Luận văn Khảo sát một số chỉ tiêu sinh sản và bệnh sinh sản thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì

Mục lục

Phần I: Mở đầu

I. Tính cấp thiết của đề tài

II. Mục đích của đề tài

Phần II

Tổng quan các vấn đề nghiên cứu

I. Sơ lược tình hình chăn nuôi Bò sữa ở Việt Nam và trên Thế giới

1.1. Tình hình chăn nuôi Bò sữa trên thế giới

1.2. Tình hình chăn nuôi Bò sữa ở Việt Nam

II. Những đặc điểm chính về cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục Bò cái

2.1. Buồng trứng

2.2. ống dẫn trứng

2.3. Tử cung

2.4. âm đạo

2.5. Các bộ phận khác

III. Đặc điểm sinh lý, sinh sản của Bò cái

3.1. Sự thành thục về tính

3.2. Chu kỳ tính (Chu kỳ động dục)

3.3. Sự điều tiết thần kinh thể dịch đến hoạt động sinh dục của bò cái

3.4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của bò cái

IV. Một số bệnh sản khoa thường gặp trên bò sữa tại Trung tâm

4.1. Bệnh trong thời gian gia súc mang thai.

4.2. Bệnh trong thời gian gia súc sinh đẻ

4.3. Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai

V. các hormone sinh sản chính và một số chế phẩm đặt âm đạo.

5.1 Các hormone sinh sản chính

5.1.1.GnRH

5.1.2.Các hormone Gonadotropin

5.1.3.Estrogen.

5.1.4.Progesterone

5.1.5.Prostaglandin

5.2. Một số chế phẩm đặt âm đạo.

5.2.1. CIRD

5.2.2. PRID

5.2.3. CUEMATE

Phần III

Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu

I. Đối tượng

II. Nội dung nghiên cứu

2.1. Một số chỉ tiêu về tính năng sinh sản của Bò sữa

2.1.1. Tuổi phối giống lần đầu

2.1.2.Tuổi đẻ lứa đầu

2.1.3.Thời gian động dục lại sau khi đẻ

2.1.4. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ

2.1.5. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai

2.1.6. Sản lượng sữa trên một chu kỳ

2.1.7.Tỷ lệ bê cái trên bê đực

2.2. Một số bệnh sản khoa thường gặp của đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì

2.2.1. Bệnh trong giai đoạn mang thai

2.2.2 Bệnh trong quá trình sinh đẻ.

2.2.3. Bệnh trong giai đoạn không mang thai

2.3. Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng sinh sản

2.3.1.Sử dụng một số hormone hướng sinh dục.

2.3.1. Thụt rửa cho bò sau khi đẻ bằng dung dịch lugon 0,1-0,2%

III. Phương pháp nghiên cứu

3.1. Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu sinh sản

3.2. Phương pháp đánh giá tỷ lệ mắc bệnh sản khoa

3.3.Phương pháp sử dụng một số chế phẩm hormone và dung dịch thụt rửa

IV.Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Phần IV

Kết quả và thảo luận

I. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì

1.1. Cơ cấu đàn bò của TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì năm 2004 - 2005

1.2. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản

II. Kết quả điều tra một số bệnh sản khoa thường gặp trên đàn Bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đòng cỏ Ba Vì

III. kết quả sử dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng s inh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì

3.1.Nhận xét chung.

3.2.Kết quả sử dụng pgf2 trên bò chậm động dục do thể vàng tồn lưu bệnh lý

3.3.Kết quả gây động dục của pgf2 hai liều cách nhau 11 ngày trên bò chậm sinh

3.4.Kết quả sử dụng HCG động dục mà không rụng trứng.

3.5.Kết quả sử dụng dụng cụ đặt âm đạo để điều hoà chu kỳ động dục

5.6.Kết quả sử dụng dung dịch thụt rửa đối với bò sau khi đẻ

Phần V

Kết luận, tồn tại và đề nghị

I. Kết luận

1.1. Về khả năng sinh sản

1.2. Về bệnh sinh sản

1.3. Về biện pháp nâng cao khả năng sinh sản

II. Tồn tại

III. Đề nghị

Phần VI

Phụ lục ( ảnh)

