Dạ Ngân qua truyện ngắn Nhà không có đàn ông đã thể hiện một cách sinh động nỗi buồn tủi, đắng cay của thân phận người phụ nữ sau chiến tranh. Năm người phụ nữ cùng chung sống trong một mái nhà. Từ cụ nội chín mươi tuổi giàu phẩm hạnh và thể diện, cai quản truyền thống cao quý của cả gia đình đến bà cô xấp xỉ lục tuần “son sẻ, sắc nét” luôn đề ra những tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong việc lựa chọn hôn nhân; để rồi tủi hờn khi nhìn thấy niềm hạnh phúc của người khác. Bà má và Hai Thảo lại âm thầm chịu đựng cảnh ở góa để kế thừa để truyền thống phẩm hạnh thủ tiết - của hồi môn quí báu của cả gia đình. Niềm khát khao hạnh phúc, tình yêu cá nhân là lẽ tự nhiên của con người. Đó là những tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim, đâu thể kìm nén, chế ngự. Nhân vật Út Thơm - người phụ nữ duy nhất trong gia đình muốn phá vỡ hủ tục truyền thống ấy. Chị luôn bị giằng co đấu tranh giữa trái tim và lý trí. Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không thể giải thích được. Có lúc trái tim đầy khao khát của chị giành phần thắng và tiếp sức mạnh cho chị đấu tranh để nắm bắt niềm hạnh phúc cá nhân, nhưng cũng có lúc trái tim chị khô cằn, đắng cay.
212 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2913 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cái Bát không chừng. Ông đậu ghe, dựng lều, lùa vịt lên những cánh đồng vừa mới gặt xong, ngó chừng chừng qua những cánh đồng lúa mới vừa chín tới và suy nghĩ về một vạt đồng khác lúa vừa no đòng đòng.Đời của ông là một cuộc đời lang bạt. Một cuộc sống trên đồng khơi. Chòi cắm ở đâu cũng được, miễn có chỗ khô ráo cho ông nằm’’[171, tr.16].
Chợ nổi cũng một nét đẹp trong đời sống văn hoá của vùng ĐBSCL. Trong lời đề từ cho truyện ngắn Nhớ sông, Nguyễn Ngọc Tư đã tái hiện cảnh sinh hoạt của chợ nổi: ‘‘Tôi thường đứng trên cầu Gành Hào, nhìn về chợ nổi, ...Mỗi chiếc ghe là một ngôi nhà nhỏ, ngang hai mét, dài năm bảy mét. ...Những chiều tà chợ nổi đìu hiu bập bềnh. Những người đàn bà cúi đầu chăm chăm xới nồi cơm doà dạt khói, những người đàn ông xếp bằng trên mui ghe vấn những điếu thuốc to đùng bằng ngón chân cái, phì phà khói lên trời. Những đứa trẻ con ngồi tênh hênh trên mui ghe câu cá chốt, cá mè. Những cô gái sau một ngày bán hàng mệt mỏi soi mình xuống sông, chải tóc’’[171, tr.112].
Đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới, tốc độ cuộc sống công nghiệp đang hút mọi người vào guồng quay của nó. Nhưng về miền Tây chúng ta vẫn bắt gặp người dân ung dung trên những chiếc xuồng gắn máy bị mất hút đi giữa bạt ngàn màu xanh và mênh mông sông nước.
Có thể nói trong xu thế đô thị hoá, hội nhập và phát triển, ĐBSCL là nơi lưu giữ văn hoá nông nghiệp, văn hóa sông nước đậm nét nhất. Và truyện ngắn ĐBSCL đã góp phần chuyển tải nét văn hoá đặc trưng ấy đến với bạn đọc trong và ngoài nước.
Chương 3
MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
CỦA TRUYỆN NGẮN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TỪ 1975 ĐẾN NAY
3.1. Nghệ thuật tạo dựng tình huống, kết cấu, không gian, thời gian
3.1.1. Nghệ thuật tạo dựng tình huống
Theo Hegel: ‘‘Tình huống là một tình trạng có tính chất riêng biệt..., góp phần biểu hiện nội dung là cái phần có được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự biểu hiện nghệ thuật’’. Nhà văn sử dụng tình huống ‘‘như là một cách thức để tạo nên điều kiện bộc lộ tính cách nhân vật’’[143, tr.413]. Truyện ngắn với dung lượng hạn chế, cho nên không thể nói nhiều, nói đầy đủ như tiểu thuyết, điều quan trọng với truyện ngắn là phải lựa chọn cho được các tình huống để bộc lộ nét chủ yếu của tính cách và số phận đời sống con người.
