giải 16 cửa
biển, trải dài theo toàn bộ lộ trình với điểm xuất phát là cửa Thần phù, và điểm mút
là địa danh cửa biển Xuân Đài. Để tiện theo dõi, chúng tôi tiến hành lập bảng so
sánh như sau:
Stt TNTCLĐT HLCHBĐ Khu vực
1 Thần phù (4b.5.T) Thanh Hoa
2 Quèn môn (5b.10.T) Nghệ An
3 Hiền môn (5b.10.T)
4 Bích môn (6a.1.T)
5 Xá môn (7a.1.T)
6 Thiêm Thống (7a.5.T)
7 Nhượng Bạn (8b.1.T)
8 Nhật Lệ (24b.7.T) Thuận Hóa
9 Eo gió (10a.1.T) Eo Gió (27b. 4.T)
10 Tư Khách (11b.1.T) Tư Khách (28b.1.T)
11 Đại Chiêm Quảng Nam
12 Sa Vinh (12b.5.T)
13 Sa Kỳ (13a.1.T) Sa Kỳ (31b.1.T)
14 Mỹ Á (13a.5.T)
15 Nước Mặn (34a.1.T)
16 Tắc Cú (15a.1.T) Tắc Cú (36b.1.T)
17 Biển Sứ (15a.6.T) Biển Sứ (37a. 1.T)
18 Trường An xã Hải môn
(37b.1.T)
19 Nha Trang (15a.13.T)
20 Xuân Đài (16a.11.T)
21 Bồ Trì (39a.7.T)
Từ bảng thống kê trên, có thể thấy, số lượng chú giải địa danh cửa biển ở hai bản
đồ này có khác nhau. TNTCLĐT chú thích tới 16 cửa biển, các cửa biển này trải dài
theo lộ trình đường đi, mang các nội dung bao gồm: thời gian di chuyển giữa các
khu vực, lộ trình các cung đường (bộ, sông, thủy), đặc trưng khu vực đây là một
bản đồ nhật trình thuần túy. Trong khi đó HLCHBĐ chỉ chú giải 9 địa danh cửa biển,
hơn nữa những chú giải này mang tính chất “khu vực” (tập trung từ địa danh cửa
Nhật Lệ trở vào). Mặt khác các chú thích về lộ trình, đặc trưng khu vực không còn
đóng vai trò chủ đạo trong văn bản. Phản ánh mục đích bản đồ vẽ ra, không còn là
một bản đồ nhật trình thuần túy.
Theo bảng thống kê trên, có 5 chú giải cửa biển trùng khớp nhau “Eo Gió”, “Tư
Khách”, “Sa Kỳ”, “Tắc Cú”, “Biển Sứ” giữa hai văn bản, chúng tôi tiến hành lập
bảng so sánh diên cách chú giải địa danh cửa biển giữa hai bản đồ này.
stt Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Dịch nghĩa
Vị
trí
Đồ
bản
1
E
o
G
ió
腰𩙌门两边江
各有船十隻
Eo Gió môn
lưỡng biên giang
các hữu thuyền
thuyền thập
chích
Hai bên sông ở cửa
Eo đều có 10 chiếc
thuyền
(1
0
a.1
.T
)
T
N
T
C
L
Đ
T
腰𩙌门两边江
口各有船廠。
每边船十隻
Eo Gió môn
lưỡng biên giang
khẩu, các hữu
thuyền xưởng,
mỗi biên thuyền
hưu chích
Hai bên cửa Eo Gió
đều có trại thuyền.
Mỗi bên 10 chiếc
thuyền.
(2
7
b
. 4
.T
)
H
L
C
H
B
Đ
2
T
ư
K
h
á
ch
思客門上聚水
颇濶,長濶约
一百里,築一
土堆,江之下
左边山,夜設
火 烛 , 每 舟
行 , 日 望 土
山,夜則看烛
Tư Khách môn
thượng tụ thủy
phả khoát,
trường khoát
bách lý, trúc
nhất thổ đôi,
giang chi hạ tả
biên sơn, dạ thiết
hỏa chúc, mỗi
chu hành, nhật
vọng thổ sơn, dạ
tác khán chúc
Phía trên cửa Tư
Khách nước tụ lại
khá rộng, dài rộng
ước chừng 100. 49
Bên cửa có đắp một
gò đất. núi ở bên
trái cửa sông, ban
đêm thắp đuốc, mỗi
lần đi thuyền, ban
ngày thì trông theo
gò đất, ban đêm thì
nhìn theo cây đuốc
(1
1
b
.1
.T
)
T
N
T
C
L
Đ
T
思容门李朝号
烏龍门陳仁宗
以玄珍公主嫁
占城国王 [..]