Tài liệu tham khảo

 

doc66 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9947 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát một số chỉ tiêu sinh sản và bệnh sinh sản thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng dẫn đến năng suất sinh sản thấp. IV. Một số bệnh sản khoa thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa 4.1. Bệnh trong giai đoạn mang thai: a.Bệnh rặn đẻ quá sớm Đây là hiện tượng gia súc mẹ xuất hiên những cơn co bóp tử cung, những cơn dặn đẻ trước thơi gian sinh đẻ bình thường một vài tuần hoặc một vài tháng b. Bệnh bại liệt trước khi đẻ: Bại liệt trước khi đẻ là một quá trình bệnh lý xuất hiên ở gia súc còn trong giai đoạn mang thai, gây nên tình trạng con vật mất khả năng vận động, chỉ nằm bẹp một chỗ. Bình thường bệnh xuất hiện vào thời gian gia súc có chửa kỳ III , đăc biệt là trước khi đẻ vài tuần hoặc trên dưới một tháng c. Xảy thai : Đây là quá trình gia súc có thai bị gián đoạn hoặc bị ngắt quãng. Bào thai bị đẩy ra khỏi cơ thể mẹ khi thai đã chết hay còn sống. Đôi khi gặp trường hợp bị tiêu biến đi trong tử cung hay bào thai đã chết được giữ lại trong tử cung cơ thể mẹ. Hiện tượng xảy thai thường do sức sống của bào thai yếu , quá trình phát triển của bào thai, nhau thai và các bộ phận khác không bình thường. Mặt khác có thể do quá trình bênh lý ở cơ quan sinh dục nói riêng và cơ thể nói chung gây nên hiện tượng xảy thai. 4.2. Bệnh trong thời gian gia súc sinh đẻ a. Bệnh rặn đẻ quá yếu: Đây là quá trình bệnh lý xảy ra trong thời gian gia súc sinh đẻ với đặc điểm là cổ tử cung, cơ thành bụng co bóp quá yếu không đẩy được bào thai ra ngoài. Bệnh được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: cường độ bóp của tử cung không liên tục hay không co bóp được. Căn cứ vào thời gian của quá trình sinh đẻ, bệnh có thể xuất hiện ở hai thời kỳ: - Thời kì thứ nhất (thể nguyên phát): thể này xuất hiện vào thời gian đầu của quá trình sinh đẻ. Đối với những gia súc đẻ lứa đầu thì đây là hiện tượng bình thường. - Thời kì thứ hai (thể thứ phát): ở giai đoạn đầu của quá trình sinh đẻ, những cơn co bóp thành bụng, của tử cung, sức rặn của cơ thể mẹ nói chung bình thường nhưng giai đoạn sau những cơn co bóp, sức rặn của mẹ yếu và giảm dần nên bào thai không được đẩy ra khỏi cơ thể mẹ. b - bệnh rặn đẻ quá mạnh Rặn đẻ quá mạnh là quá trình bệnh lý xuất hiện trong quá trình sinh đẻ với các đặc điểm tử cung co bóp rất mạnh hoặc tử cung co bóp liên tục. c - Sát nhau: Trong quá trình sinh đẻ bình thường, sau khi sổ thai một thời gian nhất định nhau thai sẽ ra phụ thuộc từng loại gia súc. Đối với bò sữa từ 1 - 4 giờ (không quá 14 giờ). Quá thời gian trung bình kể trên nhau thai không được đẩy ra khỏi tử cung thì được gọi là bệnh sát nhau. Căn cứ vào mức độ của bệnh có thể chia ra 3 thể sau: - Thể sát nhau hoàn toàn: Toàn bộ hệ thốngnhau thai còn dính với niêm mạc tử cung ở cả hai sừng tử cung. - Thể sát nhau không hoàn toàn: Phía sừng tử cung không chứa thai thì nhau thai con đã tách khỏi niêm mạc tử cung. Sừng tử cung bên có thai thì nhau thai con còn dính chặt với niêm mạc tử cung mẹ. - Thể sát nhau từng phần: Một phần của màng nhung hay ít núm nhau con còn dính với niêm mạc tử cung, còn đa phần màng thai đã tách khỏi niêm mạc tử cung. d - Đẻ khó. Trong quá trình sinh đẻ của gia súc, thời gian sổ thai bị kéo dài những bào thai khôngđược đẩy ra khỏi cơ thể mẹ gọi là hiện tượngđẻ khó. hiện tượng đẻ khó do rất nhiều nguyên nhân dẫn tới và được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Đẻ khó gây nhiều thiệt hại trong chăn nuôi nó không những gây bệnh cho cơ quan sinh dục, dẫn đến hiện tượng vô sinh mà còn có thể làm cho cả mẹ và con đều bị chết. Do đó việc đề phòng và can thiệp các trường hợp đẻ khó kịp thời, đúng kĩ thuật là điều cần thiết. 