Và thực sự những nhà văn có tài đều là những người có tài tạo ra những tình huống xảy ra truyện vừa rất cá biệt vừa mang tính phổ biến. Đối với truyện ngắn hiện đại, tình huống truyện lại càng có vị trí hết sức quan trọng. Mỗi truyện ngắn luôn chứa đựng một tình huống truyện. Tình huống tiêu biểu ấy có nhiệm vụ gắn kết các nhân vật cùng tham gia các sự kiện. Thông qua đó các nhân vật bộc lộ tính cách cũng như những quan hệ của mình. Đồng thời tình huống truyện có vai trò đặc biệt thể hiện tập trung chủ đề của tác phẩm. Tình huống truyện càng độc đáo, đặc sắc thì sức hấp dẫn của truyện càng mạnh mẽ. Một nét khá mới lạ trong sáng tác của các nhà văn ĐBSCL đó là xây dựng cốt truyện dựa trên tình huống.
3.1.1.1.Tình huống tâm trạng
Tình huống tâm trạng là tình huống mà ở đó nhân vật rơi vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm. Và theo nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Có những nhà văn cố tình đưa nhân vật của mình vào những va chạm bình thường hàng ngày, những tình thế giao tiếp hàng ngày, ai cũng nhiều lần trải qua và cái tình thế xảy ra lại nằm trong tâm trạng, tính cách nhân vật”[142, tr.119]. Chính vì thế, tình huống này thường dẫn tới một kiểu nhân vật là con người tình cảm. Nghĩa là kiểu nhân vật được hiện lên chủ yếu bằng thế giới nội cảm của nó. Nhà văn tạo dựng nên hình tượng nhân vật chủ yếu bằng hệ thống chất liệu là cảm giác, cảm xúc với các phức hợp khác nhau của chúng còn các khía cạnh khác như: ngoại hình, hành động…ít được quan tâm. Và vì thế nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện: truyện ngắn trữ tình.
Tình huống này thường gặp trong các truyện tâm tình, loại truyện không thiên về cốt truyện nhưng sâu sắc về tâm lý, với những sự kiện đặc biệt của đời sống, nhân vật rơi vào một tình thế làm nảy sinh những biến động trong thế giới tình cảm. Nhân vật trong tình huống này là con người tình cảm, được xây dựng bằng hệ thống chất lượng là cảm giác, cảm xúc.
Tìm hiểu truyện ngắn ĐBSCL sau 1975, chúng tôi nhận thấy loại tình huống tâm trạng thường khó nhận biết, có khi chỉ là những sự việc vặt vãnh, nhưng nó buộc người đọc phải suy ngẫm.
Truyện ngắn Giữa dòng nước lũ của Anh Đào xoay quanh câu chuyện của mẹ con thằng Nước tình cờ gặp lại người cha, người chồng bội bạc. Từ đó mọi việc cứ diễn ra một cách tự nhiên theo quy luật logic vốn có của nó. Ba thằng Nước vì sức hút kiếm tiền mà đành tâm dứt bỏ nghĩa vợ chồng, tình phụ tử. Ông nhẫn tâm phụ bạc người vợ hiền lành, bỏ mặc đàn con thơ dại chín năm chưa một lần về thăm, mặc vợ nhớ mong, chờ đợi, đàn con thiếu thốn hơi ấm tình thương của cha. Ba nó bỏ đi, mẹ nó phải vật lộn với cuộc sống để nuôi bầy con dại. Đáng lí họ phải hận ông ấy lắm, nhưng người vợ vẫn kiên trinh chờ đợi, sẵn lòng tha thứ cho người chồng bội bạc, mong một ngày gia đình sum họp. Còn thằng Nước lúc nào cũng yêu thương mẹ, đỡ đần mẹ trong cuộc sống, chăm sóc các em. Khi má không đồng ý cho nó lấy tiền của ba, nó chạy xuống bến sông để trả lại tiền, nhưng ghe hàng đã nhổ sào đi từ bao giờ. Biết vậy, nhưng ngày nào nó cũng “chạy xuống bến chợ mong ngóng”. Ước mong “gặp lại ba lần nữa đầy ắp trong trái tim nhỏ bé của nó”[182, tr.37]. Câu chuyện thể hiện tư tưởng nhân đạo, sự đồng cảm yêu thương đối với người lao động của tác giả. Dù trong hoàn cảnh nào, họ luôn hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, vẫn luôn khao khát yêu thương, khát khao hạnh phúc.