日文至此。因
改為思容门。
莫氏以容同声
諱改為思客门
Tư Dung môn,
Lý Triều hiệu Ô
Long môn, Trần
Nhân Tông dĩ
Huyền Trân
công chúa giá
Chiêm Thành
quốc vương nhật
văn chí thử,
nhân cải Tư
Dung môn. Mạc
thị dĩ Dung đồng
thanh húy cải
làm Tư Khách
môn
Cửa Tư Dung, triều
Lý gọi là cửa Ô
Long. Vua Trần
Nhân Tông đem con
gái gả cho quốc
vương [Chế Mân]
nước Chiêm thành,
nhân [đưa dâu] đến
đây mà đặt đổi tên
là cửa Tư Dung.
[Về sau] nhà Mạc vì
chữ Dung đồng âm
với tên vua, nên đổi
làm cửa Tư Khách
(2
8
b
.1
.T
)
H
L
C
H
B
Đ
49 Dặm (Thanh/ Trung Quốc) ~ 576 m [tương đương 1/3 mile (dặm Anh: 1.609m)] [55, tr.31]
3
C
ử
a
S
a
K
ỳ
沙淇门外有一
山,山上多産
油木名油場。
有巡
Sa Kỳ hải môn
ngoại hữu nhất
sơn, sơn thượng
đa sản mộc,
danh Du
Trường, hữu
tuần
Ngoài cửa biển Sa
Kỳ có một hòn núi,
trên núi mọc nhiều
cây dầu, nên gọi Du
Trường, có tuần ti
(1
3
a.2
.T
)
T
N
T
C
L
Đ
T
沙淇门,门外
海中有二山,
山上有油木名
油場。
Sa kỳ môn, môn
ngoại hải trung
hữu nhị sơn, sơn
thượng hữu du
mộc danh viết
Du Trường
Ngoài cửa biển Sa
Kỳ có hai hành núi,
trên núi mọc nhiều
cây dầu, nên gọi Du
Trường
(3
1
b
.1
.T
)
H
L
C
H
B
Đ
4
C
ử
a
T
ắ
c C
ú
塞句門,海外
有山名乳娘,
山有海好物名
乳娘,磨之如
釧状,其美如
玉婦人穿手以
為容飭。有廵
Tắc Cú môn hải
ngoại hữu sơn,
danh Nhũ
Nương, hữu hải
hảo vật danh
Nhũ Nương, ma
chi như xuyến
trạng, kỳ mỹ như
ngọc, phụ nữ
xuyên thủ, dĩ vi
dung sức, hữu
tuần.
Ở ngoài cửa biển
Tắc Cú, có núi gọi
là núi Nhũ Nương,
có một sản vật biển
rất tốt, gọi là Nhũ
Nương, [vỏ] mài
như hình chiếc
xuyến, đẹp như
ngọc, phụ nữ đeo ở
tay làm vật trang
sức. Trên núi có
tuần ty
(1
5
a.1
.T
)
T
N
T
C
L
Đ
T
塞句门,海外
有一山名乳娘
山, 有海好物名
乳娘,磨之如
釵釧状元,美
如玉妇人穿手
以飭。有廵
Tắc Cú môn, hải
ngoại hữu nhất
sơn danh Nhũ
Nương sơn, hữu
hải hảo vật danh
Nhũ Nương chi
như thỏa xuyến
trạng nguyên mỹ
như ngọc phụ
nhân xuyên thủ
dĩ sức hữu tuần.