4.3. Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai a -Bệnh thường gặp sau khi đẻ. * Nhiễm trùng sau khi đẻ: Trong quá trình sinh đẻ, các loại vi khuẩn xâm nhập và phát triển trong đường sinh dục gây nên các thể viêm khác nhau sau đó gây nên hiện tượng nhiễm trùng cho cơ thể. * Viêm âm môn, tiền đình, âm đạo: Trong quá trình sinh đẻ, niêm mạc âm môn, tiền đình, âm đạo bị xây sát, tổn thương do bào thai hay do can thiệp các trường hợp đẻ khó từ đó vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm. *Viêm tử cung Khi gia súc sinh đẻ, nhất là những trường hợp đẻ khó phải can thiệp bằng tay hoặc dụng cụ, niêm mạc tử cung bị sây sát, tổn thương ,vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm nôi mạc tử cung. Mặt khác , một số bệnh truyền nhiễm như xay thai truyền nhiễm, pho thương hàn, lao.........thường gây ra viêm nội mac tử cung. Căn cứ vào tính chất , trạng thái của quá trình bệnh lý, viêm nội mạc tử cung có thể chia ra làm 2 loại: -Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ -Viêm nội mạc tử cung có màng giả -Viêm cơ tử cung thường kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả -Viêm tương mạc tử cung thường kế phát từ viêm cơ tử cung *Bại liệt sau khi đẻ. Là bệnh mà con vật mất khả năng vận động sau thời gian sổ thai * Liệt nhẹ sau khi đẻ ( bệnh sốt sữa) Đây là bệnh phát sinh đột ngột, nhanh chóng, rất nguy hiểm cho gia súc. Đặc điểm của bệnh là gây nên tình trạng con vật mất cảm giác,tê liệt ở các chi, ruột, họng và gây rrối loạn các phản xạ có và không có điều kiện. Bệnh nay rất hay gặp ở những bò sữa cao sản. b - Hiện tượng rối loạn sinh sản ở bò sữa. Gia súc cái đã đến tuổi sinh sản hoặc sau khi sinh đẻ mà đến thời kì hưng phấn và động dục lại nhưng không xuất hiện chu kì sinh dục, sinh lý bình thường hoặc gia súc biểu hiện các trạng thái bệnh lý trong quá trình sinh lý sinh dục được gọi là hiện tượng rối loạn sinh sản. Hiện tượng này là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm tỷ lệ sinh sản của gia súc nói chung và bò sữa nói riêng đồng thời cũng làm hạn chế tốc độ gia tăng đàn gia súc và gây thiệt hại lớn trong chăn nuôi. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiện tượng rối loạn sinh sản nhưng nói chung người ta thường chia hiện tượng rối loạn sinh sản của trâu bò ra làm mấy loại như sau: - Trâu bò chậm sinh: là những trâu bò cái tơ từ 20 - 30 tháng tuổi chưa động dục, trâu bò sau khi đẻ từ 6 - 8 tháng không động dục và trâu bò phối giống 2 - 3 chu kì không có thai. - Trâu bò cái vô sinh tạm thời: là những trâu bò tơ mà trên 30 tháng tuổi chưa động dục, trâu bò sau khi đẻ mà phối giống trên 4 chu kì không thụ thai. Sở dĩ gọi là vô sinh tạm thời là vì nếu được tác động bằng những biện pháp kĩ thuật thì chúng có thể trở lại sinh đẻ bình thường. - Trâu bò cái vô sinh tuyệt đối (tuyệt sinh): là những trâu bò cái vô sinh tạm thời, sau khi tác động các biện pháp kĩ thuật mà chúng không trở lại sinh đẻ bình thường hoặc những trâu bò cái có những khuyết tật bẩm sinh ở cơ quan sinh dục. V. các hormone sinh sản chính và một số chế phẩm đặt âm đạo 5.1. Các hormone sinh sản chính 5.1.1.Oestrogen. Trong buồng trứng hormone được tao ra bởi toàn bộ tế bào trứng và tổ chức kẽ. ở động vật khi có chửa Oestrogen được tổng hợp bởi ngau thai (E.R. Bagramiou,1972), ngoài ra hormone này còn được tổng hợp bởi vỏ tuyến thượng thận với một lượng nhỏ vì thế khi thiếu vẫn thấy sự tiết Oestrogen không bị ngừng. Oestrogen gồm 