Ở truyện ngắn Thuốc đắng của Anh Động, tình huống tâm trạng được xây dựng trên cơ sở sự cả tin, mềm lòng cùng với sự kém hiểu biết của vợ chồng Năm Vâng trước thủ đoạn nham hiểm của mụ Ma Lanh. Tình huống truyện đơn giản, nhưng đã bộc lộ được khá đầy đủ nội dung tư tưởng mà tác giả Anh Động muốn chuyển tải đến người đọc về cuộc sống đời thường của người lính sau chiến tranh, người trí thức trong thời bình. Vì cơm áo, gạo tiền mà bị người khác lợi dụng, làm những việc trái với lương tâm, dẫn đến đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Tình huống tâm trạng có khi được xây dựng từ một kỉ niệm nghĩa tình trong những năm gian khổ giữa những người đồng chí, đồng đội với nhau để rồi dù trong bất cứ hoàn cảnh nào của đời sống họ vẫn luôn nhớ về nhau (Chim lá rụng - Thai Sắc; Kỉ niệm thoáng qua - Nguyễn Khai Phong). Cũng có khi tình huống được xuất phát từ khám phá lí giải bình diện đạo đức trong cuộc sống đời thường, điều đáng quan tâm thì không được quan tâm mà chỉ quan tâm đến những chuyện tầm phào, chuyện riêng tư của người khác (Có một mùa mưa - Hồ Tĩnh Tâm).
Tình huống tâm trạng là tình huống khá phổ biến trong các truyện ngắn về chiến tranh thời kỳ đổi mới. Xu hướng phản ánh hiện thực từ góc độ đời tư cho phép, và đòi hỏi diễn biến tâm trạng, tình cảm con người trở thành một trong những đối tượng cơ bản để khám phá, tìm tòi.
Truyện ngắn Đường về của Lê Đình Bích là câu chuyện xoay quanh tâm trạng của John - một người lính Mĩ trở lại vùng đất mà anh có những kỉ niệm buồn trong cuộc chiến và anh bất ngờ khi được con người nơi đây tiếp đón một cách thân thiện. Với anh nơi đây là ‘‘một chiến trường quá buồn bã nhưng cũng là một tình trường tươi thắm”[182, tr.16].
Một người bị bỏ quên của Hào Vũ là câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Hà qua lời kể của nhân vật “tôi” là phóng viên của một tờ báo tỉnh cũng là bạn cùng đơn vị chiến đấu với Hà, cũng không ai khác chính anh là người phát hiện ra Hà vẫn còn sống. Trong khi gia đình, vợ con anh ngoài Bắc đều nghĩ anh đã chết trong một trận chiến đấu ác liệt xảy ra trên sông và anh được truy phong danh hiệu “dũng sĩ quyết thắng” nhưng giờ đây “Hà vẫn còn sống, ngay tại đây, với người vợ thứ hai của anh, sống thầm lặng, sống như một người đã chết, như không cần biết chi tới sự đời”[182, tr.369]. Anh trốn chạy quá khứ, trốn chạy tất cả mọi người. Chỉ vì anh đã mang ơn chị Ba Bình vợ anh bây giờ, anh lỡ có tình cảm. Vì anh không bao giờ nghĩ chiến tranh có ngày kết thúc, anh không nỡ làm ai đau khổ. Anh không dám đối mặt với hiện thực, anh trốn tránh nhiệm vụ của bản thân đối với cuộc đời mình. Sau khi nói chuyện với nhân vật tôi anh đã có một quyết định “Đi đâu, không, nó sẽ không đi đâu, không bỏ trốn đâu, nó sẽ trở về với chị, với thằng nhỏ, trở về với chúng ta. Chị cứ tin tôi”[182, tr.386].
Không ít tình huống tâm trạng được xây dựng từ những kỉ niệm những hồi ức, những nỗi đau mất mát trong chiến tranh. Có những vết thương, những nỗi đau mà mãi mãi không bao giờ lành được (Nhạc rừng - Lương Hiệu Vui).