Ở ngoài cửa biển
Tắc Cú, có núi gọi
là núi Nhũ Nương,
có một sản vật biển
rất tốt, gọi là Nhũ
Nương, [vỏ] mài
như nguyên hình
chiếc xuyến chiếc
châm, đẹp như
ngọc, phụ nữ đeo ở
tay làm vật trang
sức. Trên núi có
tuần ty
(3
6
.b
.1
.T
)
H
L
C
H
B
Đ
5
B
ến
S
ứ
m
ô
n
𣷷使门有一枝
山,山中多産物
龍藤花好勁。
有巡。其地左
边有巡屯守,
右边有粟庫
Bến Sứ môn hữu
nhất chi sơn, sơn
trung đa sản
Long Đằng hoa
hảo kính, hữu
tuần. Kỳ địa tả
biên hữu tuần,
đồn thủ, hữu
biên hữu túc khố
Cửa Bến Sứ có một
nhánh núi, trong núi
có sản Long Đằng
rất tốt, có đặt tuần
ty. Bên trái nơi này
cũng có tuần ty, đồn
quân, bên phải thì
có kho thóc
(1
5
a.6
.T
)
T
N
T
C
L
Đ
T
𣷷使门上有一
枝山山中産物
龍藤華好勁。
有巡
Bến Sứ môn,
thượng hữu chi
sơn sơn trung
sản vật Long
Đằng hoa hảo
kính, hữu tuần
Cửa Bến Sứ có một
nhánh núi, trong núi
sản vật Long Đằng
rất tốt, có đặt tuần
ty
(3
7
a. 1
.T
)
H
L
C
H
B
Đ
Nhìn từ bảng so sánh trên, có thể chia làm hai cặp thông tin, một là những cặp
thông tin “Diên”: Cửa Gió, Tắc Cú và Biển Sứ; hai là cặp có sự “cách” thông tin:
Sa Kỳ, Tư Dung. Những cặp “diên” có thể cho phép đi đến nhận định cách chú giải
của hai văn bản này có lẽ cùng một nguồn, cặp “cách” cho phép nhận định đã có sự
bổ chính văn bản.
Đầu tiên là những cặp thông tin “diên”: Eo Gió – Eo Gió, Tắc Cú – Tắc Cú,
Biển Sứ – Biển Sứ. Phần lớn nội dung chú thích địa danh cửa biển giữa hai văn bản
khá giống với nhau, cũng có sự thay đổi về mặt hành văn, nhưng không ảnh hướng
nhiều tới nội dung văn bản. Thậm chí những chú thích HLCHBĐ có tính chất rõ
ràng hơn TNTCLĐT, đơn cử chú thích thêm Xưởng thuyền bên cửa Eo Gió. Điều
này nói lên một điều sự trùng khớp về mặt nội dung, sự trùng khớp này có lẽ do
được tham khảo từ. Tuy nhiên HLCHBĐ đôi lúc có chỉnh sửa, nhưng không ảnh
hưởng nhiều tới nội dung, thậm chí cung cấp thêm thông tin so với bản được tham
khảo.
Nhóm thứ hai là nhóm “cách” thông tin, gồm: cửa Sa Kỳ và Tư Khách. Nội
dung cước chú về địa danh cửa Sa Kỳ giữa hai văn bản về cơ bản là giống nhau, chỉ
khác nhau số lượng nhánh núi phía ngoài cửa Sa Kỳ. Theo như thông tin mô tả, khả
năng nhánh núi mà cả hai văn bản nhắc đến là Cù Lao Ré, tức là đảo Lý Sơn ngày
nay. Chúng tôi có tham khảo hình họa và chú giải ngọn núi nằm phía ngoài cửa biển
Sa Kỳ trong QTĐST thì cả hình họa và chú thích đều tương khớp với ngọn núi được
mô tả: “Ngoài cửa này có núi Cù Lao Ré trên đảo có dân cư, gọi là xã Yên Lãng,
sản xuất nhiều dầu phượng” [74, tr. 23]. Cùng nhận định này, Trần Viết Ngạc cũng
cho rằng ngọn núi nằm bên ngoài cửa biển Sa Kỳ là Cù Lao Ré [81, tr. 41]. Từ hai
nguồn thông tin trên, xác định được ngọn núi nằm phía ngoài cửa biển Sa Kỳ này
chỉ có một nhánh núi và nhánh núi đó mang danh xưng là Cù Lao Ré, thì giả thiết
được đặt ra
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_khao_cuu_hoang_le_canh_hung_ban_do_tu_goc_nhin_van.pdf