3 loại: oestradiol, oestron, oestriol. Trong đó oestradiol có tác dụng mạnh nhất, oestriol yếu nhất. Chúng có tác dụng giống nhau đếu là steroid. Hoạt tính sinh lý mạnh nhất vẫn là oestradiol, nó tồn tại dưới hai dạng đồng phân a và b (G.M.Segala,1980), trong đó oestradiol17b có hoạt tính sinh học mạnh hơn cả ( lớn hơn oestradiol17atới 40 lần và hơn oesteron 10 lần). Trong quá trình sinh tổng hợp oesteron người ta thấy rằng có sự chuyển hoá qua lại của chúng. Ví dụ: Oesteron17a rễ ràng chuyển thành oestron, oestron bị phân huỷ thành những sản phẩm steroid (L.D. Segelson, 1985). Công dụng của Oestrogen là kích thích cơ quan sinh dục cái phát triển,làm cơ quan sinh dục tăng sinh và tiết dịc, giúp gia súc cái có những biểu hiện động dục.ngoài ra Oestrogen cũng gây tác động ngược lên vùng dưới đồi và tuyến yên để tăng cường tiết LH, góp phần gây ra rụng trứng. 5.1.2.GnRH (Gonado tropin Releasing Hormone ). GnRH là hormone được tiết từ các neuron của vùng dưới đồi (Hypothalamus) có tác dụng kích thích tuyến yên tăng cường tiết các hormone gonado tropin( FSH và LH ) để kích hoạt và tăng cường sự phát triển của tế bào trứng, sự rụng trứng và sự hình thành thể vàng. Ngoài cơ chế tác động thuận chiều, GnRH còn đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát mối tác động ngược dương tính của Oestrogen để tăng cường tiết LH và kiểm soát mối tác động ngược âm tính của Progesterone để bảo đảm. 5.1.3.Các hormone Gonado tropin FSH (Follicle Stimulating Hormone). Là hormone của thuỳ trước tuyến yên có tác dụng chủ yếu là kích thích tế bào trứng phát triển gọi là kích noãn tố. b. LH (Luteinising Hormone) Là hormone của thuỳ trước tuyến yêncó tác dụng tăng cường quá trình thành thục của trứng, làm cho trứng chín và rụng, đồng thời bảo đảm cho sự hình thành thể vàng gọi là kích thể vàng tố. Tác dụng sinh lý của FSH gắn liền với chức năng kích thích trứng chín nhưng không gây rụng trứng. Muốn gây được rụng trứng phải có LH. Hầu hết các nhà sinh học đều thống nhất rằng để trứng rụng được thí lượng LH phải lớn hơn FSH. Theo Lê Văn Thọ, Lê Xuân Cương, 1997,[] thì tỷ lệ thích hợp giữa LH /FSH =3/1 Huyết thanh ngựa chửa – PMSG ( Pregnant Mare Serum Gonadotropin) Là kích tố của nhau thai ngựa có chức năng sinh lý tương tự như FSH và LH của thuỳ trước tuyến yên. Tuy nhiên hoật tính của nó giống FSH nhiều hơn. HTNC có hoạt tính từ ngày thứ 40-60 khi ngựa có chửa, cao nhất là khi ngựa có chử 90-120 ngày. Hoạt tính của hormone này trong HTNC tăng dần đến cực đại từ 80-120 đơn vị chuột (đ.v.c)/huyết thanh trong khoảng 60-100 ngày chửa rồi giảm dần (có trường hợp mất hẳn ở 150 ngày có chửa). Kích tố của nhau thai người – HCG (Human Chorionic Gonadtropin) Là kích tố của phun nữ có chửa. Chức năng sinh lý của HCG gần giống với LH. HCG được chiết xuất từ nước tiểu phụ nữ có thai từ 8 – 12 ngày. 5.1.3.Progesterone Khi noãn bao chín, trứng rụng khỏi nang trứng tại nơi đó mạch quản và tế báo sắc tố vàng phát triển thành thể vàng.Khi còn tồn tại và hoạt động thể vàng tiết ra Progesterone, là một steroid có 21 cacbon. Nó cũng được tiết ra từ nhau thai và 1 lượng nhỏ từ tuyến thượng thân Progesteron kích thích sự phát triển hơn nữa của niêm mạc tử cung, âm đạo, tích luỹ nhiều glycogen ở các niêm mạc đó, làm phát triển lưới mao mạch tử cung. Progesterone làm giảm tính mẫn cảm co bóp của nội mạc tử cung, tham gia vào sự chuẩn bị của nội mạc dạ con cho sự làm tổ của hợp tử, nó cũng làm tăng sinh và phát triển các bao tuyến trong tuyến vú. Khi trứng đã được thụ tinh và làm tổ thì hormone này có tác dụng dưỡng thai: làm nhau thai phát triển và duy trì sự phát triển của thai, làm giảm tính mẫn cảm của cơ trơn tử cung với oxytoxin, ức chế sự sản sinh FSH, LH của tuyến yên, do đó ức chế sự phát triển của noãn bao. Với cơ chế tác động của Progesterone là ức chế các enzim mà những enzim này được Oestrogen kích thích bao gồm hệ thống enzim oxy hoá như glucoronidaza, photphataza, cacbonicanhydraza. 