Truyện ngắn Vết thương thứ mười ba của Trang Thế Hy, đề cập đến nỗi đau của con người sau chiến tranh. Đó là tâm trạng của vợ chồng anh Hữu và chị Châu về nỗi đau tinh thần do chiến tranh để lại. Hòa bình lập lại, họ trở về với cuộc sống đời thường. Họ cũng có một gia đình hạnh phúc như bao gia đình. Anh Hữu là người chồng hết mực yêu thương, lo lắng, chăm sóc cho chị Châu - người đồng chí, người bạn đời của mình. Chị Châu là một phụ nữ chịu nhiều bất hạnh. Chị mang trong người căn “bệnh buồn” vô phương cứu chữa. Nhất là mỗi khi nhắc đến chiến tranh, chị vừa buồn vừa giận. Chính chiến tranh là kẻ thù đã cướp cái quí giá nhất của đời người con gái, nỗi đau mà lâu nay chị âm thầm chịu đựng và muốn chôn chặt trong lòng. Tuy thương yêu, lo lắng, quan tâm cho nhau, nhưng giữa họ vẫn còn tồn tại một sợi dây vô hình, làm cho không khí gia đình mỗi khi trò chuyện lại trở nên nặng nề. Nhưng cuối cùng chị cũng nói ra tất cả và đã ra đi một cách thanh thản.
Ở truyện ngắn Vết thương thứ mười ba, qua tâm trạng NV chị Châu, nhà văn muốn nhắn gửi với người đọc: chúng ta không chỉ biết tự hào kiêu hãnh về những kì tích trong chiến tranh, mà cũng cần phải thấu hiểu những nỗi đau chiến tranh như nỗi đau mà nhân vật chị Châu phải âm thầm chịu đựng mấy chục năm trời cho đến khi qua đời.
Cũng có tình huống tâm trạng được tạo dựng từ những biến cố trong đời sống gia đình.
Truyện Núi lở của Nguyễn Ngọc Tư từ đầu đến cuối tái hiện sinh động tâm trạng của một sinh viên điện ảnh tên Vĩnh. Đầu tiên Vĩnh say, mà ta sẽ thường liên tưởng tới một người say hay nói chuyện viễn vông, càn quấy. Nhưng đây là một người say nói thật. Anh đã đem những ký ức thầm kín ‘‘buồn khủng khiếp’’ của mình trút hết vào một dự định kịch bản phim. Vĩnh bị ám ảnh, dằn vặt đến lạnh ngắt cả người, nước mắt chảy đầm đìa vì một ký ức ghê rợn của tuổi thơ. Đó là cái chết của người ông thương yêu, cái chết diễn ra trước mặt cả gia đình Vĩnh. Một đứa trẻ không thể ngờ và không hiểu tại sao cha mẹ của mình lại có thể cứu một khách làng chơi, và còn không quên cứu cả một con nhồng mà lại bỏ người cha ruột già nua - ông nội của Vĩnh lại. Khi anh trưởng thành, anh mới biết đó là hai bộ não độc ác, tàn nhẫn, ích kỷ và hám lợi, đã dám đem con mình nhúng vào chốn nhơ và đã dám lăng mạ sự cao quý của người ông, bất chấp những hủy hoại về mặt tinh thần, tình cảm. Đến cuối truyện, người đọc mới vỡ lẽ đây không phải là một câu chuyện phim tưởng tượng mà chính là câu chuyện đời của Vĩnh, để rồi phải bàng hoàng, nghẹn ngào cùng nhân vật. Đây chính là hiệu ứng của tình huống truyện: ban đầu tác giả bọc cho câu chuyện một lớp áo điện ảnh, để người đọc phải hoài nghi giá trị của kịch bản ấy ở tính hiện thực. Nhưng qua tâm trạng nhân vật kể chuyện Vĩnh, sự né tránh đó của tác giả là một sự tố cáo âm thầm nhưng quyết liệt, đầy đay nghiến, một cuộc ‘‘lật mặt nạ’’ cuộc đời. Tưởng như chuyện bịa, không tưởng vì nó quá lạnh lùng, nhưng những sự kiện xảy ra trong ấu thời của Vĩnh ấy là sự thật ở đời mới thật đáng sợ.
Với truyện Về nhà trước cơn mưa của Trang Thế Hy, thì tình huống truyện là tâm trạng của ba nhân vật là người cha, người đàn ông bán đá cục đến anh Diên. Tâm trạng của họ xoay quanh một đứa trẻ bị bỏ lại bên vỉa hè. Đều yêu thương nó nhưng họ không có đủ khả năng thực tế để có thể tránh khỏi hành động ‘‘bỏ chạy’’, để đứa bé lại với vỉa hè lạnh lẽo và cay nghiệt. Tất cả họ đều bị cắn rứt, dằn vặt lương tâm. Người đàn ông bán đá cục đã phải có những giờ đồng hồ ngồi trầm tư, vật vã bên đứa bé đáng yêu. Anh Diên cũng phải ray rứt đến những giờ phút sau cùng trên giường bệnh. Quan niệm đạo đức cao cả ‘‘kiến nghĩa bất vi vô dõng giả’’ của họ đã không thể thực hiện được trong mọi thời điểm của cuộc đời, do cái đói nghèo chì kéo. Đặc biệt, nhân vật anh Diên thấy mình đã ‘‘hèn nhát’’ phụ lại phương châm sống ấy dù chỉ mới một lần anh không thể làm việc nghĩa. Toàn truyện là một bầu tâm trạng buồn đến nao lòng của những con người đầy trăn trở về tình thương, trách nhiệm đối với đồng loại của mình.
Có thể nói, cách xây dựng tình huống tâm trạng trong truyện ngắn ĐBSCL rất phong phú và đa dạng. Điều này cho thấy ý thức tìm tòi và sáng tạo của các cây bút truyện ngắn ĐBSCL trên từng phương diện. Tuy chưa có những tình huống tâm trạng vào loại đặc sắc, độc đáo, nhưng sự thành công như đã trình bày trên cũng rất đáng ghi nhận.
3.1.1.2.Tình huống hành động
Tình huống hành động là loại tình huống mà trong đó nhân vật bị đẩy tới một tình thế thường là éo le chỉ có thể giải quyết bằng hành động. Tình huống này thường hướng tới một kiểu nhân vật - nhân vật hành động. Tức là loại nhân vật chủ yếu được hiện lên bằng hệ thống hành vi, hành động của nó, các bình diện khác ít được quan tâm. Do đó, nó quyết định đến diện mạo của toàn truyện: truyện ngắn giàu kịch tính. Thậm chí mỗi thiên truyện ở dạng rõ nét nhất có thể coi như một màn kịch, một vở kịch ngắn bao hàm những xung đột đời sống.
Ở truyện ngắn Gió lẻ, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng một tình huống trớ trêu, ngang trái. Nhân vật em có cả một mái ấm gia đình hạnh phúc bên cha mẹ, nhưng bỗng một ngày chuyện bất ngờ lại xảy ra: ‘‘Có lần em lén lấy dao cạo râu cha để tỉa lông cho con cho Lu Lu. Không ngờ vì chuyện đó cha mẹ cãi nhau, cha chỉ vào em hỏi mẹ, từng từ khít như mau rỉ qua kẽ răng: cô lấy thằng nào mà đẻ ra cái thứ này? Mẹ em không trả lời, lẳng lặng vào phòng, khoá cửa trong. Ba giờ sau cha tìm thấy mẹ em treo mình đung đưa trên xà nhà’’[172, tr.139]. Chỉ một câu hỏi cay nghiệt của người chồng đã dẫn đến cái chết tức tưởi của người vợ và làm cho đứa con gái ngây thơ không bao giờ nói được tiếng người nữa. Sau biến cố ấy, thì bi kịch tiếp tục ập đến và dồn cô bé tội nghiệp đến chân tường: ‘‘Bỗng dưng thấy mình bị ép chặt xuống tấm vắn mối ăn lấm tấm và một bàn tay lần vào áo em, thì em giật mình. Em gào lên, nhưng giọng tắt trong bàn tay khẳm mùi rượi, thịt và nước tiểu’’[172, tr.151].
Ngược lại ở Đất không cưu mang của Bích Ngân, với tiếng kêu hớt hải ‘‘Ba, ba ơi’’ của đứa con gái Út, mà ông Mười đã từ bỏ ý định tự tử ‘‘Ông mềm nhũn trước tiếng kêu đó. Ông tuột từ trên cây cao xuống khi nghe tiếng khóc rấm rứt của con Út. Ông bế thốc con Út lên và xiết chặt nó vào lòng’’[183, tr.379].
Truyện ngắn Không có cái truyện ngắn nào cả của Phạm Trung Khâu là cuộc trò chuyện giữa nhân vật Thân (và cũng là chính tác giả) và một vị khách thật đặc biệt, chính là lương tâm của tác giả, là con người thứ hai của tác giả. Thân là một người quá xem trọng vật chất, anh chăm chút lau từng vết bụi dơ trên máy thu băng, anh cằn nhằn mãi thằng Tín vì nó vô tình làm dính một vết dơ lên máy (chưa hẳn là do thằng Tín làm). Ngay cả ngày giỗ của ba mình anh cũng không ở nhà mà đi thành phố để mua thêm hàng. Anh còn dặn vợ làm gòn gọn vì“tiền anh dành dụm từng đồng dại gì phung phí”[182, tr.166]. Anh còn là một người sống vì dư luận, sợ dư luận và sống giả dối. Anh đề nghị rước mẹ vợ về ở chung với mình, chỉ vì sợ người đời chê trách.