5.1.4 Prostaglandin Prostaglandin được phát hiện lần đầu tiên năm 1953 trong tinh dịch người. Lúc đó người ta giả thiết rằng nguồn gốc của nó xuất hiện từ tuyến tiền liệt (prostala glandula), do đó mà có thuật ngữ prostaglandin. Prostaglandin là một axits béo không no, trong phân tử có 20 nguyên tử hydro nằm trong thành phần photpholipit của màng tế bào. Tuỳ thao cách sắp đặt của nguyên tử ở các vị trí khác nhau, tuỳ cách kết hợp hai nhóm hydroxit và nhóm xeton mà chia thành 4 chất prostaglandin.Tập hợp trong 4 nhóm chính được đặt tên là A,B,E,F trong đó 2 nhóm E, F có hoạt tính sinh học mạnh nhất. ở gia súc cái Prostaglandin được tiết ra từ nội mạc của ống sinh dục(tử cung, âm đạo). Tác dụng lớn nhất của Prostaglandin (đặc biệt nhóm pgf2a) trong chăn nuôi là điều khiển chức năng sinh sản. Tác dụng chủ yếu của nó gồm: Phá vỡ màng noãn bao để gây rụng trứng. Phá huỷ thể vàng, nang nước trên buồng trứng,gây động dục Gây hưng phấn ống sinh dục, tăng cường nhu động tử cung, kích thích mở cổ tử cung. Do đó, Prostaglandin còn được ứng dụng gây đẻ nhân tạo và trợ sản ở những ca đẻ khó, rặn đẻ yếu. 5.2. Một số chế phẩm đặt âm đạo. 5.2.1 CIDR. đây là chế phẩm được làm bằng hỗn hợp cao su và silicone có dạng hình chữ "T" hay chữ "Y". Trong mỗi dụng cụ có chứa 1,9g hormone Progesterone tự nhiên, chế phẩm này dùng để : - Điều khiển chu kì động dục của bò tơ, bò sinh sản. - Nâng cao tỷ lệ thụ tinh của bò sau khi đẻ, bò đang vắt sữa nhưng chưa động dục hoặc động dục nhưng không rụng trứng. - Dùng trong công nghệ cấy truyền phôi. Dụng cụ này có thể dùng riêng biệt hoặc có thể kết hợp với HTNC,PGF2 hoặc Cidirol(Oestradiol benzoat) hoặc cả Cidirol và PGF2 thì kết quả sẽ tốt hơn. 5.2.2.PRID. chế phẩm này được cấu tạo bằng chất dẻo silicone, dạng vòng xoắn có chứa 2 loại hormone là 1,55g Progesterone và 10mg Oestrodiol benzoat. Dùng Prid có nhiều thuận lợi trong việc gây động dục hàng loạt. Dụng cụ này cũng có thể dùng riêng biệt hoặc có thể kết hợp với HTNC, FSH,PGF2. 5.2.3.CUEMATE. Ngoài chế phẩm CIRD và PRID người ta còn dùng chế phẩm Cuemate. Đây cũng là chế phẩm hormone đặt âm đạo để điều khiển chu kì động dục của bò. Dụng cụ này cũng được chế tạo từ hỗn hợp cao su và Silicone có dạng hình chữ "Y" với hai cánh xoắn hình lò xo. Trong mỗi dụng cụ có chứa 1,56g Progesterone. Dụng cụ này thường dùng kết hợp với Oestradiol hay HTNC. Phần III đối tượng nội dung và phương pháp nghiên cứu I. đối tượng. Đề tài được thực hiện trên đàn bò lai hướng sữa (lai Sind x Holstein Friz) F1, F2, F3 (co 50, 75 và 87,5 máu HF) tại Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì. Đàn bò được nuôi nhốt và bán chăn thả với quy mô vừa và nhỏ ở các trại và các nông hộ gia đình. II. nội dung nghiên cứu. Đề tài được thực hiện với 3 nội dung chính: 2.1. Đánh giá tình hình sinh sản của đàn bò lai hướng sữa ở TTNC bò và ĐC Ba Vì. Đánh giá tình hình sinh sản của đàn bò lai tại Trung tâm thông qua các chỉ tiêu sau: - Tuổi động dục lần đầu - Tuổi đẻ lứa đầu - Thời gian động dục lại sau khi đẻ - Khoảng cách giữa hai lứa đẻ - Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai - Sản lượng sữa trên một chu kỳ - Tỷ lệ bê cái/bê đực 2.2. Khảo sát một số bệnh sản khoa thường gặp - Bệnh trong giai đoạn mang thai - Bệnh trong quá trình sinh đẻ - Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai 2.3. một số biện pháp kĩ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản của đàn bò lai tại Trung tâm. 2.3.1.Sử dụng một số hormone hướng sinh dục . Gây động dục phối giống bằng pgf2a trên bò chậm động dục do thể vàng tồn lưu bệnh lý. Sử dụng Prostaglandin hai liều cách nhau 11 ngày trên bò chậm sinh. Sử dụng Progesterone kết hợp HTNC trên bò chậm sinh. Sử dụng HCG trên bò động dục mà không rụng trứng. Sử dụng dụng cụ đặt âm đạo trên bò chậm động dục . 2.3.2.Sử dụng dung dịch Lugon 0,1 – 0,2% thụt rửa cho bò sau khi đẻ. III. phương pháp nghiên cứu 3.1. Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu sinh sản Đánh giá các chỉ tiêu sinh sản bằng phương pháp theo dõi ghi trực tiếp, qua sổ sách giống, sổ đẻ của trung tâm và điều tra trực tiếp ở các nông hộ chăn nuôi. - Tuổi phối giống lần đầu: được tính từ khi con vật sinh ra tới khi bò phối giống lần đầu (thời gian tính tháng) - Tuổi đẻ lứa đầu: được tính từ khi con vật sinh ra đến khi đẻ lứa đầu tiên (thời gian tính bằng tháng) - Thời gian động dục lại sau khi đẻ: là từ khi con vật đẻ đến lần động dục đầu tiên sau đó (thời gian tính bằng ngày) - Khoảng cách giữa hai lứa đẻ: được xác định bằng khoảng thời gian từ lần đẻ này đến lần đẻ tiếp theo (thời gian tính bằng ngày hay tháng) - Hệ số phối giống: là số lần phối cho một bò có chửa bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo do dẫn tinh viên theo dõi, ghi chép vào sổ phối giống Số lần phối trong một năm Hệ số phối giống = Số bò có chửa trong năm - Tỷ lệ thụ thai: Là tỷ lệ % giữa số bò có chửa trên số bò được phối giống trong một năm Số bò có chửa trong năm Tỷ lệ thụ thai = *100% Số bò phối trong năm - Sản lượng sữa trên một chu kỳ: Là tổng sản lượng sữa của một con trên 305 ngày vắt sữa -Tỷ lệ bê cái/bê đực đẻ ra là tỷ lệ bê cái đẻ rachia cho bê đực đẻ ra trong một năm. Số bê cái - Tỷ lệ bê cái/bê đực = *100% Số bò đực 3.2. Phương pháp đánh giá tỷ lệ mắc bệnh sản khoa ở bò lai hướng sữa nuôi tại trung tâm. Đánh giá tỷ lệ trên bằng phương pháp khám trực tiếp, theo dõi trực tiếp, qua sổ sách của thú y viên tại khu vực và qua sổ sách của các trại và các hộ chăn nuôi. Bệnh trong thời gian mang thai: là những bệnh mà gia súc mắc phải từ khi phối giống có kết quả đến khi gia súc sổ thai bình thường ra ngoài. +Tỷ lệ đẻ non, sảy thai: là những trường hợp sau khi phối trên 3 tháng (đã khám thai) đến 8,5 tháng có chửa mà đẻ, sảy thai,teo biến. Tỷ lệ đẻ non, sảy thailà tỷ lệ % số bò đẻ non, sảy thai trên tổng số bò phối giống có chửa. Tỷ lệ đẻ non, sảy thai (%) = +Tỷ lệ rặn đẻ quá sớm +Tỷ lệ bại liệt trước khi đẻ Bệnh trong thời gian gia súc sinh đẻ: là những bệnh mà gia súc mắc phải từ khi gia súc mẹ có triệu chứng rặn đẻ đầu tiên đến khi sổ thai ra ngoài. + Tỷ lệ rặn đẻ quá yếu + Tỷ lệ rặn đẻ quá mạnh + Tỷ lệ sát nhau: Là tỷ lệ (%) số ca đẻ không ra nhau sau 6 giờ trên tổng số ca đẻ . Tỷ lệ sát nhau(%) = +Tỷ lệ đẻ khó: Hiện tượng đẻ khó là trong quá trình sinh đẻ của gia súc, thời gian sổ thai bị keo dài nhưng thai vẫn chưa được đẩy ra ngoài. Tỷ lệ đẻ khó là tỷ lệ % số ca đẻ khó trên tổng số ca đẻ Tỷ lệ đẻ khó (%) = - Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai: là những bệnh mà gia súc mắc phải tính từ khi sổ thai ra ngoài đến khi phối giống co kết quả của lần tiếp theo(đối với bò trên một lứa),còn đối với bò tơ được tính từ khi thành thục về tính đến khi phối giống có kết quả + Tỷ lệ bại liệt sau khi đẻ + Tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục + Tỷ lệ chậm sinh + Tỷ lệ vô sinh tạm thời. + Tỷ lệ vô sinh tuyệt đối 3.3. phương pháp sử dụng chế phẩm