Qua những suy nghĩ và hành động của nhân vật Thân, truyện đã gửi đến người đọc trong cuộc sống hiện nay có một số người chỉ coi trọng cơm áo gạo tiền, vật chất mà quên mất cái nghĩa, cái tình của người.
Truyện Một chuyến đò của Trầm Nguyên Ý Anh đã đặt nhân vật vào một tình huống oái oăm độc đáo là ‘‘chọn mẹ để cứu’’. Trước khi có tình huống đỉnh điểm này, nhân vật Thân đã được thể hiện bằng những hành động chăm chút cho người mẹ nuôi giàu có ngay trước mặt người mẹ ruột đáng thương - ‘‘gã đã làm đủ mọi cách để mong được có tên trong tờ giấy chia gia tài của bà Quang’’[196, tr.291]. Chuyến chìm đò, buộc Thân phải chọn cứu một trong hai bà mẹ. Giữa bà mẹ nuôi giàu có và người mẹ ruột nghèo hèn, thằng con trai đã chọn cứu bà mẹ nuôi và bỏ mẹ ruột mình chết đuối sau khi đã phũ phàng chối bỏ hành động cứu con một cách bản năng của người mẹ ruột. Tất cả những hành động ấy, nhất là hành động sau cùng đã tố cáo bộ mặt giả nhân giả nghĩa của Thân, mà bà mẹ nuôi (bà Quang) chợt nhận ra. Hành động ‘‘cứu mẹ’’ đầy toan tính đã tố cáo bản chất tàn nhẫn của một con người.
Ở những truyện không có tình huống hành động thì các nhân vật vẫn có những hành động theo sự vận động và phát triển tính cách. Nhưng việc các cây bút truyện ngắn ĐBSCL tạo dựng tình huống đã góp phần đẩy nhanh mạch truyện và kịch tính của truyện được lí giải một cách thấu đáo hơn. Lời nói có thể điêu ngoa, xảo biện nhưng chính hành động là cái xác thực nhất để bộc lộ hay tố cáo một con người trong phần lớn các trường hợp. Do vậy, dùng hành động của nhân vật để giải quyết tình huống mâu thuẫn được đặt ra trong truyện là một cách làm đem lại nhiều sự thuyết phục. Đặc biệt là những hành động có tính chất quyết định như có liên quan đến sự được - mất, sống - chết.
3.1.1.3. Tình huống nhận thức
Tình huống nhận thức là kiểu tình huống với những sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật được đẩy tới một tình thế bất thường như đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên một vấn đề về nhân sinh, về nghệ thuật cần phải vỡ lẽ, giác ngộ. Kiểu nhân vật của dạng tình huống này đương nhiên là nhân vật tư tưởng. Nghĩa là kiểu nhân vật được khai thác chủ yếu ở đời sống nhận thức lý tính của nó. Chất liệu cớ bản để dệt nên nhân vật là hệ thống những quan sát, phân tích, suy lý, đúc kết, chiêm nghiệm…mà trường hợp đậm đặc nhất là mỗi nhân vật giống như một tư tưởng được nhân vật hoá.
Tình huống nhận thức luôn mở ra những vấn đề trước hiện thực đời sống mà nhà văn có sự nghiền ngẫm và lí giải theo quan niệm của mình với mong muốn đối thoại cùng người đọc.