hormone hướng sinh dục và dung dịch thụt rửa 3.3.1.Phương pháp sử dụng chế phẩm hormone hướng sinh dục. 3.3.1.1.Sử dụng Prostaglandin (nhóm pgf2a) để kích thích động dục Tiêm PGF2 cho bò có thể vàng tồn lưu bệnh lý và sử dụng PGF2 kích thích động dục cho những bò chậm động dục. Tất cả những bò chậm động dục sau khi đẻ, bò tơ, động dục ngầm, bộ phận sinh dục không viêm nhiễm đều được khám lại sau khi tiêm PGF2 2 lần cách nhau 11 ngày (bất kỳ giai đoạn nào của chu kỳ) Để phân biệt thể vàng tồn lưu bệnh lý và thể vàng của chu kỳ sinh dục, chúng tôi tiến hành khám sản khoa kiểm tra buồng trứng với khoảng cách 10 ngày khám một lần (theo Witkowski, 1990; Hoàng Kim Giao,1997)[]. Thể vàng của chu kỳ sinh dục bình thường được tồn tại trên buồng trứng của bò từ ngày thứ 5 –17 (ngày của chu kỳ sinh dục), tới ngày thứ 17 Prostaglandin do tử cung tiết ra sẽ có tác dụng làm tiêu biến thể vàng, biểu hiện động dục sẽ được lặp lại.Vì vậy lần khám đầu tiên nếu ta thấy thể vàng trên buồng trứng lớn và cứng, sau 10 ngày khám lại nếu vẫn thấy thể vàng tồn tại như trên thì ta kết luận là thể vàng tồn lưu bệnh lý. (Trên thực tế thể vàng chu kỳ sinh dục bao giờ cũng to mềm , chân rộng và mềm còn thể vàng bênh lý bao giờ cũng vừa phải, cứng và chân thể vàng bao giờ cũng rắn hơn). Sau đó theo dõi động dục và phối giống khi bò chịu đực nếu không thụ thai ở chu kỳ đầu, tiếp tục theo dõi động dục và phối giống ở chu kỳ sau, tỷ lệ thụ thai được tính ở cả 2 chu kỳ. (pgf2a do hãng Intervet (Hà Lan) sản xuất) 3.3.1.2 Sử dụng Prostaglandin kết hợp HTNC(hay PMSG) Những bò cái tơ có trọng lượng >= 230 kg, bò sinh sản sau khi đẻ 4 tháng, có sinh lý sinh sản bình thường, thể trạng không tốt, không có thể vàng. - Gây động dục cho bò bằng phương pháp tiêm progesteron kết hợp với HTNC với sơ đồ sau: 1 3 5 7 9 10 25mg 50mg 75mg 6 – 8đvc/kg Theo dõi động dục Ngày Progesterol HTNC và phối giống Với sơ đồ này bò được tiêm progesterone vào các ngày thứ 1,3,5, liều 25-50-75mg. Tiêm huyết thanh ngựa chửa vào ngày thứ 7 liều lượng 6-8 đ.v.c/kgP, ngày thứ 9 trở đi theo dõi động dục và phối giống. 3.3.1.3.Sử dụng HCG Với những bò động dục nhưng không rụng trứng hay còn gọi là động dục không hoàn toàn Sử dụng HCG tiêm cho bò vứi liều 2500 – 3000 UI/con trước khi phối giông từ 6-10 giờ. (tiêm bắp) 3.3.1.4.Sử dụng dụng cụ đặt âm đạo - Đặt CIDR: Sử dụng CIDR có thể theo sơ đồ sau: Với bò đẻ không động dục: 0 6 7 12 Ngày Đặt CIRD Rút Tiêm 5mg Theo dõi động dục oestradiol benzoat và phối giống Đối với bò cái tơ chậm động dục: 0 6 10 12 13 Ngày Đặt CIRD Tiêm (1/2 liều) Rút Theo dõi động dục và phối + oestradiol benzoat PGF2a -Đặt PRID: Đặt Prid kết hợp với HTNC trên bò sau khi đẻ chậm động dục theo sơ đồ sau: 0 12 13 14 Đặt Prid Rút Tiêm Theo dõi động dục và phối Ngày 1000 UI HTNC Đặt CUEMATE: Đặt Cumate cho bò chậm động dục theo sơ đồ sau: 0 12 13 14 Ngày Đặt Rút Tiêm Theo dõi động dục và phối Curmate 1000 UI HTNC 3.3.2.Thụt rửa cho bò sau khi đẻ. Bò sau khi đẻ 7 –10 ngày thụt rửa bằn dung dịch lugon 0,1 – 0,2%. Sau đó theo dõi động dục lại sau khi đẻ 3.4.Phương pháp xử lý số liệu Số liệu của các chỉ tiêu theo dõi được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh vật học Công thức được sử dụng trong tính toán: ; Trong đó: : giá trị trung binmhf cua tổng số mẫu S2: phương sai mẫu n: dung lượng mẫu quan sát ni: tần số của mẫu thử i x: độ lệch chuẩn : phương sai của số trung bình k: số tổ phân chia - Hệ số biến dị; Cv% = - Số liệu được xử lý trên máy vi tính theo chương trình minitab 3.