Truyện ngắn Ông già đến từ Busan của Vũ Hồng là câu chuyện xoay quanh hai nhân vật chính là ông già đến từ Busan - vị khách ba lô lẻ và nhân vật tôi - sinh viên sử năm 3 làm nghề hướng dẫn viên du lịch. Chuyến du lịch về miền sông nước Cửu Long, đi đến Bến Tre giữa hai người mới gặp nhau lần đầu tiên, theo xuyên suốt miền Tây là cả một câu chuyện ý nghĩa về cuộc đời, cảm xúc, tâm sự, ước mơ và nỗi lòng… bộc lộ từ vị khách già nọ. Hai nhân vật chính đi cùng nhau không phải do ngẫu nhiên mà có nguyên nhân, giữa ông và nhân vật tôi có một điểm giống nhau đó là họ đều có một mụn thịt nhỏ ở cánh mũi phải dù nhỏ thôi nhưng hình như ý nghĩa với ông, nên thấy thân quen, gần gũi như những người đồng hương gặp nhau trên vùng đất mới trong cuộc mưu sinh, những người da vàng gặp nhau nơi xứ người. Đến Bến Tre ông hỏi và tìm đến cây Bạch Mai sống trên ba thế kỷ - Cội Bạch Mai già, sần sùi theo thời gian như chính ông đang nhìn thấy mình, tìm thấy sự đồng cảm với mình. Ông hình như cũng thấy điều mình đang tìm kiếm - gốc rễ cội nguồn của mình ở ngay cây Bạch Mai già cội này. Nó đã sống trên quê hương ông, trải qua bao nắng mưa, thăng trầm của cuộc sống, nó giống như cột mốc ghi lại bước đi vội vã của thời gian, tất cả sự đổi thay trên quê hương đều như in hằn lên lớp vỏ làm chúng ngày càng sần sùi hơn. Như khi người ta đi xa về, bốc một nắm đất trên quê hương cũng thấy lòng đầy cảm xúc, thấy nắm đất đầy ý nghĩa. Ở Bến Tre được ba ngày, ông chụp hết tấm phim này đến tấm phim khác, rồi hí hoáy vẽ phác họa những nét đơn điệu của cảnh vật đồng bằng, với ông nó rất đẹp vì đồng bằng gần gũi với con người hơn, khác xa với thành phố Busan, một nơi nhộn nhịp, ồn ào mà ông đang sống. Ông nội ông là người nói cho ông biết mình có dòng máu Việt Nam, trái lại với ông ba ông luôn trối bỏ nguồn cội của mình. Ông tự học tiếng Việt, đọc sách tiếng Việt, ăn món ăn Việt và nói chuyện với cánh thủy thủ Việt Nam, thích Nguyễn Tuân. Phải chăng ông đang cố tìm lại dòng máu của mình, để cảm xúc, suy nghĩ, tiếng nói và bản thân được thuần Việt hơn, được trở về đúng gốc gác của mình. Ngày sinh nhật, ông đi qua đi lại trước đại sứ quán Việt Nam “tự chúc mừng sinh nhật mình bằng cách nhìn lá cờ Việt Nam đang bay nơi xứ người, rồi về”[182, tr.118]. Giống như người Việt Nam, một năm có 3 ngày tết cổ truyền để tưởng nhớ cội nguồn tổ tiên, truyền thống dân tộc thật thiêng liêng và ý nghĩa. Nhìn lá cờ Việt Nam trong ngày sinh nhật, để thỏa nỗi lòng cố hương của ông, để thấy trong ngày mình cất tiếng chào đời, dù ở nơi đâu cũng đặt nơi chôn rau cắt rốn vào lòng, vào máu, vào tim. Lời an ủi của nhân vật tôi làm ông chạnh lòng “không có đứa trẻ sơ sinh nào biết tự chọn cho mình đất nước”[182, tr.118]. Cũng như không có đứa trẻ nào chọn được cha mẹ, dòng máu, màu da cho mình. Nhưng đau khổ hơn với ông “Ở đất Hàn họ cho mình là người Việt, còn ở Việt nhìn tao là Hàn. Tao là kẻ không có quê hương và điều đó khiến tao đau lòng lúc tuổi già gần đến. Rồi Việt Nam cũng không đủ thời gian để nhớ ra rằng mình còn có một đứa con phải gởi nắm xương nơi đất khách quê người. Tao còn một điều ân hận với nguồn cội của mình là đã để đứa con trai út theo đoàn quân viễn chinh sang đây…”[182, tr.118]. Có lẽ giờ đây, ông thấm thía hơn ai hết niềm ao ước được tìm lại quê hương, có được nguồn cội, có được nơi để quay về khi tuổi già. Dòng máu Hàn - Việt trong người vẫn chảy, nhưng dường như chẳng nơi nào nhận ông là con “đang ngồi nhớ về quê hương ngay chính trên quê hương của dòng máu ông đang mang mà cái quê hương đó lại chưa nhận được ông về tổ ấm”[182, tr.119]. Ông chợt khóc rưng rức như một đứa trẻ, một đứa trẻ mồ côi quê hương ngay chính tại nơi mà nó sinh ra. Rồi như không biết vô tình hay cố ý, nhân vật tôi - người dẫn đường cho ông “chợt thấy chạnh lòng khi nhớ về quê nhà Ba Tri cách đó không xa mấy”[182, tr.119]. Phải chăng, giữa hai con người đang có sự đồng cảm, hay khi chứng kiến một người đang đau khổ vì không tìm được tổ ấm, thì người ta mới giật mình quý trọng tổ ấm mình đang có. Hình như dòng máu Việt và niềm khao khát nguồn cội cũng đang xuôi chảy trong ông già đến từ Busan như vậy, âm thầm, lặng lẽ như không bao giờ cạn.
Truyện ngắn Tro bụi trên sông của Ngô Khắc Tài nói về con người tha hương, tác giả đề cập rõ nét nhất qua nhân vật hia Kim. Hia Kim sống tha hương nhưng luôn nhớ về cội nguồn của mình. Hia là một người mang nửa dòng máu Trung Hoa, nửa dòng máu Việt Nam, sống trên đất nước Việt Nam. Lúc nhỏ có một lần hia Kim được về Trung Quốc nhưng rồi sau đó cuộc sống bận rộn sau này hia Kim không có lần nào về nữa. Thế nhưng trong hia Kim luôn khao khát trở về cố hương. Lúc già sắp về cõi vĩnh hằng hia Kim như muốn hoài vọng về cố hương, theo rờ rẫm vách nhà, cây cối trong vườn để hồi tưởng lại cuộc đời mình. Ông muốn trước khi chết được sờ những vật đã để lại trong ông những kỉ niệm tươi đẹp bên ông bà, cha mẹ. Và đây cũng là những giây phút thiêng liêng với cội nguồn đã lãng quên. Trước lúc giã từ cõi đời hia Kim đã dặn dò với Tố Anh là hia mong muốn xác minh được thiêu và đem thả ra biển Hà Tiên. Có lẽ đây chính là con đường duy nhất mà hia Kim trở về với cội nguồn.
Truyện còn đặt ra vấn đề về sự khác nhau trong cách suy nghĩ về cuộc sống tâm lý của hai thế hệ. Họ là lớp người già và họ có một đời sống tâm lý rất riêng, rất phức tạp. Họ không sống vì tương lai mà sống bằng những hoài niệm của quá khứ, họ có nhu cầu được giãi bày tâm sự cũng như ôn lại chuyện xưa. Và lớp con cháu chúng ta có khi lấy làm bực mình vì những chuyện đó không hấp dẫn. Sở dĩ chúng ta có cảm giác đó là vì chúng ta chưa hiểu hết tâm sự của người già. Họ già nên họ cô đơn lắm, họ cô đơn khi bạn bè cùng trang lứa ngày một mất dần. Chỉ có bạn bè cùng trang lứa mới hiểu hết tâm sự của nhau thôi. Họ đành tìm sự cảm thông ở lớp con cháu nhưng con cháu chúng ta lại quay mặt lại với họ. Có lẽ chúng ta chưa già nên chưa thấu hiểu tâm lý của người già. Họ rất cần sự quan tâm yêu thương từ con cháu. Truyện được viết bằng cảm xúc chân thực của nhà văn, dữ dội, mạnh mẽ, song với chất trữ tình êm dịu của nó, làm người đọc xúc động, và đồng cảm với tác giả.
Với truyện Khóc hương cau, Phan Trung Nghĩa đã khắc họa rất đậm nét về cuộc đời và số phận của những người phụ nữ. Họ nối tiếp nhau, đại diện cho đức tính chịu thương, chịu khó của người phụ nữ Việt Nam nói chung và người phụ nữ ĐBSCL nói riêng.
Nói về người mẹ, bà là người “khổ từ trong trứng khổ ra”. Từ thời con gái cho đến khi lấy chồng, có con rồi, ấy mà cái cực vẫn còn đeo bám, ngay đến lúc chết bà cũng không nhắm mắt vì chưa thực hiện được ước nguyện về thăm lại quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn dù chỉ một lần. Nơi đó nào xa xôi, chỉ ở Cồn Ấu - Cần Thơ, thế mà má Nghĩa không về được… 24 năm đã qua, cũng 24 năm người phụ nữ ấy chống chọi, lận đận với cuộc sống đầy cơ cực. Và dường như bà sinh ra là để lo cho chồng, cho con, xem đó như món nợ tình, nợ nghĩa mà bà phải trả. Tuy nhiên, có một món nợ mà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 1975 đến nay.doc