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Thời gian nghiên cứu từ 6/9/2004 - 6/2/2005 - Địa điểm nghiên cứu: Trên đàn bò lai hướng ssữa (F1, F2,F3) được nuôi tại trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì - Hà Tây Phần IV Kết quả nghiên cứu và thảo luận I. Kết quả điều tra về một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa tại TTNC Bò và ĐC Ba Vì Cơ cấu đàn bò của trung tâm Bảng 1a. Cơ cấu đàn bò sữa của trung tâm năm 2003 và 2004 Độ tuổi Năm Bê Lỡ Tơ Sinh sản Tổng % Năm 2003 F1 3 3 5 14 55 13.96 F2 9 13 19 111 152 38.58 F3 17 41 24 56 138 35.03 Jersey 3 1 4 19 27 6.85 HF 2 3 7 10 22 5.58 Tổng 394 100 Năm 2004 F1 5 4 4 48 61 14.32 F2 8 10 14 123 155 36.38 F3 15 28 41 68 152 35.68 Jersey 4 3 3 21 33 7.75 HF 6 2 5 14 25 5.87 Tổng 4263 100 Ba Vì là vùng đất nằm phía tây đông bắc của tỉnh Hà Tây, có điều kiện tự nhiên cũng như khí hậu khá thuận lợi cho việc chăn nuôi bò sữa. Vì vậy, trong những năm gần đây, với chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi bò sữa, đàn bò sữa ở Ba Vì phát triển khá nhanh cả về số lượng cũng như chất lượng. Trong đó, TTNC bò và ĐC Ba Vì (thuộc vùng núi Ba Vì ) chiếm chủ yếu. Năm 2001 đàn bò sữa của trung tâm chỉ có 240 con, năm 2004 là 426 con bò sữa 2. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại trung tâm. 2.1 Tuổi phối giống lần đầu Qua theo dõi và điều tra trên địa bàn tại trung tâm, chúng tôi đã xác định được tuổi phối giống lần đầu của chúng. Kết quả được trình bày ở bảng 2. Qua bảng 2 chúng tôi thấy, tuổi phối giống lần đầu giữa 3 nhóm bò có sự khác nhau. Nhóm bò F1 là 18.87 ± 0,81 tháng trên 26 con bò theo dõi, nhóm bò F2 là 16.68 ± 0,63 tháng trên 43 con, nhóm bò F3 là 17.32 ± 0,77 tháng trên 37 con. Sự sai khác về tuổi phối giống lần đầu ở cả 3 nhóm trên có thể là do nguyên nhân về điều kiện nuôi dưỡng. Theo Nguyễn Trọng Tiến 1991{ }, mức độ dinh dưỡng thấp sẽ kìm hãm sự sinh trưởng của cơ thể và sự còi cọc sẽ thường đi kèm với sự thành thục về tính chậm chạp. Khi nghiên cứu trên đàn bò lai hướng sữa nuôi đại trà tại Ba Vì (Nguyễn Kim Ninh, 1994 []) đã tiến hành nuôi thí nghiệm lô bê F1 từ 7 - 24 tháng tuổi thì thấy tuổi phối giống lần đầu là 19,06 ± 1,14 tháng. Còn tuổi phối giống lần đầu của bò vàng Việt Nam là 22,5 tháng (Lê Xuân Cương, 1993 [ ]). Theo Tăng Xuân Lưu, 1999 [] nghiên cứu trên đàn bò F1 và F2 của khu vực Ba Vì thì tuổi phối giống lần đầu tương ứng là 26,4 và 27,4. Như vậy tuổi phối giống lần đầu ở đàn bò lai hướng sữa của Trung tâm có được rút ngắn hơn so với bò vàng Việt Nam và đàn bò lai hướng sữa được nuôi cùng khu vực các năm trước đây. 2.2. Tuổi đẻ lứa đầu. Qua điều tra và theo dõi về tuổi đẻ lứa đầu, chúng tôi có kết quả sau. Kết quả được trình bày ở bảng 2. Qua bảng 2 chúng tôi thấy tuổi đẻ lứa đầu của F2 sớm nhất là 25.89 ± 0.42 tháng, khi điều tra trên 43 con, của giống bò F3 là 27.12 ± 1.07 tháng trên 37 con, của nhóm bò F1 là 28.72 ± 0.73 tháng trên 26 con. Sở dĩ có sự sai khác như vậy là do nhiều nguyên nhân ttác động đã ảnh hưởng đến tuổi đẻ lứa đầu, đặc biệt là yếu tố về dinh dưỡng và giống. Nhưng trong cùng một điều kiện nuôi dưỡng thì giống bò F2 (có 75% máu bò HF) lại có tuổi đẻ lứa đầu thấp hơn giiống bò F3 (có 87,5% máu bò HF) là vì một phần do chế độ dinh dưỡng và điều kiện ngoại cảnh. Về ngoại cảnh thì giống bò F2 thích nghi tốt hơn F3. Về dinh dưỡng thì giống bò F3 đòi hỏi phải có chề độ dinh dưỡng cao hơn nhung do ở Trung tâm thường chăm sóc cùng một chế độ giưa các giống bò lai vì vậy giống bò F2 phát huy tiềm năng sinh học tốt hơn. Theo Nguyễn Quốc Đạt, Vũ Văn Nội, 1998 [] cho biết tuổi đẻ lứa đầu 3 nhóm bò F1, F

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1 230.doc
Tài liệu liên quan